Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Việc Máu

Chương 13

Tác giả: Michael Connelly

Sáng thứ Năm McCaleb thức dậy trước khi đám công nhân khuân vác ngoài cảng kịp dính dáng gì tới chuyện ngủ hay thức của ông. Chỗ cafêin ngày hôm trước ào ạt trào lên không ngớt trong huyết quản khiến ông không ngủ được. Nó làm day dứt thêm những suy nghĩ đầy phấp phỏng của ông về cuộc điều tra, về sự khác biệt giữa các khía cạnh của thực tế với niềm tin vào các thiên thần, về Graciela và về chú bé. Cuối cùng, ông chịu thua không cố ru ngủ nữa mà mở chong chong mắt chờ cho ánh sáng đầu tiên lọc vào qua mấy tấm rèm.

Chưa tới sáu giờ sáng ông đã tắm rửa, đo tim mạch và các thứ cần thiết khác rồi nuốt mấy viên thuốc. Ông mang chồng hồ sơ điều tra về lại bàn phòng khách, đặt ấm cà phê khác rồi ăn một bát ngũ cốc. Chốc chốc ông lại xem đồng hồ mà nghĩ liệu có nên gọi cho Vernon Carruthers mà không nói chuyện với Winston trước hay không.

Winston giờ này chắc chưa đến sở. Nhưng sớm hơn ba tiếng đồng hồ, tại đại bản doanh FBI ở Washington D.C., bạn của McCaleb là Vernon Carruthers ắt đã có mặt tại nhiệm sở, đơn vị Súng và Dấu vết Hung khí (SDH) chuyên trách phòng xét nghiệm tội phạm. McCaleb biết ông không nên nói chuyện với Carruthers trước khi được Winston bật đèn xanh. Đây là vụ của Winston. Nhưng khoảng cách ba tiếng đồng hồ giữa Los Angeles với Washington làm ông bồn chồn. Tận trong gan ruột McCaleb là người nôn nóng. Nỗi thôi thúc phải làm ngay cái gì đó chứ đừng để ngày trôi qua uổng phí, nó đang bức bách ông.

Xối sạch bát và để vào bồn rửa xong, ông xem đồng hồ thêm lần nữa rồi quyết định không đợi. Ông rút sổ điện thoại ra rồi gọi Carruthers đến thẳng số riêng. Anh ta nhấc máy sau một hồi chuông.

“Chào Vernon, Terry đây.”

“Terrell McCaleb! Cậu đang ở đây à?”

“Có đâu, vẫn ở Los Angeles. Cậu thế nào?”

“Cậu thì thế nào? Lâu lắm có nghe gì về cậu đâu.”

“Tớ biết, tớ biết. Nhưng tớ ổn mà. Nhờ mấy cái thẻ cậu gửi tới bệnh viện đấy. Bảo Marie là tớ cám ơn cả cô ấy nữa nhé. Có ích lắm. Tớ biết đáng lẽ tớ phải gọi hay viết thư mới phải. Tớ xin lỗi.”

“Ừ, chúng tớ đã cố gọi cậu nhưng cậu đã rời khỏi đội mà ở PTC hình như chả ai biết số mới hết. Nói chuyện với Kate thì cô ấy cũng chả biết nốt. Cô ấy chỉ biết mỗi chuyện cậu đã trả lại căn hộ ở Westwood thôi. Ai đó nữa ở PTC thì nói giờ cậu sống trên một cái thuyền. Đúng là cậu đã cắt đứt với mọi người rồi.”

“Tớ chỉ nghĩ tạm thời như vậy là tốt nhất. Ý là cho tới khi nào tớ đi lại được các thứ. Nhưng mọi chuyện hiện vẫn tốt. Cậu thì sao?”

“Không thể than phiền gì. Sắp tới cậu có khi nào tới đây không? Cậu biết là cậu vẫn còn chỗ mà. Tụi tớ chưa cho người nào của Quantico thuê hết. Cấm có dám.”

