TRONG ĐỜI CÔ CHƯA TỪNG THẤY CÁI GÌ NHƯ THẾ – kể cả trên tivi hoặc phim ảnh, khi sự chú ý, giờ thì cô đã hiểu, mất đi tính gần gũi, sự hào nhoáng sặc sỡ, vẻ uy hiếp. Dọc đường bờ biển, trước cả khi cô và Robert về đến đường mòn vào nhà, rất nhiều xe ô tô và xe tải đã đỗ chật kín, bánh xe tải cắm xuống lớp cát ở vệ đường. Kathryn nhìn thấy tên của các đài truyền hình trên xe tải, WBZ, WNBC, CNN, một người đàn ông đang vừa cầm máy quay phim vừa chạy với một cái giá đỡ máy phức tạp trên vai. Mọi người bắt đầu đổ dồn ánh mắt về chiếc xe, cố nhìn cho được người bên trong. Robert ngồi thu mình trước vô lăng, tựa như họ sẽ bị tấn công bất cứ lúc nào. Kathryn cưỡng lại cảm giác thôi thúc quay đầu đi nơi khác hoặc đưa tay lên che mặt.
“Anh nhắc giúp tôi tại sao chúng ta làm việc này?” cô hỏi, giọng đanh lại, môi gần như không cử động.
Các phóng viên và quay phim đã chen chúc nhau trước cánh cổng gỗ quấn kẽm gai. Cô và Jack không hề chọn cánh cổng đó; nó là vật còn sót lại từ thời tu viện. Kỳ thực, Kathryn còn thấy bất ngờ khi cánh cổng vẫn còn dùng được: Jack và cô chưa bao giờ có ý định gắn chặt nó lại.
“Chúng tôi sẽ cử người đến nhà bà của cô,” Robert nói.
“Bà Julia sẽ không thích thế đâu.”
“Tôi e trong trường hợp này bà cụ không có lựa chọn. Sau này, có lẽ cụ sẽ cám ơn tôi vì đã làm thế.”
Anh ra dấu về phía đám đông bên ngoài chiếc xe.
“Bọn họ sẽ tràn lên bãi cỏ nhà Julia trước khi bà cụ kịp chớp mắt.”
“Tôi không muốn họ bén mảng đến gần Mattie,” Kathryn nói.
“Trông cụ Julia rất đáng sợ,” Robert đáp. “Tôi nghĩ mình không dám đi qua trước mặt cụ ấy.”
Một người đàn ông đập mạnh vào cửa kính xe, khiến Kathryn giật bắn mình. Robert cho xe tiến về trước, cố gắng đến gần cánh cổng. Anh nhìn qua kính chắn gió, tìm kiếm một cảnh sát, và gần như ngay lập tức, chiếc xe bị bao vây, tiếng đàn ông đàn bà hét ầm ĩ qua lớp kính.
“Bà Lyons, bà có nghe đoạn băng chưa?”
“Có phải là bà ấy không? Wally, có phải là bà ấy không?”
“Tránh ra, để tôi thấy rõ mặt bà ấy nào.”
“Bà có bình luận không, thưa bà Lyons? Bà có nghĩ đó là tự sát không?”
“Ai đang đi cùng bà ấy vậy? Jerry, đó có phải là người của hãng hàng không không?”
“Bà Lyons, bà giải thích thế nào…?”
Kathryn cảm thấy những giọng nói như tiếng chó sủa. Những cái miệng trông như bị phóng to, nhễu nhão nước dãi, những sắc màu xung quanh cô trồi lên rồi hạ xuống. Cô chợt nghĩ phải chăng mình sắp ngất. Làm sao cô có thể trở thành tâm điểm của quá nhiều sự chú ý, trong khi cô chỉ là một con người sống cuộc đời bình thường nhất trong những hoàn cảnh bình thường nhất?
“Chúa ơi,” Robert thốt lên khi một ống kính máy quay phim va mạnh vào cửa xe. “Gã đó vừa tự làm vỡ máy quay của mình.”
Ngồi thẳng lên để nhìn rõ đám đông phía trước, Kathryn trông thấy Burt Sears, người đàn ông có tướng dong dỏng cao thời trai trẻ, nhưng nay lưng đã còng, đang đi đi lại lại phía sau cánh cổng. Ông ta chỉ mặc nửa bên trên của bộ đồng phục, có vẻ như không kịp tìm thấy cả bộ trong lúc vội vã ra khỏi nhà. Kathryn vẫy tay qua lớp kính xe, cố làm ông ta chú ý, nhưng trông Burt như bị choáng, hai mắt không tập trung, và chẳng thể làm gì khác ở bên này cánh cổng như Kathryn và Robert đang bất lực ở bên kia. Ông ta chậm chạp vung tay thành hình tròn với vẻ thiếu tự tin, như đang điều khiển giao thông nhưng lại không giỏi việc này.
“Là Burt đấy,” cô nói. “Ông ấy đang đứng sau cánh cổng. Ông ấy về hưu rồi, nhưng được gọi lại để làm việc này.”
“Cô lái đi,” Robert nói. “Nhớ khóa cửa sau khi tôi xuống. Ông ấy họ gì?”
“Sears.”
Với một chuyển động thuần thục, nhanh đến mức chưa nhìn thấy đã kết thúc, Robert bước ra khỏi xe và đóng sầm cửa lại. Kathryn lóng ngóng trườn qua bộ cần số sang ghế tài xế và khóa cửa lại. Cô nhìn Robert đút tay vào túi áo choàng rồi len lỏi qua đám phóng viên và quay phim. Anh gọi tên Burt Sears to đến nỗi mọi người đều dừng lại để nhìn người đang rẽ đám đông bước tới. Kathryn bắt đầu cho xe tiến vào khoảng trống mà Robert đã tạo ra khi anh đi về phía trước.
Điều gì sẽ xảy ra, cô tự hỏi, nếu bức tường người trước mặt cô không chịu tách ra?
Cô nhìn Robert mở cổng. Nhìn đâu cô cũng thấy máy quay phim, đàn bà mặc vest, đàn ông mặc áo gió màu sắc sặc sỡ, song cô vẫn nhích từng chút một về trước, tiến đến cánh cổng theo bàn tay kiên quyết của Robert. Cô thoáng lo đám đông sẽ theo cô vào nhà, giống như một đoàn đưa tang – một đoàn đưa tang ghê tởm với bà góa kẹt trong xe, như con bọ dưới kính hiển vi. Nhưng một quy tắc bất thành văn, quy tắc mà cô không biết đến và cũng chẳng hiểu nổi, đã khiến đám đông dừng lại sau cánh cổng trong khi họ hoàn toàn có thể tràn qua Burt và Robert. Sau khi đã vào trong sân, cô dừng xe lại.
