Ngày xưa có một người đàn ông góa vợ và một người đàn bà góa chồng. Người đàn ông có một con gái, người đàn bà cũng có một con gái. Hai đứa bé quen nhau thường rủ nhau đi chơi rồi về nhà người đàn bà góa. Bác ta bảo đứa con gái người đàn ông:
– Này cháu ạ, cháu về bảo bố là bác muốn lấy bố. Như thế, thì rồi sáng nào cháu cũng được rửa mặt bằng sữa và uống rượu vang, con bác thì chỉ rửa mặt bằng nước lã và uống nước lã thôi.
Cô gái về nhà kể lại cho bố nghe. Người đàn ông nghĩ bụng:
– Không biết nên làm thế nào đây nhỉ! Lấy vợ thì sướng đấy và cũng khổ đấy.
Sau cùng, bác phân vân không biết nên quyết định thế nào, liền tháo một chiếc ủng ra bảo con
– Con cầm lấy chiếc giầy ủng này. Ở đế có một cái lỗ thủng. Con đem lên buồng xép trên gác treo lên đinh to rồi đổ nước vào. Nếu giầy giữ được nước thì bố lại cưới vợ, nếu nước chảy thì thôi.
Cô gái làm theo lời bố dặn. Nước làm cho da căng lấy kín chỗ thủng, giầy đầy nước. Cô đến bảo cho bố biết việc xảy ra. Bố bèn đích thân đến, thấy đúng thế. Bác liền đến nhà bà góa hỏi làm vợ. Lễ cưới được tổ chức.
Sáng hôm sau, khi hai cô dậy thì trước mặt cô con riêng người đàn ông đã có sữa để rửa mặt và rượu vang để uống, còn trước mặt cô con riêng người đàn bà thì chỉ có nước lã. Sáng ngày thứ hai trước mặt cô con riêng của người đàn ông cũng như cô con riêng của người đàn bà đều có nước lã để rửa mặt và nước lã để uống. Sang đến ngày thứ ba, trước mặt cô con riêng của người đàn ông có nước lã để rửa mặt và nước lã để uống. Còn trước mặt cô con gái người đàn bà có sữa để rửa mặt và rượu vang để uống, và cứ thế tiếp mãi. Người đàn bà ghét cay ghét đắng con chồng, chỉ tìm cách hành hạ nó mỗi ngày một thêm khổ sở. Mụ lại đố kỵ vì con chồng thì xinh đẹp, dễ thương, con gái mụ thì xấu xa ghê tởm.
Một hôm mùa rét, tiết trời băng giá, tuyết phủ đầy núi và thung lũng, mụ làm một chiếc áo bằng giấy, gọi con chồng lại bảo:
– Mày mặc chiếc áo này mà vào rừng hái cho tao một rổ dâu đầy, tao thèm dâu lắm.
Cô gái đáp:
– Trời ơi, mùa đông làm gì có dâu! Đất giá lạnh, tuyết phủ hết. Mà sao lại bắt con mặc áo giấy mà đi? ở ngoài rét, hơi thở giá lạnh. Gió thổi như cắt da, buốt như gai đâm vào thịt.
Mẹ ghẻ bảo:
– À, mày lại cãi tao à? Muốn sống thì đi ngay có lấy được đầy rổ dâu thì hãy vác mặt v
Rồi mụ đưa cho cô một mẩu bánh mì rắn mà bảo:
– Ăn cả ngay đấy nhé!
Mụ nghĩ bụng, con chồng ra ngoài sẽ bị chết vì đói rét, thế là rảnh mắt mụ mãi mãi.
Cô gái vâng lời, mặc áo giấy vào, mang rổ ra đi. Tuyết phủ mênh mông. Không nhìn thấy một gốc cây xanh nhỏ. Cô vào rừng thấy một ngôi nhà nhỏ, có ba người lùn đứng trông ra. Cô khẽ gõ và cửa chào họ. Họ bảo cô vào. Cô vào buồng, ngồi bên chiếc ghế dài bên lò sưởi. Cô định sưởi và ăn sáng. Những người lùn bảo:
– Cho bọn tôi xin một tí.