McCaleb bật cười, bảo anh ta rằng chẳng may, trước mắt ông không có kế hoạch nào là sẽ đi về miền Đông. Ông quen biết Carruthers đã gần mười hai năm nay. McCaleb làm việc bên Quantico còn Carruthers thì làm bên bộ phận Súng và Dấu vết Hung khí thuộc phòng xét nghiệm tội phạm ở Washington D.C., nhưng hình như hai người thường hay làm cùng một số vụ như nhau. Mỗi lần Carruthers đến Quantico để họp hành, McCaleb và vợ ông hồi đó là Kate lại cho anh ngủ nhờ trong căn phòng ngủ còn thừa. Phòng ấy ăn đứt so với chỗ còn trống của một căn phòng ký túc xá học viện. Đổi lại, mỗi lần McCaleb đến D.C. thì Carruthers cùng vợ là Marie lại cho ông trọ ở căn phòng vốn là của con trai họ. Cậu qua đời nhiều năm trước vì bệnh bạch cầu khi mới mười hai tuổi. Carruthers cứ nằng nặc đòi hai bên phải trao qua đổi lại như thế, mặc dù làm vậy nghĩa là McCaleb phải bỏ không dùng căn phòng rất tươm do FBI trả tiền ở khách sạn Hilton gần Dupont Circle. Đầu tiên McCaleb cảm thấy mình như kẻ xâm phạm khi ngủ trong phòng của cậu bé. Nhưng Vernon và Marie làm cho ông thấy mình như ở nhà. Lại nữa, nếu nói về cách nấu nướng kiểu miền Nam và không khí bầu bạn thì căn phòng ở Hilton không thể nào sánh được.

“Ừ, khi nào cũng được,” Carruthers cũng cười lớn mà đáp lại. “Khi nào cũng được.”

“Cám ơn bồ.”

“Theo dự tính của tớ thì ở đó chỉ mới tang tảng tinh mơ thôi. Có gì mà cậu gọi sớm thế hả?”

“Ờ, tớ gọi là có tí việc.”

“Cậu? Việc á? Tớ đang toan hỏi cậu cái thế giới về hưu tuyệt đẹp đang đãi đằng cậu ra sao kia mà. Có thật cậu đang sống trên cái thuyền chết dẫm nào đó không?”

“Có, tớ ở trên thuyền. Nhưng tớ chưa hẳn đã về vườn đâu.”

“Thôi được, việc gì nào?”

McCaleb thuật chuyện cho anh ta nghe, kể cả việc ông đã được ghép tim của Gloria Torres. McCaleb muốn Carruthers biết tất cả, không như những người có liên quan khác. Ông biết ông có thể tin cậy anh về chuyện đó, rằng anh sẽ hiểu mối dây gắn bó McCaleb với nạn nhân. Carruthers thường vẫn có mối cảm thông mạnh mẽ với các nạn nhân, nhất là nạn nhân trẻ. Nỗi đau khi phải nhìn con mình chết dần chết mòn trước mặt mình đã chuyển hóa thành sự tận tụy hết lòng với công việc, vượt xa cả các đặc vụ hiện trường giỏi nhất McCaleb từng biết.

Nửa chừng cuộc trò chuyện, tiếng ầm ầm của một chiếc tàu đang được dỡ hàng bắt đầu vang động khắp vũng neo thuyền. Carruthers hỏi cái quái gì vậy và McCaleb vừa nói cho anh rõ vừa mang điện thoại vào cabin đằng trước, đóng cửa lại để tránh tiếng ồn được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

“Vậy là cậu muốn tớ xem thử một viên đạn trong vụ này?” Carruthers hỏi khi McCaleb nói xong. “Tớ chả biết nữa. Sở Cảnh sát trưởng ở chỗ cậu, họ cũng có người giỏi mà.”

“Tớ biết chứ. Tớ chả nghi ngờ chuyện đó. Tớ chỉ muốn có một người khác hẳn nhìn với cái nhìn khác hẳn, và hơn hết tớ muốn cậu xem thật kỹ bằng máy vi tính nếu được. Mình chả bao giờ biết được đâu. Có khi mình gặp được cái gì đó không chừng. Tớ có linh cảm về cái đó.”

“Cậu với ba cái linh cảm của cậu. Tớ nhớ lắm. Thôi được, vậy tớ sẽ nhận gói hồ sơ từ đâu? Họ hay là cậu?”