“Đi,” Robert ra lệnh, chui vào xe.
Hai tay run rẩy, cô nổ máy và bắt đầu cho xe nhích về trước.
“Không, ý tôi là ra khỏi xe,” Robert nói cộc lốc.
***
Cô đã nghĩ, khi mới nhìn thấy đám đông trước cổng, rằng ngôi nhà sẽ là nơi trú ẩn nếu Robert và cô có thể đến được đó. Nhưng cô nhanh chóng nhận ra sự thật không phải như vậy. Có bốn chiếc xe mà cô chưa thấy trước đó đang đỗ trên đường mòn vào nhà, một chiếc đỗ cẩu thả, cửa còn mở, tiếng chuông báo hiệu kêu inh ỏi trong xe. Bốn chiếc xe đồng nghĩa với ít nhất từng ấy người lạ.
Cô tắt máy xe.
“Cô không cần phải làm việc này bây giờ,” anh ta nói.
“Nhưng sớm muộn gì cũng phải làm thôi,” cô đáp.
“Có thể.”
“Tôi có nên gọi luật sư không?”
“Liên đoàn đang lo chuyện này.” Anh ta đặt tay lên vai cô. “Chỉ cần đừng đưa ra những câu trả lời mà cô tuyệt đối không chắc chắn.”
“Tôi chẳng chắc chắn về chuyện gì cả,” cô đáp.
***
Họ đang ở trong nhà bếp và phòng khách, những người đàn ông mặc đồng phục đen và vest màu tối, Rita mà cô đã gặp hôm qua đang mặc vest màu xám nhạt. Một người đàn ông cao to đeo kính gọng oval và vuốt gel ướt tóc tiến đến chào Kathryn trước tiên. Cô nhận ra cổ áo đâm vào cổ của ông ta, và mặt ông ta rất xúc động. Ông ta di chuyển lắc lư, như những người nặng nề, bụng đi trước người bước theo sau.
“Chào chị Lyons,” ông ta nói, chìa tay ra. “Tôi là Dick Somers.”
Cô để ông ta nắm tay cô. Cái bắt tay của ông ta rất quyết đoán và ẩm ướt. Điện thoại đổ chuông, và cô thấy nhẹ nhõm khi Robert không phải để cô trả lời.
“Ông đến từ…?” Kathryn hỏi.
“Tôi là điều tra viên của Ban An toàn. Cho phép tôi nói rằng tôi rất lấy làm tiếc, tất cả chúng tôi đều lấy làm tiếc, trước sự mất mát khủng khiếp của chị.”
Kathryn nghe thấy một giọng nam trầm đều trên tivi ở phòng khách.
“Cám ơn ông,” cô đáp.
“Tôi biết đây là thời điểm khó khăn cho chị và con gái chị,” ông ta nói tiếp.
Khuôn mặt cô hẳn đã hiện lên vẻ cảnh giác trước từ con gái, vì cô thấy ông ta nhanh chóng nhìn lướt khắp người cô.
“Nhưng tôi phải hỏi chị một số câu,” ông ta nói.
Trên quầy bếp có những cốc cà phê bằng nhựa xốp, hai hộp bánh donut Dunkin màu hồng tươi trên bàn. Kathryn chợt thèm ăn donut khủng khiếp, một chiếc donut trơn nhúng vào cà phê nóng, tan ra trong cà phê khi cô đưa vào miệng. Cô nhớ lại mình chưa ăn gì trong ba mươi sáu giờ qua.
“Đồng nghiệp của tôi, Henry Boyd,” Somers nói, giới thiệu một người đàn ông trẻ hơn, có ria mép màu vàng.
Cô bắt tay người đồng nghiệp.
Bốn người đàn ông khác tiến đến để được giới thiệu, họ mặc đồng phục Vision, mũ kẹp dưới cánh tay, bộ đồng phục, với những chiếc nút mạ vàng và sự quen thuộc của nó, khiến Kathryn khó thở. Họ đến từ hãng hàng không, từ văn phòng cơ trưởng, họ nói, và Kathryn nghĩ những lời chào hỏi này thật kỳ lạ, những sự tử tế này, những lời chia buồn này, những lời chia buồn đầy thận trọng, trong khi tất cả họ đều hiện lên sự chờ đợi căng thẳng rõ mồn một.
Một người có tóc cắt ngắn tiến lên cao hơn những người còn lại.
“Chị Lyons, tôi là Cơ trưởng Bill Tierney,” ông ta nói. “Chúng ta có nói chuyện một chút trên điện thoại hôm qua.”
“Vâng,” cô đáp.
“Cho phép tôi lần nữa bày tỏ sự đau buồn sâu sắc của tôi và toàn thể hãng hàng không về sự ra đi của chồng chị, về sự mất mát của riêng chị. Anh ấy là một phi công xuất sắc, một trong những phi công giỏi nhất của chúng tôi.”
“Cám ơn ông,” cô đáp.
Những từ đau buồn sâu sắc dường như trôi bồng bềnh trong không khí nhà bếp. Cô tự hỏi tại sao tất cả những từ ngữ biểu thị sự chia buồn đều nghe có vẻ quá uể oải, quá giống nhau. Chẳng lẽ không còn cách nói nào khác để bày tỏ sự đau buồn sao? Hay sự trịnh trọng mới là điểm mấu chốt? Cô nghĩ đến chuyện cơ trưởng đã phải hình dung bao nhiêu lần cảnh ông ta nói những lời này với vợ góa của các phi công, có lẽ đã phải tập nói trước ở nhà. Từ trước đến nay, hãng hàng không còn khá mới này chưa bao giờ xảy ra tai nạn chết người.
“Ông có thể nói gì với tôi về đoạn băng?” cô hỏi cơ trưởng.
Tierney bặm môi và lắc đầu.
“Chưa có thông tin nào về đoạn băng được tiết lộ một cách chính thức,” Somers đáp, tiến lên một bước.
“Tôi hiểu điều đó,” Kathryn nói, quay sang điều tra viên. “Nhưng ông biết chuyện gì đó, phải không? Ông biết trong băng có gì.”
“Không, tôi e rằng tôi không biết,” ông ta đáp.
Nhưng sau gọng kính, ánh mắt của điều tra viên lộ vẻ lẩn tránh và ma mãnh.
Kathryn đứng ở giữa nhà bếp, mặc quần jean, áo khoác và mang bốt, trở thành đối tượng bị soi mói. Cô cảm thấy thoáng ngượng ngùng, như vừa phạm phải một sai lầm ứng xử nghiêm trọng.
“Trong các ông có một người quên đóng cửa xe,” cô nói, ra dấu về hướng đường mòn vào nhà.