Cô vui lòng chia mẩu bánh mì làm hai, cho họ một nửa. Họ hỏi cô:
– Trời mùa đông thế này, cô mặc chiếc áo mỏng manh vào rừng làm gì?
Cô đáp:
– Trời ơi, tôi phải hái cho được một rổ dâu đây, có lấy được thì mới dám về nhà.
Cô ăn xong bánh, họ đưa cho cô một cái chổi mà bảo:
– Cô cầm ra chỗ cửa sau mà quét sạch tuyết đi.
Khi cô ra ngoài rồi, ba người lùn bảo nhau:
– Cô ấy ngoan và tốt bụng quá, chia bánh cho chúng ta, vậy thì nên cho cô ấy cái gì nhỉ?
Người th
– Tôi ban cho cô ấy sắc đẹp ngày một lộng lẫy hơn.
Người thứ hai nói:
– Tôi ban cho cô ấy điều này: Cứ nói một tiếng thì một đồng tiền vàng ở miệng rơi ra.
Người thứ ba nói:
– Tôi ban cho cô ấy điều này: Một ông vua sẽ đến lấy cô làm vợ.
Cô bé làm theo lời mấy người lùn. Cô đem chổi ra sau ngôi nhà nhỏ quét tuyết. Các bạn có biết cô bé thấy gì không? Toàn dâu chín là dâu chín; dâu hiện ra đỏ thắm trên nền tuyết trắng. Cô mừng rỡ nhặt đầy rổ. Rồi cô cảm ơn những người lùn, bắt tay chào từng người rồi chạy về nhà đưa cho dì ghẻ thứ mà bà hạch. Cô bước vào, vừa mở mồm ra thì một đồng tiền rơi ra ở mồm. Cô liền kể lại việc xảy ra trong rừng; cứ nói một tiếng là có một đồng tiền vàng rơi ở mồm ra, chẳng mấy chốc mà phòng đầy tiền vàng.
Cô em con dì ghẻ kêu lên:
– Kìa trông có kẻ làm cao, vứt tiền như rác kìa!
Trong thâm tâm, cô ta ghen ghét, nên cũng muốn vào rừng tìm dâu.
Mẹ bảo:
– Không được đâu, con gái nhỏ yêu dấu của mẹ ạ! Trời rét lắm. Con của mẹ đến chết rét mất.
Nhưng cô không để cho mẹ được yên, nên cuối cùng mẹ cũng phải chịu may cho cô một chiếc áo lộng lẫy để cô mặc, đưa cho cô bánh mì bơ và bánh ngọt đem theo đi ăn đường. vào rừng, đến đúng ngôi nhà nhỏ. Ba người lùn cũng đang đứng trông ra. Nhưng cô không buồn quay lại nhìn họ, cũng chẳng buồn chào hỏi họ, cứ thế lật đật bước vào phòng, ngồi bên lò sưởi lấy bánh mì bơ và bánh ngọt ra ăn.
Những người lùn hỏi cô:
– Cho chúng tôi ăn một tí nào.
Cô đáp:
– Mình tôi ăn còn chẳng đủ còn đâu mà chia cho người khác.
Cô ăn xong. Họ bảo:
– Đây có cái chổi, cô cầm lấy ra quét sạch đằng sau nhà.
Cô đáp:
– Úi chà, tôi có là đầy tớ của các người đâu.
Cô thấy họ chẳng định cho cô gì cả liền đi ra cửa.
Những người lùn bàn nhau:
– Con bé này hư, độc ác, đố kỵ, ai có gì cũng ghen, ta cho nó gì đây?
Người thứ nhất bảo:
– Tôi cho nó điều này: Mỗi ngày một xấu thêm.
Người thứ hai nói:
– Tôi cho nó điều này: Cứ nói mỗi một tiếng là một con cóc nhảy ở mồm ra.
Người thứ ba nói:
– Tôi muốn nó chết bất đắc kỳ tử.