“Tớ sẽ cố dùng mẹo gì đó. Nói sao để Sở Cảnh sát trưởng ở đây gửi bộ hồ sơ đi. Để cậu làm vụ này mà không danh chính ngôn thuận thì tớ không muốn. Nhưng nếu cậu có thể, tớ muốn bôi trơn cho vụ này nhanh lên chút đỉnh. Tên giết người này sẽ còn giết nhiều nữa. Chúng ta có thể cứu mạng được ai đó nếu như lần ra được hắn.”

Carruthers làm thinh một lát, McCaleb đoán rằng anh đang bận trù tính lịch trình làm việc ở trong đầu.

“Thế này nhá. Hôm nay thứ Năm. Tớ cần nhận được cái đó muộn nhất là sáng thứ Ba tuần sau, tốt nhất là thứ Hai để tớ có thể làm đâu ra đó. Thứ Tư tuần sau tớ bay tới Kansas City để làm chứng. Vụ bọn băng đảng. Họ nghĩ là tớ sẽ ở đó tới hết tuần. Thành thử nếu cậu muốn gửi nó đi thì chính cậu phải gửi cho tớ. Nếu cậu gửi, tớ sẽ chú ý làm ngay lập tức.”

“Sẽ không gây khó khăn gì cho cậu chứ?”

“Dĩ nhiên là có. Tớ bị bó giò ở đây đã hai tháng rồi, còn gì mới nữa nào? Nhưng cứ gửi bộ hồ sơ đi, tớ lo cho.”

“Tớ sẽ gửi cậu. Cách này hay cách khác, muộn nhất là thứ Hai.”

“OK, bồ.”

“Ồ, còn một chuyện nữa. Ghi số tớ đi. Như tớ nói, hiện tớ không làm việc cho cơ quan chính thức nào về vụ này cả. Đúng ra thì cậu phải liên lạc với Sở Cảnh sát trưởng mới phải, nhưng nếu cậu tìm được gì đó khác thường mà tớ được biết đầu tiên thì tớ rất cảm kích đấy.”

“Được rồi,” anh nói không chút ngần ngừ.

“Cho tớ số đi. Cả địa chỉ nữa. Marie sẽ cần đó, để gửi thiệp Giáng sinh.”

Sau khi McCaleb cho số và địa chỉ, Carruthers hắng giọng.

“Vậy gần đây cậu nói chuyện với Kate chứ?”

“Cô ấy có gọi tới bệnh viện ít hôm sau khi thay tim. Nhung lúc ấy tớ vẫn đang còn choáng. Bọn tớ không nói chuyện lâu.”

“Hừmmm. Thôi được, cậu nên gọi cô ấy dù chỉ để cô ấy biết là cậu ổn.”

“Tớ chả biết nữa. Cô ấy ra sao rồi?”

“Khỏe, chắc thế. Chưa nghe tin gì bảo là không khỏe. Cậu nên gọi cô ấy.”

“Tốt hơn là cứ để thế thôi, tớ nghĩ vậy. Bọn tớ ly dị rồi, nhớ không?”

“Thì thôi vậy. Cậu là sếp mà. Tớ sẽ gửi cô ấy một e-mail chỉ là để cô ấy biết cậu vẫn còn thở ở đó.”

Sau ít phút hàn huyên nữa, McCaleb gác máy rồi trở lên phòng khách lấy thêm cà phê. Ông đã hết sữa nên đành uống đen. Ấy chỉ là kiểu như dĩ độc trị độc, nhưng ông cần phải giữ vững đà tiến. Nếu mọi chuyện diễn ra đúng như ông mong đợi thì hôm nay hầu như ông sẽ rong ruổi trên đường suốt ngày.

Giờ đã gần bảy giờ, hầu như đã đến lúc gọi cho Winston. Ông đi ra ngoài boong nhìn trời sáng. Khối không khí bên trên mặt nước vũng đậu thuyền đã dâng lên dày đặc và những thuyền khác trông thật ma quái dưới làn sương. Phải vài tiếng nữa sương mới tan đi hết và người ta mới thấy được mặt trời. Ông nhìn sang thuyền của Buddy Lockridge thì thấy chưa có động tĩnh gì.

