ĐÔI KHI CÔ CẢM THẤY NHƯ MÌNH ĐÃ SỐNG BA, BỐN NĂM trong mười một ngày. Lại có khi cô cảm thấy như chỉ mới vài phút trước Robert Hart đứng ở cửa và thốt lên hai tiếng – Cô Lyons? – làm thay đổi cuộc đời cô. Cô không nhớ thời gian lại xoay vòng theo cách như thế trước đây, ngoại trừ một hoặc hai ngày thăng hoa khi cô mới gặp Jack Lyons và biết yêu, và cuộc sống lúc đó được đo bằng phút chứ không phải bằng giờ.
Cô nằm trên giường trong phòng dành cho khách, hai tay duỗi ra, đầu gác lên gối, nhìn thấy chiếc ghế sơn mài đỏ và biển bên ngoài. Khi cô lái xe về nhà, trời có nắng, nhưng bây giờ bầu trời đã kéo mây, chỉ là những cụm mây mỏng, như những giọt sữa trong ly nước. Cô tháo một chiếc kẹp bướm sau đầu ra rồi ném xuống sàn nhà, chiếc kẹp trượt trên ván gỗ bóng rồi dừng lại tại tấm ván lót chân tường. Sáng hôm đó cô đã quyết tâm quay về nhà, bắt đầu quá trình dài dọn dẹp và vứt bỏ tất cả những dấu vết của mười một ngày qua để Mattie và cô có thể dọn về từ nhà bà Julia và bắt đầu cuộc sống trở lại. Thiện ý đó thật đáng ngưỡng mộ, Kathryn thầm nghĩ, nhưng lòng can đảm của cô đã suy giảm và tiêu tan khi cô bước chân vào nhà bếp và trông thấy chồng báo đăng hình Jack, cô và Mattie trên trang nhất, một tờ báo rơi vung vãi trên sàn nhà. Trên bàn có những chiếc bánh vòng cứng như đá đựng trong túi giấy và khoảng sáu lon nước ngọt không đường trên quầy bếp, dù ai đó đã có nhã ý đổ rác khỏi thùng, nên ngôi nhà không bốc mùi tởm lợm như Kathryn hình dung. Leo lên cầu thang, cô mở cửa phòng làm việc của Jack rồi liếc nhìn những ngăn kéo bị tháo ra và giấy tờ vương vãi trên sàn nhà, sự trần trụi kỳ lạ của chiếc bàn làm việc khi không còn thiết bị máy tính. Cô đã biết là FBI sẽ đến cùng với lệnh khám xét và tài liệu, nhưng cô không biết chính xác là khi nào. Từ hôm làm lễ tưởng niệm trước Giáng sinh hai ngày đến nay, cô chưa về nhà. Cũng như Robert, anh ta đã quay lại Washington ngay sau buổi lễ. Đóng cửa phòng làm việc của Jack, Kathryn đi hết hành lang, vào phòng nghỉ của khách, và nằm xuống giường.
Cô nghĩ mình thật ngốc khi quay lại sớm như vậy, nhưng cô không thể bỏ mặc căn nhà mãi được. Phải dọn dẹp nó. Kathryn biết bà Julia sẽ đến làm việc đó thay cô, nhưng cô không thể để bà làm thế. Julia đã kiệt sức, gần như suy sụp, không chỉ vì buổi lễ tưởng niệm và phải chăm sóc cho mẹ con Kathryn, mà còn vì tinh thần trách nhiệm cao cả của bà: Julia đã quyết tâm thực hiện các đơn giao hàng Giáng sinh khẩn cấp ở cửa hàng. Trong lòng, Kathryn thầm nghĩ nỗ lực sai lầm này có thể khiến bà cô gục ngã, nhưng Kathryn không thể thuyết phục bà từ bỏ nghĩa vụ. Vì vậy hai bà cháu họ, thỉnh thoảng với sự giúp đỡ của Mattie, đã dành ra những đêm dài để làm hộp, gói quà, rồi gạch bỏ những cái tên và địa chỉ trong danh sách. Và Kathryn nghĩ công việc đó cũng có tác dụng chữa trị. Bà Julia và cô đã đi ngủ khi mắt không còn nhìn thấy gì nữa, nhờ vậy họ không gặp phải chứng mất ngủ chắc chắn khó tránh khỏi.