Cô gái ra ngoài tìm dâu, nhưng chẳng được quả nào, càu nhàu đi về. Cô vừa mở mồm định kể lại cho mẹ chuyện xảy ra trong rừng thì nói mỗi tiếng là có một con cóc nhẩy ở miệng ra, khiến mọi người ghê tởm.
Dì ghẻ càng tức giận hơn nữa, chỉ tìm cách làm cho đứa con riêng của chồng, đang mỗi ngày một đẹp hơn, đau đớn ê chề.
Mụ lấy một cái nồi bắc lên lửa để luộc sợi. Luộc xong, mụ buộc sợi lên vai cô gái đáng thương, đưa cho cô một chiếc rìu, bắt cô ra sông đã đóng băng đào một cái lỗ để chuốt sợi. Cô ngoan ngoãn vâng lời, đi đào một cái lỗ trong đám băng. Cô đang mải cuốc thì có một cỗ xe đẹp lộng lẫy chạy đến, trong có vua ngồi. Xe ngừng lại, vua hỏi:
– Em ơi, em là ai, làm gì ở đây?
– Tâu bệ hạ, em là một cô gái nghèo khổ đang chuốt sợi.
Nhà vua động lòng thương, thấy cô đẹp quá, liền bảo:
– Em có muốn lên xe cùng đi với ta không?
Cô đáp là cô rất vui lòng, vì cô mừng là được đi rảnh mắt mẹ ghẻ và con gái mụ.
Cô liền lên xe đi với vua. Đến cung điện, lễ cưới được tổ chức linh đình, theo đúng lời ban của những người lùn.
Hơn một năm sau, bà hoàng hậu trẻ tuổi sinh ra được một đứa con trai.
Mẹ ghẻ được tin ấy cùng với con đi đến cung điện, giả vờ thăm hỏi. Nhưng vua vừa đi khỏi, không có ai ở đấy, mụ đàn bà độc ác nắm lấy đầu hoàng hậu, còn con gái hắn nắm lấy chân bà, chúng vứt bà qua cửa sổ xuống dòng nước chảy cạnh đó. Đứa con gái xấu xí của mụ nằm vào chỗ bà hoàng hậu ở giường, mụ già trùm khăn kín đầu nó. Khi vua về định nói với vợ thì mụ kêu lên:
– Bệ hạ hãy gượm đã, bây giờ chưa được đâu. Hoàng hậu đương ra mồ hôi như tắm, bệ hạ hãy để cho hoàng hậu nghỉ yên ngày hôm nay.
Vua không ngờ có chuyện ác gì nên mãi sớm hôm sau mới lại đến. Vua định nói chuyện với vợ. Hoàng hậu giả cứ vừa trả lời thì cứ mỗi một tiếng là có một con cóc chứ không phải một đồng tiền vàng ở trong miệng ra. Vua hỏi sao vậy thì mụ già bảo đó là tại mồ hôi đổ ra nhiều quá, nhưng rồi sẽ thôi.
Nhưng đến đêm, gã phụ bếp thấy một con vịt bơi qua đường cống vào nói:
– Nhà vua làm gì thế?
Không ai trả lời, vịt lại nói:
– Khách khứa của ta làm gì thế?
Gã phụ bếp lên tiếng đáp:
– Họ ngủ say cả.
Vịt lại hỏi:
– Con nhỏ ta làm gì?
Gã đáp:
– Đang ngủ say trong nô
Vịt liền hiện nguyên hình thành bà hoàng hậu cho con bú, rũ chiếc giường nhỏ của nó, đắp chăn cho nó, rồi lại biến thành vịt bơi qua cống mà đi.
Bà đến ba đêm nữa. Đêm thứ ba, bà bảo gã phụ bếp:
– Ngươi đi tâu vua mang gươm đến vung ba lần trên đầu ta ở ngưỡng cửa.
Gã phụ bếp chạy đi bảo vua. Vua mang gươm lại vung trên đầu bóng ma hoàng hậu ba lần. Đến lần thứ ba, vợ vua hiện ra trước mặt, vui tươi, khỏe mạnh hơn lúc nào hết.