Lúc 7 giờ 10 phút ông cầm tập giấy nhớ ngồi vào bàn phòng khách, bấm số của Jaye Winston vào điện thoại không dây. Ông tóm được chị ngay lúc chị vừa ngồi vào bàn làm việc.

“Tôi vừa mới vào,” chị nói. “Mà tôi cứ nghĩ trong vòng hai ba hôm anh sẽ không gọi cho tôi kia chứ. Tôi đưa cho anh nhiều hồ sơ thế kia mà.”

“Ừ, chỉ là hễ đã bập vào rồi thì tôi không sao bỏ xuống được.”

“Anh nghĩ sao?”

McCaleb biết chị hỏi là hỏi ông nghĩ gì về cuộc điều tra chị đã tiến hành, đề nghị ông đánh giá.

“Tôi nghĩ chị đã làm rất chặt, nhưng điều này tôi đã biết trước rồi. Tôi thích tất cả các bước chị đã tiến hành trong vụ này Jaye ạ. Tôi không than phiền gì cả.”

“Nhưng?”

“Nhưng tôi có dăm câu hỏi ghi ra đây, nếu chị có vài phút rảnh. Có thể là đôi ba gợi ý nếu chị muốn. Một manh mối, có thể là hai.”

Winston bật cười hồn hậu.

“Các gã bên liên bang các anh luôn luôn có câu hỏi, luôn luôn có gợi ý, luôn luôn có manh mối mới.”

“Này, tôi có còn làm bên liên bang nữa đâu.”

“Ờ thì chắc cũng ăn sâu trong máu rồi. Nào thì nói đi.”

McCaleb nhìn lại mấy ghi chú đã viết ngày hôm trước và bắt đầu ngay từ góc độ Mikail Bolotov.

“Trước hết, Ritenbaugh và Aguilar, chị có gần họ không?”

“Thậm chí còn không biết nữa là. Họ không ở bên chuyên án giết người. Đội trưởng lôi họ ra khỏi ban chống trộm đặng cho tôi mượn trong một tuần. Đó là khi chúng tôi phải rà soát danh sách những kẻ đang bị thử thách theo luật ba lần phạm tội. Nhưng mà sao?”

“Ừm, tôi nghĩ trong những cái tên mà họ loại ra có một cái cần phải xem kỹ lại.”

“Tên nào?”

“Mikail Bolotov.”

McCaleb nghe tiếng giấy tờ sột soạt khi Winston tìm bản báo cáo của Ritenbaugh và Aguilar.

“OK, có rồi. Anh thấy gì ở đây mới được? Xem chừng hắn có bằng chứng ngoại phạm vững mà.”

“Chị đã bao giờ nghe nói tới tham chiếu chéo về địa điểm chưa?”

“Gì cơ?”

Ông giải thích khái niệm đó cho chị và bảo cho chị biết ông đã làm gì, việc đó dẫn đến Bolotov như thế nào. Ông giải thích thêm rằng Bolotov đã được thẩm vấn trước vụ cướp kèm nã súng ở Siêu thị Sherman và do đó, đối với hai vụ giết người ở cửa hàng và một trong các vụ cướp có dùng khẩu HK P7 thì tầm quan trọng của vị trí nhà riêng cũng như chỗ làm của Bolotov là không rõ bằng so với vụ kia. Khi ông nói xong, Winston đồng ý rằng cần phải kiểm tra lại gã người Nga, nhưng chị không hào hứng trước viễn cảnh này như McCaleb.

“Này, như tôi nói, tôi không biết hai anh chàng kia nên tôi không bảo đảm cho họ được, nhưng tôi phải giả định rằng họ không phải là bọn mới chân ướt chân ráo vào nghề. Tôi phải giả định rằng họ có thể đảm đương một vụ thẩm vấn như thế này và kiểm tra bằng chứng ngoại phạm.”

McCaleb không nói gì.

“Này, tuần này tôi phải tới tòa án. Tôi không thể lại đi kiểm tra gã này lần nữa được.”

“Tôi thì được.”

Giờ thì chị không nói gì.

“Tôi sẽ làm khéo mà,” McCaleb nói. “Cứ tùy cơ ứng biến thôi.”