“Sao chúng ta không ra phòng khách ngồi nhỉ?” Somers đề nghị.
***
Cảm thấy lạ lẫm với chính ngôi nhà của mình, Kathryn bước vào phòng khách và nheo mắt trước ánh sáng rọi vào từ sáu chiếc cửa sổ hình thuôn. Chỉ còn một chỗ ngồi, một chiếc ghế bành khổ lớn nhìn ra cửa sổ, ghế của Jack, không phải của cô, và cô cảm thấy bé nhỏ khi đứng trước hai tay vịn của chiếc ghế. Bấy giờ cô mới nhận ra tivi đã được tắt.
Có vẻ như Somers là người chủ trì. Ông ta đứng trong khi tất cả mọi người đều ngồi.
“Tôi sẽ chỉ hỏi chị một hoặc hai câu thôi,” ông ta vừa nói vừa đút tay vào túi quần. “Sẽ mất không đến một phút. Chị có thể cho chúng tôi biết chồng chị cư xử thế nào trước khi ra sân bay vào hôm chủ nhật được không?”
Kathryn thấy không ai lấy máy ghi âm ra hoặc viết gì xuống cả. Phong cách của Somers có vẻ cực kỳ thoải mái. Vậy đây không thể là cuộc vấn đáp chính thống, phải không nhỉ?
“Cũng chẳng có gì nhiều để kể,” cô đáp. “Như thường lệ. Jack đi tắm lúc khoảng bốn giờ chiều, mặc đồng phục, đi xuống cầu thang, rồi đánh bóng giày.”
“Lúc đó chị ở đâu?”
“Tôi gặp anh ấy trong nhà bếp. Để chào tạm biệt.”
Hai tiếng tạm biệt làm dấy lên một nỗi buồn, cô cắn môi. Cô cố gắng nhớ lại ngày chủ nhật, ngày cuối cùng Jack ở nhà. Thỉnh thoảng cô có những ký ức rời rạc, những giấc mơ đứt quãng, như những ánh bạc lóng lánh trong đêm tối. Cô có cảm giác như đó là một ngày bình thường, chẳng có gì đặc biệt. Cô nhìn thấy Jack đặt chân lên hộc tủ kéo ra, tay cầm chiếc khăn kẻ ca rô màu xanh đã cũ khi cô đi ngang qua nhà bếp để đến phòng giặt. Cánh tay anh, như dài hơn dưới sức nặng của chiếc túi khi anh đi từ nhà ra xe. Anh đã nói câu gì đó từ xa. Lúc đó cô đang cầm chiếc khăn. Nhớ gọi điện cho Alfred nhé. Hẹn ông ta thứ sáu.
Anh đã đánh bóng giày. Anh đã rời khỏi nhà. Anh sẽ về nhà, như anh nói, vào thứ ba. Cô đang đứng bất động tại cửa, cảm thấy hơi khó chịu vì anh không tự làm việc ấy. Gọi điện cho Alfred.
“Theo chị biết, hôm đó Jack có gọi điện cho ai không?” Somers hỏi. “Có nói chuyện với ai không?”
“Tôi không biết,” cô đáp.
Cô tự hỏi: Liệu Jack có thể nói chuyện với ai khác vào hôm đó không? Tất nhiên là có thể lắm. Không biết chừng anh có thể đã nói chuyện với hai mươi người.
Robert khoanh tay trước ngực. Trông như anh đang thích thú săm soi chiếc bàn cà phê. Trên bàn có những quyển sách nghệ thuật, một chiếc đĩa bằng đá mà Jack và cô đem về từ Kenya, một chiếc hộp tráng men từ Tây Ban Nha.
“Thưa chị Lyons,” Somers nói tiếp. “Chồng chị có biểu hiện cáu bẳn hoặc trầm cảm trong ngày hôm đó hoặc đêm hôm trước không?”
“Không. Không có gì bất thường cả. Tôi chỉ nhớ là hôm đó vòi sen bị rỉ nước, và chuyện đó có làm anh ấy bực mình một chút, vì chúng tôi mới sửa lại. Tôi nhớ anh ấy dặn tôi gọi điện cho Alfred.”
“Alfred là ai?”
“Alfred Zacharian. Thợ sửa ống nước.”
“Và anh ấy dặn chị gọi điện cho Alfred khi nào?”
“Thật ra là hai lần. Một lần ở trên lầu, khoảng mười phút trước khi anh ấy đi làm. Lần thứ hai là khi anh ấy đi ra xe.”
“Jack có uống rượu trước khi lái xe ra sân bay không?”
“Đừng trả lời câu đó,” Robert nói, hơi chồm về trước trên sofa.
Kathryn bắt chéo chân và nhớ lại chai rượu vang cô và Jack đã uống trong bữa tối thứ bảy rồi uống tiếp sau khi ăn tối, và cô nhanh chóng tính toán số giờ từ lần cuối cùng anh uống rượu đến khi bay. Ít nhất mười tám giờ. Như vậy thì không sao. Người ta hay nói thế nào nhỉ? Mười hai giờ từ lúc uống đến lúc lái xe?
“Không sao đâu,” cô nói với Robert. “Chẳng uống gì cả,” cô nói với Somers.
“Chẳng uống gì cả?”
“Chẳng uống gì cả.”
“Chị có xếp quần áo vào vali cho anh ấy không?” ông ta hỏi.
“Không, tôi không bao giờ làm việc đó.”
“Còn túi bay của anh ấy?”
“Không. Tuyệt đối không. Thật tình là tôi chưa bao giờ nhìn xem trong túi có gì.”
“Chị có thường lấy quần áo ra khỏi vali anh ấy không?”
“Không. Đó là nhiệm vụ của Jack. Anh ấy tự lo vali túi xách của mình.”
Cô nghe những từ đó, tự lo. Thì hiện tại.
Cô nhìn quanh một lượt những người đàn ông trong phòng, họ đều đang quan sát cô chăm chú. Cô tự hỏi phải chăng hãng hàng không cũng muốn thẩm vấn mình. Cô nghĩ có lẽ nên mời luật sư đến lúc này. Nhưng nếu đúng là vậy, thì chẳng phải Robert đã nói rồi sao?
“Chồng chị có bạn bè thân thiết ở Vương quốc Anh không?” Somers hỏi. “Anh ấy có thường xuyên nói chuyện với ai ở đó không?”
“Ở Vương quốc Anh à?”
“Ở Anh.”
“Tôi biết Vương quốc Anh nghĩa là gì,” cô đáp. “Tôi chỉ không hiểu câu hỏi đó có liên quan gì thôi. Anh ấy quen biết rất nhiều người ở Anh. Anh ấy bay cùng họ mà.”