Vua mừng lắm, nhưng giấu hoàng hậu trong một phòng, mãi đến hôm chủ nhật, đứa bé làm phép rửa tội. Lễ rửa tội xong, vua bảo:
– Một kẻ khiêng người khác ra khỏi giường, ném xuống nước thì đáng tội gì?
Mụ già đáp:
– Tốt nhất là bỏ tên côn đồ ấy vào một cái thùng cho lăn từ trên núi xuống.
Vua phán:
– Ngươi đã tự kết án đó.
Vua sai đi lấy một chiếc thùng, bỏ mẹ con mụ vào đóng lại, thả từ trên núi cho lăn xuống sông.
Các em đã bao giờ nhìn thấy con cóc chưa? Nếu mỗi lời nói có một con cóc nhảy ra từ miệng như con bà gì ghẻ trong truyện thì thật là đáng ghê sợ, đúng không nào? Kẻ độc ác phải trả giá như vậy đó. Vậy các em hãy luôn ngoan ngoãn để không bao giờ phải bị trừng phạt như vậy nhé!
12. BA SỢI TÓC VÀNG CỦA QUỶ
Ngày xưa, ở một làng kia, có một người đàn bà nghèo sinh được một đứa con trai. Khi nó ra đời, người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa. Vào lúc đó, nhà vua vi hành qua làng, không một ai biết. Vua hỏi trong làng có sự gì lạ không, thì dân làng tâu:
– Gần đây có một đứa trẻ mà người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa.
Nhà vua vốn độc ác nghe nói như vậy tức lắm, liền đến ngay nhà bố mẹ đứa trẻ, giả vờ thân mật bảo:
– Các bác nghèo khó, hãy giao con cho tôi để tôi chăm sóc nó cho.
Hai vợ chồng nhà kia trước con từ chối, sau thấy người lạ mặt đưa cho nhiều vàng, nghĩ bụng: “Con mình là đứa tốt số. Như thế lại hay cho nó”, nên cuối cùng bằng lòng trao con.
Vua đặt đứa trẻ vào một cái hòm, cưỡi ngựa tới một chỗ nước sâu, ném hòm xuống, nghĩ thầm: “Thế là con gái ta thoát khỏi tay anh chàng rể bất đắc dĩ này”.
Nhưng cái hòm không chìm, cứ nổi như một chiếc tàu nhỏ, nước không thấm vào một giọt. Hòm trôi lềnh bềnh cách kinh kỳ hai dặm, đến cửa cổng một cối xay thì bị mắc lại. May lúc đó có thằng bé xay bột trông thấy, lấy móc kéo vào. Nó tưởng trong có của, nhưng khi mở ra thì thấy một đứa bé khỏe mạnh, khôi ngô. Nó mang đứa trẻ về cho chủ. Hai vợ chồng này không có con, nên mừng lắm.
Họ hết sức chăm sóc, đứa bé hay ăn chóng lớn.
Một hôm, tình cờ vua vào nhà xay để tránh mưa. Vua hỏi vợ chồng người xay bột có phải gã thanh niên cao lớn là con trai họ không.
Họ đáp:
– Tâu bệ hạ không phải, đó là đứa trẻ nhặt được cách đây mười bốn năm. Nó nằm trong một cái hòm trôi dạt tới cửa cổng, thằng bé xay bột nhà chúng tôi đã vớt nó lên.
Vua nghĩ thầm chắc là đứa bé tốt số mà mình đã vứt xuống nước trước kia, bèn nói:
– Này ta muốn nhờ gã này mang một lá thư đến cho hoàng hậu, có được không? Ta sẽ thưởng cho hai đồng vàng.
Bố mẹ nuôi vâng lệnh bảo gã chuẩn bị đi.
Vua viết thư cho hoàng hậu nói: “Khi gã thanh niên mang thư này đến, thì giết nó ngay và chôn nó đi. Phải thi hành mệnh lệnh này trước khi ta về”.
Chàng thanh niên cầm thư lên đường, nhưng đi lạc đến một khu rừng to.