“Tôi không biết, Terry ạ. Giờ thì anh là dân thường. Chuyện này có thể đang đi quá xa.”

“Thôi nào, nghĩ kỹ đi. Tôi còn vài chuyện cần nói nữa đây.”

“Rồi. Gì nữa?”

McCaleb biết rằng nếu chị không khơi lại chuyện Bolotov lần nữa trong cuộc trò chuyện, thế có nghĩa là chị đang cho phép ông – tuy một cách không chính thức – kiểm tra lại gã người Nga. Chỉ là chị không muốn chuẩn y những gì ông đang làm.

Ông lại liếc nhìn xuống tập giấy nhớ. Ông muốn cẩn thận cân nhắc nên hỏi gì kế tiếp. Ông cần phải hình thành tới nơi tới chốn những câu hỏi hệ trọng cần hỏi, phải cho Winston cùng nắm được với ông, chứ đừng để chị nghĩ rằng ông đang phê phán mọi chuyện khi sự đã rồi.

“Ừm, trước hết, ở đây chả thấy nói gì về tấm thẻ nhà băng trong vụ Cordell. Tôi biết tên đó đã lấy tiền. Hắn có lấy luôn cái thẻ không?”

“Không. Thẻ vẫn nằm trong máy. Máy đã nhả thẻ ra nhưng khi hắn không lấy thì máy lại tự động nuốt vào. Đó là một biện pháp an ninh cài sẵn để người ta nếu lỡ có để quên thẻ thì cũng không bị kẻ khác lấy mất.”

McCaleb gật đầu và đánh dấu vào câu hỏi đó trên tờ giấy nhớ.

“OK. Kế đó tôi muốn hỏi về chiếc Cherokee. Tại sao bên chị không hở ra về chuyện đó với báo chí?”

“À, chúng tôi có cho báo chí biết nhưng không phải ngay lập tức. Hôm đầu tiên chúng tôi đang còn bận đánh giá tình hình nên chưa đưa chi tiết ấy vào thông cáo báo chí đầu tiên. Sở dĩ tôi không chắc có nên đưa vào hay không là vì nếu thằng cha đó thấy được trên báo, có thể hắn sẽ vứt xe đi. Vài ngày sau, khi chẳng có gì xảy ra mà chúng tôi thì vẫn giẫm chân tại chỗ, tôi liền ra một thông cáo báo chí khác trong đó có nói tới chiếc Cherokee. Phiền một cái là đến lúc đó thì vụ Cordell nguội mất rồi nên chẳng ai lưu ý nữa. Chỉ có mỗi một tờ tuần báo tép riu ở mãi trong sa mạc là đưa tin ấy thôi. Tôi biết, thế là làm ăn lôm côm. Hẳn là đáng lẽ ra tôi phải đưa ngay vào thông cáo báo chí đầu tiên mới phải.”

“Không nhất thiết,” McCaleb vừa nói vừa đánh dấu thêm một cái vào giấy nhớ. “Tôi hiểu cách lập luận của chị.”

Ông đọc lại lần nữa các ghi chú trên tờ giấy.

“Vài chuyện nữa… Trong cả hai cuốn băng hung thủ đều nói gì đó sau khi bắn. Hắn nói hoặc với chính mình hoặc với camera. Không thấy có tường trình gì về chuyện đó cả. Liệu bên chị có làm…”

“Có một người ở văn phòng bên đây có ông anh bị điếc. Anh ta bèn đem mấy cuốn băng đến chỗ ông anh để xem liệu ông ta có nhìn môi mà đọc được không. Ông ta không chắc lắm, nhưng ở cuốn đầu – quay ở máy rút tiền – ông ta nghĩ thằng cha đó nói, ‘Đừng quên cái cashola’ ngay khi hắn lấy tiền ra khỏi máy. Còn ở cuốn băng kia thì ông ta không đoán chắc bằng. Ông ta nghĩ hẳn là hung thủ hoặc cũng nói như vậy hoặc có thể nói gì đó kiểu như ‘Đừng có mà xía vào’ cái gì gì đó. Từ cuối cùng là khó luận ra nhất với ông ta trên cả hai cuốn băng. Hình như tôi chưa khi nào bổ sung cái đó vào báo cáo. Anh thì không bỏ sót gì phải không?”