“Chị có nhận thấy những khoản rút hoặc gửi tiền bất thường nào trong tài khoản của chị không?” Somers hỏi.
Cô thắc mắc họ đang muốn lái câu chuyện đến đâu, tất cả những điều này có ý nghĩa gì. Cô cảm thấy mặt đất dưới chân chuyển động, tựa như bất cứ lúc nào cô cũng có thể bước hụt chân xuống vực thẳm.
“Tôi không hiểu,” cô nói.
“Trong vài tuần vừa qua, hoặc vào bất cứ lúc nào, chị có nhận thấy khoản rút hoặc nạp tiền bất thường nào trong tài khoản ngân hàng của chị không?”
“Không.”
“Trong vài tuần qua chị có nhận thấy hành vi bất thường nào ở chồng chị không?”
Cô phải trả lời câu hỏi này, vì Jack. Cô muốn trả lời nó.
“Không,” cô đáp.
“Không có gì bất bình thường à?”
“Không có gì.”
Rita, từ hãng hàng không, bước vào phòng, và những người đàn ông ngước lên nhìn cô ta. Dưới lớp áo vest của cô ta là một chiếc áo lụa cổ tròn. Kathryn không nhớ nổi lần cuối cùng mình mặc vest là khi nào. Ở trường, hầu như lúc nào cô cũng mặc quần tây và áo len, thỉnh thoảng áo khoác, đôi lúc mặc quần jean và mang bốt khi trời xấu.
“Chị Lyons?” Rita nói. “Con gái chị gọi điện. Nó nói phải nói chuyện với chị ngay.”
Hoảng hốt, Kathryn lao ra khỏi ghế và đi theo Rita vào nhà bếp. Cô liếc nhìn đồng hồ trên bồn rửa: chín giờ mười bốn.
“Mattie,” cô nhấc điện thoại lên.
“Mẹ à?”
“Có chuyện gì? Mọi chuyện ổn cả chứ con?”
“Mẹ, con gọi cho Taylor khi nãy. Vì con muốn có người để nói chuyện. Và thái độ cậu ấy rất kì lạ?”
Giọng Mattie cao và đanh lại, kinh nghiệm cho Kathryn biết đó là biểu thị cho sự kiềm nén cực độ trước một cơn bộc phát tức thời. Kathryn nhắm mắt lại, áp trán vào tủ.
“Nên con hỏi cậu ấy là có chuyện gì,” Mattie nói tiếp, “và Taylor bảo trên tivi người ta nói đó là tự sát?”
Kathryn có thể hình dung khuôn mặt Mattie ở đầu dây bên kia, đôi mắt ngờ vực mở to hoảng hốt. Kathryn có thể tưởng tượng tin tức đó đã làm tổn thương Mattie thế nào, con gái cô hẳn rất ghét phải nghe tin đấy từ Taylor. Còn Taylor, chỉ là một cô gái mới lớn, hẳn đã cảm thấy hí hửng khi là người tiết lộ tin này với Mattie. Rồi sau đó Taylor hẳn sẽ cảm thấy thôi thúc phải gọi điện cho hết thảy bạn bè của hai đứa để kể lại chi tiết phản ứng của Mattie.
“Ôi, Mattie à,” Kathryn nói. “Chỉ là tin đồn thôi con. Truyền thông mà, họ nghe thấy gì là đăng tin ngay mà chẳng cần kiểm chứng. Thật kinh khủng. Thật vô trách nhiệm. Và điều đó hoàn toàn không đúng. Tuyệt đối không đúng. Mẹ đang ở với các cô chú trong Ban An toàn của hãng hàng không đây, và họ biết vậy, nên họ kịch liệt phản bác tin đồn này.”
Im lặng.
“Nhưng mẹ ơi, nếu nó là thật thì sao?”
“Nó không thật đâu con à.”
“Sao mẹ biết?”
Kathryn nhận ra sự cáu gắt trong giọng nói của con gái. Không thể nhầm lẫn. Tại sao cô không nói cho con biết sự thật khi họ đi dạo vào sáng hôm đó?
“Mẹ chỉ biết vậy thôi,” Kathryn đáp.
Lại im lặng.
“Có thể là thật đấy,” Mattie nói.
“Mattie, con biết bố con mà.”
“Có thể.”
“Thế là sao?”
“Có thể con không biết gì về bố,” Mattie đáp. “Có thể bố không vui.”
“Nếu bố không vui thì mẹ đã biết rồi.”
“Nhưng làm sao mẹ biết là mẹ biết về một người nào đó?” nó căn vặn.
Câu hỏi ấy lập tức chặn đứng màn hỏi đáp qua lại giữa họ, cho phép một đợt sóng bất an dâng lên trước mặt Kathryn. Nhưng cô biết lúc này Mattie không muốn có bất an, dù nó có thách thức mẹ bao nhiêu đi nữa. Kathryn biết chắc như thế.
“Con có thể cảm nhận được mà,” Kathryn đáp, vẻ quả quyết hơn là chắc chắn.
“Mẹ có cảm thấy là mẹ biết về con không?” Mattie hỏi.
“Khá rõ,” Kathryn đáp.
Và rồi Kathryn nhận ra cô đã mắc bẫy. Mattie rất giỏi việc này, lúc nào cũng thế.
“Thật ra thì mẹ không biết đâu,” Mattie nói với một giọng hài lòng xen lẫn lo âu. “Một nửa thời gian mẹ không biết con nghĩ gì.”
“Thôi được,” Kathryn nhượng bộ. “Nhưng chuyện đó khác.”
“Không, chẳng có gì khác.”
Kathryn ấn cườm tay lên trán, day day.
“Mẹ ơi, nếu đó là sự thật, thì có phải là bố đã giết những người đó? Đó có phải là tội giết người không?”
“Con nghe thấy từ đó ở đâu vậy?” Kathryn hỏi nhanh, như thể Mattie là một đứa bé mới thốt ra một từ tục tĩu nghe được ở trường hoặc một đứa bạn. Nhưng đó là một từ thật sự thô tục, Kathryn nghĩ. Nó thật đáng sợ. Càng đáng sợ hơn khi thốt ra từ miệng cô con gái mười lăm tuổi của cô.
“Con không nghe thấy ở đâu hết mẹ ạ. Nhưng con cũng biết suy nghĩ mà, phải không?”
“Nghe này, Mattie. Con đợi một chút. Mẹ sẽ đến đó ngay.”
“Không, mẹ à. Đừng đến đây. Con không muốn mẹ đến. Con không muốn mẹ đến đây rồi cố gắng nói với con những lời dối trá để làm mọi chuyện tốt đẹp hơn. Vì bây giờ con không muốn nghe lời nói dối nào cả. Chuyện không thể tốt đẹp hơn, và con không muốn giả vờ. Con chỉ muốn được yên thân.”