Trong đêm tối, chàng thấy một ánh đèn, lại gần thì là một cái nhà nhỏ.
Chàng vào nhà thấy một bà lão ngồi một mình bên bếp lửa. Bà lão thấy chàng, hoảng sợ hỏi:
– Con ở đâu đến? Con đi đâu?
– Con ở nhà xay đến. Con phải mang thư đến cho hoàng hậu, nhưng bị lạc trong rừng. Con muốn xin ngủ lại đêm nay ở đây.
– Tội nghiệp! Con lạc vào nhà kẻ cướp rồi. Chúng về thì chúng sẽ giết con.
– Thôi, muốn ra sao thì ra. Cháu chẳng sợ. Vả lại cháu mệt quá, không đi được nữa đâu.
Chàng nằm lên ghế dài ng
Lát sau bọn cướp về, tức giận hỏi gã thanh niên nào ngủ đó.
Bà lão nói:
– Trời ơi! Thằng bé có tội tình gì đâu! Nó lạc vào rừng, tôi thương tình cho nó vào đây. Nó phải mang thư cho hoàng hậu đấy.
Bọn cướp bóc dấu niêm phong thư thấy nói là phải giết ngay người mang thư này. Bọn cướp tuy nhẫn tâm mà cũng động lòng, tên tướng cướp xé tan lá thư đó, viết lá thư khác đại ý nói phải gả công chúa ngay cho chàng thanh niên mang thư này đến. Họ để cho chàng ngủ yên đến sáng. Sáng hôm sau, họ giao thư cho chàng và chỉ đường cho đi.
Hoàng hậu nhận được thư, theo lệnh tổ chức đám cưới linh đình, gả công chúa cho chàng tốt số.
Chú rể đẹp trai và tốt nết, công chúa sống với chồng hạnh phúc lắm.
Sau đó ít lâu, vua về, thấy lời tiên tri đã thành sự thật, đứa bé tốt số đã lấy con mình, bèn nói:
– Chẳng hiểu sao lại thế, trong thư ta ra lệnh khác cơ mà.
Hoàng hậu lấy thư đưa vua xem. Vua thấy thư đã bị đánh tráo, bèn hỏi con rể thư cũ đâu, sao lại đánh tráo thư khác.
Chàng đáp:
– Tâu bệ hạ, con không biết. Chắc ban đêm con ngủ trong rừng, thư đã bị đánh tráo.
Vua tức giận nói:
– Như thế không ổn. Muốn lấy con ta thì phải xuống âm phủ nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ đem về nộ. Nếu người làm nổi thì vẫn được phép làm chồng con ta.
Vua định làm như thế để tống khứ chàng thanh niên đi.
Nhưng chàng đáp:
– Con không sợ quỉ, con sẽ lấy được tóc vàng về.
Chàng bèn cáo từ vua ra đi.
Khi chàng đến một thành phố lớn, lính canh hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng đáp:
– Gì cũng biết.
Lính canh nói:
– Thế anh bảo giùm chúng tôi tại sao giếng ở chợ chúng tôi trước kia luôn chảy ra rượu vang, mà nay lại cạn hẳn đi, đến một giọt nước cũng không còn.
Chàng nói:
– Chờ khi tôi về, tôi sẽ bảo cho biết.
Chàng lại đi, đến một thành phố khác. Lính canh cũng hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng lại đáp:
– Gì cũng biết.
Lính canh nói:
– Thế anh bảo giùm chúng tôi biết tại sao trong thành chúng tôi có cây táoước kia ra quả vàng mà nay đến một chiếc lá cũng không còn?
Chàng lại đáp:
– Chờ tôi về, tôi sẽ cho biết.
Chàng lại đi, đến một con sông lớn.
Người lái đò hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng đáp:
– Gì cũng biết.
Người lái đò nói:
– Thế anh bảo giùm tôi biết tại sao tôi cứ phải chở đò qua lại trên khúc sông này không có ai thay.
Chàng đáp:
– Để khi trở về tôi sẽ bảo cho biết.