Tuy nhiên, sáng nay Kathryn đã kiên quyết bảo bà Julia phải ngủ, và không ngạc nhiên khi bà cuối cùng cũng ưng thuận. Mattie cũng đi ngủ muộn và có thể nằm trên giường đến đầu giờ chiều, như đã làm trong mấy ngày qua. Kỳ thực, Kathryn chỉ ước sao con bé sẽ ngủ li bì suốt nhiều tháng trong một cơn hôn mê bình yên rồi tỉnh lại với một ý thức bị thời gian mài mòn, để nó không còn phải chịu đau đớn một cách phi lý và lặp lại hết lần này đến lần khác. Kathryn nghĩ vì vậy mà Mattie ngủ quá nhiều, để trì hoãn khoảnh khắc nhận biết đáng sợ đó.
Kathryn ước gì bản thân cô cũng làm chủ được cơn hôn mê như vậy. Nhưng không, cô cảm thấy như mình đang ở trong một hệ thống thời tiết riêng, lúc nào cũng bị ném vào người những mẩu tin tức và thông tin, đôi khi lạnh toát trước những ý nghĩ về điều đang đợi ngay trước mắt, tan chảy trước lòng tốt của những người khác (bà Julia, Robert và những người lạ), thường xuyên bị ngập ngụa trong những ký ức dường như không xác định được tình huống cũng như địa điểm, rồi sau đó đương đầu với sức nóng không thể chịu nổi từ các phóng viên, thợ chụp ảnh, và những người qua đường tò mò. Đó là một hệ thống thời tiết không có logic, cô nghĩ như vậy, không có đặc điểm, không có tiến triển, không có hình dạng. Đôi khi cô không thể ngủ hoặc ăn hoặc, kì lạ nhất là, không thể đọc nổi đến hết một bài báo. Và không phải do đề tài nói về Jack hoặc vụ nổ, mà vì cô không thể tập trung nổi. Những lúc khác, khi nói chuyện với bà Julia hoặc Mattie, cô không thể nói hết câu mà không quên đoạn đầu là gì, hoặc đôi khi cô không thể nhớ mình đang làm công việc gì. Có khi cô nhận ra mình đang áp điện thoại vào tai, một số điện thoại đang kết nối, nhưng lại không biết mình đang gọi cho ai hoặc để làm gì. Đầu óc cô cảm thấy chật chội, như có một sự thật quan trọng đang trêu ngươi cô ở vùng ngoại biên não, một chi tiết mà cô phải suy nghĩ, một ký ức mà cô phải nắm bắt, một giải pháp cho một vấn đề có vẻ như nằm ngoài tầm với của cô.
Nhưng tệ nhất là những khoảnh khắc từ tương đối bình lặng bỗng chuyển sang tức giận, và những khoảnh khắc ấy càng khiến cô bối rối hơn vì không phải lúc nào cô cũng liên hệ cơn nóng giận được với một người hoặc một việc thích hợp. Nó giống như được tạo thành từ những mảnh vụn, những mẩu đá bé xíu của một bức tranh màu xấu xí: nỗi bực dọc với Jack, tựa như anh đang đứng cạnh cô, vì một chuyện tầm thường nhỏ nhặt như anh đã không buồn cho cô biết tên nhân viên bảo hiểm của họ (dù cô nhận ra cô có thể dễ dàng lấy được, và đã lấy, bằng cách gọi điện đến công ty), hoặc vì sự thật hết sức vô hại nhưng vô cùng đau đớn rằng anh đã bỏ cô đi mãi mãi. Hoặc cơn bực tức với Arthur Kahler, người đã chơi tennis cùng Jack trong nhiều năm trời, vì đã đối xử với cô như thể cô là người xấu vào lần ông ta gặp cô ở cửa hàng Ingerbretson. Thậm chí nhác thấy một đôi tình nhân tiến đến cửa hàng của bà Julia (họ vẫn sánh đôi trong khi Jack và cô thì không) đã khiến Kathryn nổi đóa đến nỗi không buồn nói chuyện với họ khi họ bước vào.
Kathryn biết rằng có những mục tiêu thích hợp và rõ ràng hơn để cô chĩa cơn nóng giận của mình, nhưng, thật khó hiểu, cô thường câm như hến hoặc bất lực trước mặt họ: truyền thông, hãng hàng không, các cơ quan toàn chữ viết tắt, và những người hỏi han – những người hỏi han phiền toái và đáng sợ trên điện thoại, trên đường, trên tivi, khi một phụ nữ, được hỏi có bình luận gì trong mục phỏng vấn người qua đường về cuộc điều tra vụ tai nạn, đã quay sang ống kính và cáo buộc Kathryn tội giấu giếm thông tin quan trọng về vụ nổ.
***
Không lâu sau cuộc thẩm vấn giữa Kathryn và nhân viên điều tra của Ban An toàn, Robert đã đề nghị họ đi dạo. Họ rời khỏi nhà, tiến về phía chiếc xe. Anh mở cửa cho cô, và chỉ sau khi cánh cửa đóng lại, cô mới nhớ ra là phải hỏi xem họ sẽ đi đâu.