Làm sao một đứa bé mười lăm tuổi lại có thể bày tỏ sự trung thực một cách thản nhiên như vậy? Kathryn tự hỏi. Sự thật là điều quá mức chịu đựng đối với nhiều người lớn. Có thể tuổi trẻ đối mặt với thực tế tốt hơn, cô nghĩ, vì có ít thời gian để che giấu, để tạo ra những câu chuyện giả tưởng.
Kathryn dằn lòng lại để không lên giọng, để át đi nỗi sợ và sự hoài nghi của con gái, nhưng kinh nghiệm mách bảo cô không nên gây áp lực với Mattie vào lúc này.
“Mẹ ơi, ở đây có nhiều người lắm,” Mattie nói. “Toàn là người lạ. Họ xuất hiện khắp nơi.”
“Mẹ biết, Mattie ạ. Họ là nhân viên an ninh để giữ cho báo chí và công chúng không lại gần nhà.”
“Mẹ nghĩ những người lạ này có muốn vào nhà không?”
Kathryn không muốn dọa cho con gái sợ hơn mức cần thiết.
“Không, mẹ nghĩ là không,” Kathryn đáp. “Nhưng báo chí có thể phiền phức lắm. Nghe này, con cứ ngồi yên đấy. Chút nữa mẹ sẽ đến.”
“Cũng được,” Mattie dửng dưng đáp.
***
Kathryn đứng yên một phút tại quầy, tay cầm điện thoại, hối tiếc vì đã chấm dứt cuộc nói chuyện. Cô nghĩ đến việc gọi lại ngay cho Mattie, cố gắng trấn an nó, nhưng Kathryn biết làm thế cũng chẳng ích gì. Cô đã học được một điều, nói chuyện với một đứa bé mười lăm tuổi đôi khi đòi hỏi người lớn phải biết nhượng bộ. Kathryn gác máy rồi đi đến cửa phòng khách. Cô tựa vào khung cửa. Cô khoanh tay trước ngực và quan sát những điều tra viên và phi công.
Trên mặt Robert hiện lên câu hỏi.
“Mọi việc ổn chứ, chị Lyons?” Somers từ Ban An toàn hỏi.
“Rất ổn,” Kathryn đáp. “Rất ổn. Trừ mỗi việc con gái tôi đang lúng túng tiếp thu ý nghĩ là bố nó có thể đã tự sát và cướp đi sinh mạng của một trăm lẻ ba người.”
“Chị Lyons…”
“Tôi có được phép hỏi ông một câu này không, ông Somers?”
Kathryn nghe thấy sự tức giận trong giọng nói của mình, một sự bắt chước giọng con gái. Có lẽ giận dữ cũng lây lan, Kathryn nghĩ.
“Vâng, tất nhiên rồi,” Somers đáp, vẻ thận trọng.
“Ngoài tự tử, các ông còn hình dung ra những tình huống nào khác, dựa theo những gì có trên CVR về lý thuyết?”
Somers có vẻ không thoải mái. “Vào lúc này tôi không thể tùy tiện thảo luận việc đó, thưa chị Lyons.”
Kathryn thả hai tay xuống, hai bàn tay nắm lại.
“Ồ, thật sao?” cô khẽ hỏi.
Cô nhìn xuống chân, rồi nhìn lên những khuôn mặt trong phòng khách. Tất cả đều bị ngược sáng, tỏa hào quang từ cửa sổ.
“Nếu vậy thì tôi e rằng vào lúc này tôi không thể tùy tiện trả lời các câu hỏi của ông,” cô nói.
Robert đứng dậy.
“Thẩm vấn đến đây là hết,” cô nói.
***
Cắm cúi bước đi trên bãi cỏ, cô cúi đầu xuống để tránh gió, chân in dấu rời rạc lên lớp băng tuyết trên cỏ. Chỉ vài phút sau, cô đã đến bờ kè biển, lớp đê chắn sóng bằng đá granite bị nước biển quét nhẵn bóng. Cô nhảy lên ngồi trên một tảng đá to bằng bồn tắm, cảm thấy người bị trượt, và nhận ra cách duy nhất để đứng thẳng là liên tục di chuyển, dừng bước không quá lâu trên mỗi tảng đá rồi lập tức nhảy sang tảng cạnh bên. Cứ như vậy, cô đến được “tảng đá phẳng”, tên mà Mattie đã đặt khi nó mới năm tuổi và lần đầu tiên tìm được cách giữ thăng bằng trên bãi đá ven biển. Kể từ đó, tảng đá phẳng trở thành điểm dã ngoại yêu thích của hai mẹ con vào những ngày nắng đẹp. Kathryn nhảy từ mép tảng đá xuống bãi cát rộng nửa mét vuông nép mình dưới những tảng đá – một căn phòng lộ thiên, một nơi tránh gió, một chốn ẩn nấp. Cô quay lưng về phía ngôi nhà và ngồi xuống mặt cát ướt. Cô thò tay ra khỏi tay áo rồi vòng tay ôm ngực trong lớp áo lông vịt kéo kín.
“Mẹ kiếp,” cô nói, nhìn xuống chân.
Cô để tiếng ồn trắng của nước biển lấp đầy đầu óc, tống khứ những giọng nói và khuôn mặt trong nhà đi, những khuôn mặt đeo một lớp mạng thương hại mỏng bên trên tham vọng tột độ, những khuôn mặt với những cái miệng nghiêm nghị bên dưới những đôi mắt diều hâu. Kathryn lắng nghe tiếng sỏi đá kêu lạo xạo dưới những con sóng rút về biển cả. Trong những viên sỏi có một kí ức, nó đang mơn trớn cô, trêu ngươi cô. Cô nhắm mắt lại, cố gắng tập trung, nhưng rồi bỏ cuộc, và vào khoảnh khắc từ bỏ đó, cô tìm ra nó. Một kí ức về bố cô và cô, hai người mặc đồ bơi, ngồi trên những viên sỏi, để cho sóng biển len vào dưới chân, đẩy lăn những hòn đá nhỏ dưới đùi và bắp chân họ. Đó là mùa hè, một ngày nóng bức, lúc đó cô được chín hay mười tuổi. Họ đang ở Fortune’s Rocks, cô nhớ, và những viên sỏi cù lên da cô. Nhưng tại sao cô và bố lại ngồi trên biển mà không có bà Julia hay mẹ của cô ở đó? Có thể Kathryn nhớ đến khoảnh khắc này vì đó là một sự kiện hiếm hoi, khi chỉ có hai bố con cô vui đùa với nhau. Ông đang cười to, cô còn nhớ, cười to với một niềm vui chân thật, không màu mè, như một đứa trẻ, trong khi ông vốn dĩ hiếm khi cười như thế. Và cô nghĩ cô cũng sẽ cười với ông và quên đi tất cả, nhưng cô bị choáng ngợp trước hình ảnh bố cô vui vẻ – vui vẻ trước mặt cô – đến nỗi cô cảm thấy lòng dâng lên một niềm tôn kính hơn là cảm giác thoải mái, và kết cục là, cô cảm thấy bối rối. Khi ông quay sang hỏi cô có chuyện gì, cô chợt mơ hồ cảm thấy mình đã làm ông thất vọng. Thế là lúc đó cô cũng cất tiếng cười, thật to, thật chân thành, hi vọng ông sẽ quên đi nỗi thất vọng, nhưng khoảnh khắc đó đã trôi qua, và ông đã nhìn ra biển tự lúc nào. Cô nhớ tiếng cười của mình nghe thật rỗng tuếch và giả tạo, cô nhớ cái quay mặt đi của bố cô, sự chìm đắm trong hồi tưởng của ông, đến nỗi cô phải gọi to lên để khiến ông chú ý.