“Bao giờ chả vậy,” McCaleb nói. “Liệu người đọc môi đó có biết tiếng Nga không nếu tên đó nói tiếng Nga?”

“Gì kia? À, ý anh muốn nói nếu tên đó là Bolotov. Không, tôi ngờ ông anh kia chả biết tiếng Nga đâu.”

McCaleb ghi lại vào giấy mấy cách dịch khác nhau về những câu hung thủ đã nói. Đoạn ông vừa gõ gõ bút chì vào tập giấy vừa tự hỏi liệu bây giờ mình có nên thử một phen không.

“Anh còn gì nữa không?” cuối cùng Winston hỏi.

Ông quyết định đây đúng là lúc nên nhắc tới Carruthers. Ít nhất thì cũng không nhắc thẳng.

“Khẩu súng,” ông nói.

“Tôi biết. Tôi cũng chả yên tâm về chuyện khẩu súng. Đồ xịn như HK P7 đâu phải là loại súng mà cái ngữ cướp quèn vẫn hay dùng. Hẳn là súng ăn trộm thôi. Anh cũng thấy tôi đã tập hợp các báo cáo về súng ăn trộm còn gì. Nhưng cũng như với mọi chuyện khác, tôi lâm vào ngõ cụt. Chả dẫn tới đâu.”

“Tôi nghĩ đó là một giả thuyết hay,” McCaleb nói. “Đến chừng mực nào đó. Tôi không ưa cái kiểu hắn vẫn giữ nó sau vụ bắn người đầu tiên. Nếu súng ăn trộm thì theo tôi, ngay sau khi bắn gục Cordell chừng mười phút là hắn đã vứt súng trong sa mạc càng xa càng tốt mới phải. Rồi thì lần sau hắn sẽ đi ăn trộm khẩu khác.”

“Không, anh không nói thế được.” Winston nói, và McCaleb hình dung chị đang lắc đầu. “Chẳng có mô hình cố định nào ở đây hết. Rất có thể hắn giữ khẩu súng chỉ vì hắn biết nó rất có giá. Với lại anh cần phải nhớ, Cordell bị bắn từ bên này xuyên thấu bên kia. Chắc hung thủ nghĩ rằng người ta sẽ không tìm ra viên đạn hoặc nếu đạn có đập vào lề đường – mà đúng thế thật – thì cũng biến dạng quá rồi không đối chiếu được nữa. Nhớ là vỏ đạn thì hắn có nhặt. Hẳn là hắn tin khẩu súng còn có thể dùng thêm ít nhất một lần nữa.”

“Chắc là chị có lý.”

Họ ngừng một thoáng, chẳng ai nói gì. McCaleb còn thêm hai điều nữa trên trang giấy.

“Kế nữa là,” ông mào đầu một cách thận trọng. “Mấy viên đạn.”

“Có gì nào?”

“Hôm qua chị nói chị đang giữ báo cáo phân tích đạn đạo về cả hai vụ.”

“Thì đúng. Nằm cả trong két đựng bằng chứng ấy. Cụ thể là anh muốn gì?”

“Chị đã bao giờ nghe nói tới máy tính DRUGFIRE của Cục chưa?”

“Chưa.”

“Nó có thể giúp ích cho ta. Cho chị. Sẽ lâu đấy, nhưng thử một lần cũng đáng.”

“Nó là gì vậy?”

McCaleb nói cho chị biết. DRUGFIRE là một chương trình máy tính của FBI được thiết kế cùng với các dòng phần mềm tương tự nhằm lưu dữ liệu về dấu tay. Nó là dự án tập thể của phòng xét nghiệm tội phạm hồi đầu thập niên 1980, khi những cuộc chiến tranh cocain bùng nổ ở hầu hết các thành phố, nhất là Miami, nguyên nhân chính khiến số vụ giết người tăng vọt trên toàn quốc. Hầu hết các vụ giết chóc đều bằng súng. Cục Điều tra Liên bang nỗ lực tìm một biện pháp ngõ hầu truy cho được những tên sát thủ và giết người liên đới trên cả nước, và rồi họ tạo ra chương trình DRUGFIRE. Những đặc trưng có một không hai của dấu vết đường rạch khía trên nòng súng, mà người ta phát hiện ở các viên đạn bắn ra trong các vụ ám sát liên quan đến ma túy, được đưa vào phân tích bằng laser, sau đó được mã hóa để lưu trong máy tính và nhập vào ngân hàng dữ liệu. Chương trình máy tính này hoạt động hầu hết là theo cùng một cách như các hệ thống máy tính chuyên về vân tay mà các cơ quan hành pháp trên cả nước vẫn dùng. Hệ thống này cho phép đối chiếu nhanh lai lịch các viên đạn đã được mã hóa.