Qua sông đến bến, chàng thấy cửa âm phủ tối om, ám khói. Con quỉ đi vắng. Ở nhà chỉ có một bà già ngồi trong một chiếc ghế bành rộng. Bà không có vẻ ác. Bà hỏi:
– Mày muốn gì?
– Cháu muốn lấy ba sợi tóc của con quỉ, nếu không thì mất vợ.
– Kể thì quá đấy. Nếu con quỉ về mà thấy mày ở đây thì chắc chắn là mày mất đầu. Nhưng thôi, tao thương hại mày, để xem có cách nào giúp mày không.
Bà làm phép cho chàng biến ra kiến và bảo:
– Mày hãy bò vào trong áo ta thì mới toàn tính mệnh được.
– Vâng, quí hóa quá, Nhưng con còn muốn biết ba điều:
“Một là tại sao giếng nước trước kia chảy ra rượu vang, nay bỗng cạn hẳn, không còn một giọt nước? Hai là tại sao cây táo kia trước có quả táo vàng mà giờ không có đến một cái lá? Ba là tại sao bác lái đò kia cứ phải chở đò mãi, không có ai thay”.
Bà già nói:
– Ba câu hỏi này khó thật, Nhưng mày cứ yên tâm, lắng tai nghe con quỉ nói khi ta nhổ ba sợi tóc vàng của nó nhé.
Đến tối con quỉ về nhà. Vừa vào cửa, nó đã ngờ ngợ thấy mùi gì lạ. Nó nói:
– Quái, ta ngửi như có mùi thịt người ở đây, có phải không?
Bà lão chế nó:
– Tôi vừa quét dọn ngăn nắp, bây giờ anh lại lục tung cả ra. Lúc nào mũi anh cũng chỉ ngửi thấy mùi thịt người. Thôi ngồi xuống ăn đi.
Ăn uống xong, con quỉ thấy mền mệt, tựa đầu vào gối bà già và bảo bà bắt chấy cho. Được một lát, nó thiu thiu ngủ rồi ngáy khò khò. Bà già nhổ một sợi tóc vàng của nó, để bên mình.
Con quỉ hỏi:
– Ái chà, bà làm gì thế?
Bà lão nói:
– Tôi mộng thấy s không lành, nên tôi đã nắm tóc anh đấy.
Con quỉ hỏi:
– Bà mộng thấy gì?
– Tôi nằm mộng thấy giếng ở chợ trước kia thường chảy ra rượu vang, nay cạn hẳn, đến một giọt nước cũng không còn? Tại sao thế?
Con quỉ đáp:
– Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Dưới tảng đá ở đáy giếng có một con cóc. Đem giết nó đi thì rượu vang lại chảy ra.
Bà lão lại bắt chấy cho con quỉ. Quỉ lại ngủ, Ngáy rung cả cửa kính. Bà già lại nhổ một sợi tóc nữa.
Quỉ cáu, nói:
– Ô hay, làm gì thế?
Bà lão đáp:
– Anh đừng giận nhé, tôi lại mộng đấy mà.
– Lại mộng gì nữa thế?
– Tôi thấy ở một nước nọ có một cây táo trước kia thường vẫn ra quả vàng mà nay đến một cái là cũng chẳng còn. Tại sao thế?
– Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Có một con chuột nhắt gặm rễ cây. Giết nó đi thì cây lại ra quả vàng. Nếu để chuột gặm mãi thì cây đến chết mất. Nhưng thôi, đừng có mơ mộng gì nữa nhé, để cho tôi ngủ yên, nếu còn làm tôi thức giấc, tôi sẽ tát cho đấy.
Bà lão dỗ dành con quỉ, rồi lại bắt chấy cho nó. Nó lại ngủ và ngá. Bà nhổ sợi tóc vàng thứ ba của nó.
Con quỉ chồm dậy, kêu lên và toan đánh bà, nhưng bà lại nói ngọt rằng:
– Khốn nỗi cứ mộng mãi thì biết làm thế nào?
Con quỉ tò mò hỏi:
– Bà còn mộng thấy gì nữa?