Kathryn vẽ những vòng xoắn ốc trên cát ướt. Đó là một trong những điểm chung giữa cô và Jack, cô nghĩ: Họ là trẻ mồ côi. Không phải mồ côi theo nghĩa đen, và không phải trong suốt thời thơ ấu, nhưng họ đều bị bỏ rơi khi còn quá nhỏ để biết chuyện gì đang xảy ra với mình. Trong trường hợp của Jack, anh đã trở thành trẻ mồ côi theo nghĩa bình thường hơn. Mẹ mất khi anh chín tuổi, còn bố anh, người chưa bao giờ biểu lộ cảm xúc của mình, dường như đã khép lòng lại sau cái chết của vợ đến nỗi Jack có cảm giác mơ hồ rằng anh chỉ còn sống một mình trên cõi đời này. Trong trường hợp của Kathryn, bố mẹ cô luôn hiện diện về mặt cơ thể nhưng vắng bóng về mặt tình cảm, thậm chí không thể làm được những việc cơ bản để chăm sóc một đứa trẻ. Trong gần như suốt tuổi thơ của mình, Kathryn và bố mẹ sống với bà Julia trong ngôi nhà đá chật hẹp cách thị trấn năm cây số về phía Tây Nam. Chính bà Julia là người đùm bọc bố mẹ cô, họ bị tinh giảm biên chế khi các xí nghiệp ở Ely Falls bắt đầu đóng cửa. Ông nội Kathryn mất khi cô mới ba tuổi, và bà Julia đã cưu mang bố mẹ cô bằng tiền buôn bán ở cửa hàng đồ cổ. Sự thỏa thuận khác thường này chẳng cải thiện được mối quan hệ giữa mẹ của Kathryn và bà Julia là bao, và đặt bà Julia ở vị thế kiểm soát mọi việc từ trong ra ngoài, điều này khiến bố của Kathryn đôi khi cũng không chịu nổi. Nhưng khi Kathryn còn bé, cô không hề nghĩ rằng gia đình mình có gì khác thường. Trong lớp học của cô, với sĩ số ba mươi hai từ lớp một rồi giảm dần từng năm cho đến khi chỉ còn lại mười tám học sinh tốt nghiệp, hầu hết những đứa trẻ khác dường như đều sống bên lề xã hội. Kathryn có những đứa bạn sống trong xe đầu kéo, hoặc không có lò sưởi vào mùa đông, hoặc nhà cửa lúc nào cũng tối om hoặc cửa chớp đóng kín suốt ngày để bố hoặc chú bác của chúng có thể ngủ ngon. Bố mẹ của Kathryn thường cãi nhau và ngày nào cũng uống rượu, mà ngay cả chuyện này cũng chẳng có gì bất thường. Điều bất thường nằm ở chỗ họ không xử sự như người trưởng thành.
Trong nhiều năm, bà Julia là người chăm lo cái ăn cái mặc cho Kathryn, dạy cô biết đọc và chơi piano, dắt cô đi học mỗi ngày. Vào buổi chiều, Kathryn thường giúp bà trông cửa hàng hoặc được đưa ra ngoài để chơi đùa. Họ cùng nhau chứng kiến những màn bi hài kịch của cuộc đời bố mẹ cô lần mở – có lẽ không phải lúc nào cũng từ xa, mà từ một nơi an toàn trong ngôi nhà cao và có hình thù kỳ dị của Julia. Trong gần suốt tuổi thơ của Kathryn, bà Julia và cô đã bị tuyển vào vai bố mẹ bất đắc dĩ của hai người là bố mẹ cô.
Khi Kathryn đi học cao đẳng và trong những lúc ngồi nghĩ ngợi ở ký túc xá tại Boston, cô đã đôi lần đinh ninh rằng mình sẽ không bao giờ có thể quay trở lại Ely được nữa, rằng cô không bao giờ còn muốn chứng kiến những cảnh say xỉn lặp đi lặp lại không ngớt giữa bố và mẹ cô. Nhưng vào một buổi chiều ấm áp bất thường của tháng giêng khi Kathryn đang học năm thứ nhất, bố mẹ cô đã rơi xuống thác Ely Falls, hình như họ đã tìm cách băng qua đó, không hiểu vì sao, và chết đuối. Kathryn bất ngờ phát hiện ra rằng cô đã bị đau thương vây kín – như những đứa con của mình đã chết – và khi phải quay lại Boston sau đám tang kép, cô không thể rời Ely hay bà Julia được nữa.
Giờ đây Kathryn nghĩ bà Julia ít nhất đã làm tốt vai trò bố mẹ, và đó là điều may mắn cho cô.
Cô điếng người trước tiếng bước chân trên một tảng đá ở sau lưng cô. Tóc Robert bị gió thổi tung, anh đang nheo mắt.
“Tôi cứ hy vọng cô sẽ chạy trốn,” anh nói, nhảy xuống khoảnh đất được che chắn.
Cô đút tay vào túi áo khoác và cố giữ tóc khỏi bị gió thổi bay để có thể nhìn thấy mặt Robert.
Anh tựa lưng vào một tảng đá rồi vuốt tóc lại ngay ngắn. Anh lấy ra một chiếc bật lửa và một gói thuốc từ túi áo măng tô. Anh xoay người tránh gió, nhưng ngay cả ở nơi trú ẩn giữa những tảng đá, anh vẫn khó khăn lắm mới châm lửa được. Cuối cùng, điếu thuốc cũng bắt lửa, và anh rít một hơi sâu, đóng chiếc bật lửa lại. Anh cho nó vào túi, và lập tức gió thổi bay đóm lửa từ điếu thuốc của anh, dọa làm nó tắt ngóm.