Cuối cùng, khi các đề mục về đạn đạo được thêm vào thì cơ sở dữ liệu càng lớn. Chương trình cũng được mở rộng, từ nay bao gồm tất cả các vụ được chuyển cho FBI, mặc dù cái tên DRUGFIRE thì vẫn giữ. Dù đó là một vụ xả súng vào đám đông ở Las Vegas hay một vụ thanh toán băng đảng ở Nam Los Angeles, một án giết người hàng loạt ở Fort Lauderdale, mọi vụ nổ súng mà người ta gửi tới FBI để phân tích đều được nhập vào cơ sở dữ liệu. Và sau hơn một thập niên, có tới hàng ngàn viên đạn được lưu trong hồ sơ trên máy tính.

“Tôi nghĩ mãi về cái gã này,” McCaleb nói. “Hắn cứ dính với khẩu súng đó. Dù nguyên do là gì đi nữa, dù nhờ ăn trộm hắn mới có nó hay là không phải thế, nhưng quả thực cứ mãi dính với khẩu súng đó là sai lầm duy nhất hắn phạm phải. Nó khiến tôi nghĩ may ra chúng ta sẽ tìm được dữ liệu khớp. Xét theo động cơ hành động trên mấy cuốn băng đó, rất có thể không phải bắt đầu từ vụ của chị hắn mới bắt đầu đòm đòm người ta đâu. Hắn đã dùng súng từ trước đó rồi, thậm chí là chính khẩu ấy cũng nên.”

“Nhưng tôi đã bảo anh, chúng tôi có kiểm tra những khẩu tương tự rồi. Về đằng đạn đạo thì chẳng có gì sất. Bọn tôi cũng đã gửi điện yêu cầu truy tìm trên máy vi tính Thống kê Tội phạm Quốc gia. Bọn tôi chịu, thử hết đường rồi.”

“Tôi hiểu. Nhưng phương thức hành động của tên này có thể biến hóa, thay đổi. Có lẽ điều hắn làm bằng khẩu súng đó lúc ở Phoenix không phải như điều hắn làm ở đây. Tôi chỉ muốn nói là vẫn có khả năng tên này từ một nơi nào đó khác vào thành phố. Nếu đúng vậy thì có lẽ hắn từng dùng khẩu súng đó ở chỗ khác. Và nếu ta gặp may thì dữ liệu hiện đang có sẵn trong máy tính của Cục.”

“Có thể,” Winston nói.

Chị lặng thinh nghiền ngẫm về đề nghị của ông. McCaleb biết chị đang suy tính những gì. DRUGFIRE là một khả năng rất đáng để thử xem, và Winston đủ thông minh để biết như thế. Nhưng nếu quyết định thử, chị sẽ phải lôi bên liên bang vào cuộc, ấy là chưa kể phải thừa nhận rằng chị đang nhận chỉ dẫn từ McCaleb, một người ngoài không thực sự có quyền dính tới vụ này.

“Chị nghĩ sao?” Cuối cùng McCaleb hỏi. “Chị chỉ cần gửi cho họ một viên đạn thôi. Chị có bao nhiêu, bốn viên từ hai vụ phải không?”

“Tôi cũng không biết nữa,” chị nói. “Phải gửi bằng chứng của bọn tôi đến Washington thì tôi không thích lắm. Mà chắc hẳn bên Los Angeles cũng không.”