– Tôi chiêm bao thấy có một người lái đò than phiền là cứ phải chở đò qua lại mãi mà không có người thay. Tại sao thế?
Quỉ đáp:
– Ngốc quá. Nếu có ai muốn qua sông, thì hắn chỉ việc trao mái chèo cho người ấy là thoát, và người kia sẽ chở đò thay hắn thôi.
Sau khi đã nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ và đã được nghe nó trả lời ba lần, bà già để cho nó ngủ đến sáng.
Con quỉ bước chân ra khỏi cửa, thì bà liền bắt con kiến ở trong nếp áo ba ra, hóa phép biến nó lại thành người.
Bà lão nói:
– Đây ba sợi tóc vàng đây, còn ba câu trả lời của con quỉ thì mày nghe được rõ rồi chứ?
Chàng đáp:
– Vâng, cháu đã nghe rõ rồi, cháu sẽ nhớ kỹ.
Bà lão bảo:
– Thôi thế mày thoát rồi nhé. Lên đường về được rồi đấy.
Chàng cảm ơn bà lão đã giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn. Chàng đi khỏi âm phủ, Trong lòng phấn khởi vì mọi việc đều được như ý.
Khi chàng gặp bác lái đò, bác xin chàng giải đáp cho như chàng đã hứa.
Chàng tốt số nói:
– Bác hãy chở tôi sang bờ bên kia, tôi sẽ bảo bác cách giải thoát.
Tới bờ, chàng cho bác biết câu trả lời của con quỉ:
– Nếu có người muốn qua sông thì bác chỉ việc đặt mái chèo vào tay người ấy rồi đi.
Chàng lại lên đường, đến thành phố có cây trụi quả. Lính canh cũng đang chờ chàng giải đáp. Chàng nhắc lại lời của con quỉ:
– Giết con chuột nhắt gặm rễ cây đi, thì cây lại ra quả táo vàng.
Họ cám ơn chàng và biếu chàng hai con lừa tải nặng vàng.
Sau cùng, chàng đến thành phố có giếng cạn. Chàng cũng nhắc lại lời con quỉ:
– Có một con cóc ngồi dưới hòn đá ở đáy giếng, phải tìm nó giết đi, thì rượu vang lại chảy ra nhiều.
Lính canh cảm ơn chàng và cũng tặng chàng hai con la trở nặng vàng.
Chàng về tới nhà; vợ chàng vui mừng khôn xiết, vì lại trông thấy mặt chồng và thấy chồng đi gặp được mọi việc đều như
Chàng dâng vua ba sợi tóc vàng của con quỉ. Vua thấy bốn con la tải nặng vàng, mừng lắm, nói:
– Nay con đã làm xong mọi việc ta giao cho, thì con vẫn được lấy con gái ta. Này con, con lấy đâu ra nhiều vàng thế? Thật là một kho tàng vô giá!
– Con lấy ở bên kia sông, đó là cát trên bờ.
Vua hốt của, hỏi:
– Ta có lấy được không?
Chàng rể đáp:
– Bẩm muốn lấy bao nhiêu cũng được ạ. Bệ hạ bảo người chở đò đưa sang bờ bên kia thì tha hồ lấy.
Ông vua tham lam kia vội lên đường ngay. Đến bờ sông, vua ra hiệu cho bác chở đò đưa qua sông.
Người lái đò mời vua xuống thuyền. Khi sang đến bờ bên kia, bác đặt mái chèo vào tay vua rồi nhảy lên bờ. Thế là ông vua, vì tham của mà chịu tội thành anh lái đò.
– Thế vua còn trèo đò nữa không?
– Sao! Thì đã có ai cầm mái chèo cho nhà vua đâu!
Các em vừa được đọc một câu chuyện thật là hấp dẫn. Chàng trai trong truyện có xứng đáng làm Vua của một nước sau khi ông Vua tham lam và độc ác trở thành người lái đò không? Chàng là một con người dũng cảm, nhân hậu và có trái tim tràn ngập tình yêu nên chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc, đúng không nào?