Liệu Robert Hart có nói thật không? cô tự hỏi. Anh ta có lấy làm vui vì cô đã bỏ chạy không? “Họ đi chưa?” cô hỏi.
“Chưa.”
“Thì sao?”
“Họ sẽ ổn thôi. Họ phải làm việc này. Tôi nghĩ thật sự họ không hy vọng cô sẽ tiết lộ chuyện gì.”
Cô tựa cùi chỏ lên hai đầu gối, cột tóc lại.
“Chúng tôi cần phải tổ chức đám tang,” cô nói.
Anh gật đầu.
“Mattie và tôi cần tưởng nhớ Jack,” cô nói. “Mattie cần tưởng nhớ bố nó.”
Và cô chợt nghĩ chuyện này đúng là như vậy. Jack cần được tưởng nhớ.
“Đó không phải là tự sát,” cô nói. “Tôi chắc chắn điều đó.”
Một con mòng biển kêu rít lên và bay về phía họ. Họ nhìn lên con chim đang chao lượn trên đầu.
“Khi tôi còn nhỏ,” cô kể, “tôi thường nghĩ rằng kiếp sau mình muốn làm mòng biển. Cho đến khi bà Julia bảo với tôi rằng chúng bẩn lắm.”
“Loài chuột của biển,” Robert nói, dùng chân gí điếu thuốc xuống cát. Anh đút tay vào túi và trông như rúc mình sâu hơn vào lớp áo măng tô. Anh đang lạnh, cô nhận thấy điều đó. Vùng da quanh mắt đã trở nên trắng bệch.
Cô vén một lọn tóc khỏi miệng mình.
“Người dân ở Ely,” cô tiếp lời, “họ nói rằng đừng bao giờ sống gần bãi biển. Vào mùa đông sẽ rất buồn thảm. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy trầm cảm.”
“Tôi ganh tị với cô đấy,” anh nói.
“Thật ra thì, tôi đã từng trầm cảm, nhưng không phải vì biển.”
Bây giờ cô mới nhận ra dưới ánh sáng ban ngày, mắt anh có màu nâu đỏ chứ không phải màu nâu.
“Nhưng với những cánh cửa sổ thì sống gần biển là địa ngục,” cô nói thêm, nhìn về hướng ngôi nhà. “Muối biển làm mòn hết.”
Anh cúi người thấp xuống cát, nơi đó ấm hơn.
“Khi Mattie còn nhỏ, tôi rất sợ phải sống quá gần biển. Tôi phải trông chừng nó suốt ngày.”
Kathryn nhìn ra biển, nghiền ngẫm về mối nguy hiểm ngoài đó.
“Mùa hè hai năm trước, một bé gái đã chết đuối cách đây không xa. Một bé gái năm tuổi. Cô bé ở trên tàu với bố mẹ và bị sóng đánh rơi xuống biển. Tên cô bé là Wilhemina. Tôi nhớ mình đã nghĩ đó là một cái tên con gái thật cổ điển.”
Anh gật đầu.
“Khi chuyện đó xảy ra, tôi chỉ nghĩ rằng biển thật nguy hiểm, nó có thể tóm gọn một người trong tích tắc. Chuyện đó xảy ra quá nhanh, đúng không? Mới phút trước cuộc sống còn bình thường, phút sau đã không được như vậy nữa.”
“Cô là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết.”
Cô ấn gót giày xuống cát.
“Anh đang nghĩ rằng chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa, phải không?” Kathryn hỏi.
“Đúng.”
“Có thể người trên máy bay là Mattie.”
“Đúng.”
“Nếu thế thì thật là không thể chịu đựng nổi. Thực tình là không chịu đựng nổi.”
Anh xoa hai bàn tay để làm sạch cát dính.
“Cô có thể đi xa, cô biết đấy, cô và Mattie.”
“Đi xa?”
“Đến Bahamas. Đến Bermuda. Trong vài tuần, đến khi việc này chìm lắng.”
Kathryn cố gắng hình dung mình ở Bermuda vào lúc này với Mattie, rồi lắc đầu.
“Tôi không thể làm thế,” cô nói. “Như vậy họ sẽ nghĩ chuyện xảy ra với Jack là thật. Họ sẽ nghĩ chúng tôi bỏ trốn. Vả lại, Mattie sẽ không đi. Tôi không tin là nó sẽ chịu đi.”
“Một số thân nhân đã đến Ireland,” anh nói.
“Thì sao? Ở trong một nhà nghỉ với một trăm gia đình đang phát rồ khác à? Hay đi đến điểm rơi máy bay và đợi thợ lặn đem các phần thi thể lên? Không, tôi không nghĩ vậy.”
Cô lần tay trong túi áo lông vịt. Một chiếc khăn giấy Kleenex đã dùng. Tiền xu. Một thẻ tín dụng quá hạn. Vài tờ tiền lẻ. Một ống kẹo ngậm Lifesavers.
“Anh ăn không?” cô hỏi, chìa ống kẹo về trước.
“Cám ơn cô.”
Ngồi thu mình chán, anh đứng dậy trên cát, tựa lưng vào đá.
Anh ta sẽ làm hỏng áo măng tô, cô nghĩ.
“Ở đây đẹp thật,” anh nói. “Phần đẹp đẽ của thế giới.”
“Đúng vậy.”
Cô duỗi chân ra trước mặt. Cát tuy ẩm nhưng lại ấm một cách kỳ lạ.
“Chừng nào chuyện này chưa kết thúc thì truyền thông vẫn còn điên cuồng,” anh nói. “Tôi rất lấy làm tiếc.”
“Đó không phải là lỗi của anh.”
“Dù tôi cũng chưa bao giờ chứng kiến chuyện như cảnh ở trước cổng.”
“Lúc đó thật đáng sợ.”
“Cô hẳn đã quen với cuộc sống tĩnh lặng ở đây.”
“Một cuộc sống tĩnh lặng, bình thường,” cô đáp.
Anh vòng tay qua đầu gối, hai bàn tay đan vào nhau phía trước.
“Cuộc sống của cô trước đây thế nào? Hàng ngày cô thường làm gì?”
“Mỗi ngày mỗi khác. Anh muốn biết ngày nào?”
“Vậy à, tôi cũng chẳng biết. Những ngày thứ năm thì sao?”
“Những ngày thứ năm.” Cô nghĩ ngợi một lát. “Vào thứ năm, Mattie thường thi đấu khúc côn cầu trên cỏ hoặc bóng vợt. Buổi trưa tôi tập với ban nhạc. Hôm đó ở căn tin có pizza. Buổi tối chúng tôi ăn gà nướng. Chúng tôi xem Seinfeld và ER.”