“Los Angeles không cần biết vụ này. Chị là người giữ bằng chứng. Chị có thể gửi một viên đạn đi nếu chị muốn. Rồi thì nó có thể đến Washington và quay lại trong vòng một tuần. Arrango chẳng việc gì phải biết là nó đã được gửi đi. Tôi đã nói chuyện với một người tôi quen ở ban Súng và Dấu vết Hung khí. Anh ấy nói sẽ lo vụ này êm xuôi nếu ta gửi gói hàng cho anh ấy.”

McCaleb nhắm mắt. Nếu như có một lúc nào đó chị ta có thể nổi giận đùng đùng thì chính là lúc này.

“Anh đã kể với anh chàng ấy là chúng tôi đang làm vụ này?” chị hỏi, giọng bực tức.

“Không, tôi không kể. Tôi chỉ bảo anh ta tôi đang làm việc với một thám tử ở đây, là người rất chu đáo tận tâm, bà ta hẳn sẽ muốn điều tra đến tận cùng, một hòn sỏi cũng không bỏ sót.”

“Chà, tôi đã nghe thấy điều này ở đâu ấy nhỉ?”

McCaleb mỉm cười.

“Còn chuyện này nữa,” ông nói. “Cho dù ta không gặp may ở vụ này thì ít nhất ta cũng có được khẩu súng lưu trong máy. Một lúc nào đó nó có thể sẽ khớp với cái gì đấy.”

Chị ngẫm nghĩ về điều này một lát. McCaleb biết khá rõ mình đã đi guốc vào bụng chị. Chả khác gì ngồi canh trong nghĩa địa đợi Luther Hatch. Chị sẽ phải làm như thế, nếu không thì sẽ băn khoăn về nó hoài hoài.

“OK, OK,” cuối cùng Winston nói. “Tôi sẽ nói chuyện này với đội trưởng. Tôi sẽ nói tôi muốn làm thế. Nếu ông ấy bật đèn xanh, tôi sẽ gửi bưu kiện đi. Một viên đạn, thế thôi.”

“Chỉ cần thế thôi.”

McCaleb kể thêm rằng Carruthers cần nhận được bưu kiện trước sáng thứ Ba và thúc giục chị nói với đội trưởng càng sớm càng tốt. Điều này khiến chị lặng thinh lần nữa.

“Tôi chỉ muốn nói là việc này đáng thử, Jaye ạ,” ông nói cho chắc ăn hơn.

“Tôi biết. Chỉ là… thôi được, không sao. Cho tôi tên và số điện thoại bạn của anh đi.”

McCaleb siết chặt nắm tay đấm vào không trung trước mặt mình. Cú thử này đi xa được đến đâu không quan trọng. Họ đang tung xúc xắc. Ông thấy khoan khoái vì đã thúc đẩy được một cái gì đó tiến triển.

Sau khi McCaleb cho Winston số trực tiếp và địa chỉ để liên lạc với Carruthers, chị hỏi liệu ông còn muốn nói gì nữa không. Ông nhìn xuống tập giấy nhớ song điều ông muốn nói không được ghi ra trên đó.

“Tôi còn một điều cuối chắc sẽ khiến chị chú ý ngay lập tức,” ông nói.

“Ồ, không,” Winston vừa nói vừa rên rỉ. “Nếu quả vậy thực thì bắt tôi trả lời điện thoại đúng vào hôm phải lên tòa cũng đáng. Nói cho tôi đi, McCaleb. Gì vậy?”

“James Noone.”

“Nhân chứng á? Thì sao?”

“Anh ta có nhìn thấy hung thủ. Anh ta thấy xe của hung thủ.”

“Ừ, điều đó giúp bọn tôi nhiều chứ đâu có ít. Có chừng một trăm ngàn chiếc Cherokee như vậy ở Nam California, còn mô tả của anh ta về hung thủ thì mơ hồ đến nỗi thậm chí thằng kia có đội mũ hay không anh ta cũng chả biết. Anh ta là nhân chứng nhưng chỉ một tí thôi.”

“Nhưng anh ta có thấy. Nhưng là thấy trong tình thế căng thẳng. Càng căng thẳng thì ấn tượng càng sâu. Noone có thể là nhân chứng hoàn hảo đấy.”

“Hoàn hảo cách nào được đây?”

“Thôi miên anh ta.”

Bình luận