“Còn Jack?”
“Khi nào có ở nhà thì Jack có mặt trong tất cả các sự kiện. Anh ấy tham gia hết. Các trận đấu. Món gà nướng. Seinfeld. Còn anh thì sao? Anh thường làm gì khi không làm việc cho Liên đoàn?”
“Tôi là trợ giáo,” anh đáp. “Tôi dạy bay trong thời gian rảnh rỗi tại một sân bay ở Virginia. Thật ra thì đó chỉ là một cánh đồng cỏ, với vài chiếc máy bay Cessna. Các lớp học rất vui, chỉ có điều họ không chịu xuống đất.”
“Cái gì không chịu xuống đất?”
“Các học viên trong những chuyến bay một mình đầu tiên của họ.”
Cô bật cười.
Họ ngồi trong sự im lặng dễ chịu, tựa lưng vào đá. Âm thanh dìu dặt của biển chợt trở nên thật thanh bình.
“Có lẽ tôi nên bắt đầu nghĩ đến những chi tiết của đám tang,” cô nói sau một lúc im lặng.
“Cô có dự định tổ chức ở đâu chưa?”
“Tôi nghĩ phải làm ở nhà thờ Thánh Joseph ở Ely Falls thôi,” cô đáp. “Đó là nhà thờ Công giáo gần nhất.”
Cô dừng lại.
“Chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên khi thấy tôi,” cô nói.
“Chúa ơi,” Robert thốt lên.
Bối rối trước phản ứng này, cô cảm thấy Robert giật giật tay áo cô, bảo cô đứng dậy. Cô quay lại để nhìn thứ mà Robert đang nhìn. Một thanh niên cột tóc đuôi gà đang chĩa ống kính to gần bằng một chiếc tivi về phía họ. Kathryn có thể thấy ảnh phản chiếu của cô và Robert trong ống kính khổng lồ.
Cô nghe thấy tiếng tách, tách, tách nhẹ nhàng, chuyên nghiệp của kẻ làm nhiệm vụ.
***
Họ đang ở trong nhà bếp khi cô quay lại, Somers cuốn một bản fax trong tay, Rita đung đưa điện thoại dưới cằm. Không cởi áo khoác ra, Kathryn nói cô có một tuyên bố ngắn cần thông báo. Somers ngước lên từ bản fax.
“Chồng tôi, Jack, chưa bao giờ cho tôi hoặc bất kì ai thấy dấu hiệu nào của sự bất ổn, nghiện thuốc, nghiện rượu, trầm cảm, hoặc đau ốm,” cô nói.
Cô nhìn Somers gấp bản fax làm bốn.
“Theo như tôi biết,” cô tiếp tục, “anh ấy luôn luôn mạnh khỏe, về thể chất lẫn tinh thần. Chúng tôi sống rất hạnh phúc. Chúng tôi là một gia đình bình thường, hạnh phúc sống trong một cộng đồng nhỏ. Tôi sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào khác nếu không có luật sư hiện diện, và không có thứ gì được đưa ra khỏi nhà này nếu không có giấy tờ yêu cầu hợp pháp. Như các vị đã biết, con gái tôi đang ở với bà cố của cháu trong thị trấn này. Không ai được phỏng vấn hoặc liên lạc họ bằng bất kỳ cách nào. Chấm hết.”
“Chị Lyons này,” Somers nói. “Chị đã liên lạc với mẹ của Jack chưa?”
“Mẹ anh ấy chết rồi,” cô đáp nhanh.
Và rồi, trong sự im lặng tiếp theo, cô biết có chuyện gì đó không ổn. Có thể đó là cái nhướn mày nhỏ nhất, nét cười thoáng hiếm hoi trên mặt Somers. Hoặc có thể sau đó cô đã tưởng tượng ra những tín hiệu này. Sự im lặng tuyệt đối đến nỗi dù cho có đến chín người trong phòng, nhưng tất cả những gì cô nghe thấy là tiếng tủ lạnh chạy rì rì.
“Tôi không nghĩ vậy,” Somers nhẹ nhàng nói, nhét tờ giấy gấp tư vào túi áo.
Sàn nhà dường như lún xuống và chao đảo như chuyến tàu lượn cao tốc ở công viên giải trí.
Somers lôi ra một tờ giấy xé từ quyển sổ tay ở một túi khác.
“Matigan Rice,” ông ta đọc. “Nhà dưỡng lão Forest Park, 47 Phố Adams, Wesley, Minnesota.”
Chuyến tàu tăng tốc rồi lao thẳng xuống từ độ cao mười lăm mét. Kathryn cảm thấy xây xẩm mặt mày.
“Bảy mươi hai tuổi, sinh ngày 22 tháng mười năm 1924. Ba đời chồng. Li dị ba lần. Chồng đầu tiên là John Francis Lyons. Một con trai, John Fitzwilliam Lyons, sinh ngày 18 tháng tư năm 1947, Bệnh viện Faulkner, Boston.”
Miệng Kathryn khô khốc, cô liếm môi trên. Có lẽ có chuyện gì đó mà cô hiểu chưa đúng.
“Mẹ của Jack còn sống ư?” cô hỏi.
“Đúng.”
“Jack luôn nói là…”
Cô dừng lại. Cô nghĩ về điều Jack luôn nói. Mẹ anh đã mất khi anh mới chín tuổi. Vì bệnh ung thư. Kathryn liếc nhanh sang Robert, và cô có thể thấy từ nét mặt anh ta rằng anh ta cũng bị bất ngờ. Cô nghĩ đến sự ngạo nghễ, sự quả quyết thiển cận của mình khi đưa ra lời tuyên bố chỉ vài giây trước.
“Dường như là thế,” Somers nói.
Tay điều tra viên đang thích thú việc này, Kathryn nghĩ.
“Làm sao ông phát hiện ra bà ấy?” cô hỏi.
“Bà ấy có tên trong hồ sơ quân đội của anh ta.”
“Còn bố của Jack?”
“Đã qua đời.”
Cô ngồi xuống chiếc ghế gần nhất và nhắm mắt lại. Cô cảm thấy hơi váng vất, căn phòng quay cuồng khó chịu dưới mi mắt cô.
Trong ngần ấy năm qua, cô nghĩ, vậy mà cô không hề biết gì. Trong ngần ấy năm qua, Mattie có một bà nội. Một bà nội là cảm hứng đặt tên cho nó.
Nhưng tại sao? cô thầm hỏi.
Jack, tại sao? Cô thầm hỏi chồng mình.