“Nhà thờ Thánh Joseph,” anh đáp nhanh.
“Tại sao?” cô hỏi.
“Tôi nghĩ đã đến lúc cô nên nói chuyện với một linh mục.”
Họ lái xe qua Ely, băng qua con đường cắt ngang đầm lầy muối dẫn đến Ely Falls, ngang qua những nhà máy bỏ hoang và những cửa hàng có biển hiệu giữ nguyên từ những năm 1960. Robert đỗ xe ngay trước nhà linh mục, một dinh thự bằng gạch tối tăm cần được cọ rửa. Kathryn chưa bao giờ đặt chân đến đây. Lúc còn bé, cô thường đi xe buýt vào Ely Falls với các bạn vào chiều thứ bảy và cùng đi xưng tội với họ tại nhà thờ Thánh Joseph. Ngồi một mình trên hàng ghế tăm tối, cô bị mê mẩn trước những bức tường đá trông có vẻ ẩm ướt, những gian phòng gỗ chạm khắc tinh xảo nơi bạn bè cô đang ngồi xưng tội phía sau những tấm rèm màu mận chín (các tội đó là gì, bây giờ Kathryn cũng chẳng nhớ nổi), những bức tranh Đàng Thánh Giá[2] đáng sợ khó rời mắt (cô bạn thân Patty Regan đã cố gắng giải thích một lần với Kathryn về ý nghĩa những bức tranh ấy, nhưng cô vẫn không nhớ nổi), và những quả cầu thủy tinh đỏ chói cắm những ngọn nến lập lòe mà Patty thường trả tiền mua rồi thắp lên trên đường đi ra khỏi nhà thờ. So với nhà thờ này thì nhà thờ tuổi thơ của Kathryn, Nhà thời Hội giám lý Thánh Matthew nằm trên Phố High ở Ely, lại buồn chán đến khủng khiếp, một nhà thờ lợp ván màu nâu, trang trí bằng gỗ màu vàng, có những cửa sổ ván ghép dài đón ánh mặt trời chói chang vào những buổi sáng chủ nhật, như thể kiến trúc sư đã đặc biệt lưu ý để đưa ánh sáng và không khí của Thanh giáo vào thiết kế của mình. Bà Julia thường dẫn Kathryn đến lớp học giáo lý ngày chủ nhật, nhưng mật độ chuyên cần đã giảm từ lớp năm trở đi, ở độ tuổi mà những câu chuyện trong Kinh thánh không còn khiến cô mê mẩn như trước đó nữa. Và sau thời gian đó, Kathryn hầu như không còn đặt chân đến nhà thờ nữa, trừ Lễ Giáng sinh và Lễ Phục sinh với bà Julia. Đôi khi, Kathryn cảm thấy lương tâm cắn rứt khi không cho Mattie đi học lớp giáo lý ngày chủ nhật, không cho con gái cô cơ hội để tìm hiểu về Công giáo rồi sau đó tự quyết định giá trị của tôn giáo cho bản thân nó, như Kathryn đã được phép làm. Kathryn nghĩ Mattie hiếm khi nào nghĩ đến Chúa, dù trong việc này cô biết mình có thể sai.
[2] Đàng Thánh Giá: Con đường khổ nạn gồm 14 trạm thánh giá mà Chúa Jesus đã trải qua, từ khu vườn Gethsemane, nơi Chúa Jesus bị kết án, đến nơi Chúa Jesus được táng xác trong mồ. (Những chú thích trong sách là của người dịch)
Trong những năm đầu mới cưới, Jack luôn tỏ thái độ hằn học với nhà thờ Công giáo. Anh từng đi học trường dòng ở Chelsea, và có những kỷ niệm vô cùng tồi tệ mà học sinh các trường học thuộc nhà thờ thường gặp phải, trong đó có những hình phạt bằng đòn roi. Trước đó Kathryn cứ ngỡ không trường học nào tệ hơn trường của cô, nó tồi tệ đến mức mỗi khi Kathryn nhớ về những năm tháng học tại trường tiểu học Ely, hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu cô là lớp bụi dày trên hành lang. Tuy nhiên, về sau này, sự hằn học của Jack đối với nhà thờ dường như đã thuyên giảm, và cô tự hỏi phải chăng anh đã thay đổi suy nghĩ. Vì anh không bao giờ nói về chuyện này, nên cô không thể nào biết được.
Họ bước xuống xe rồi gõ lên cánh cửa gỗ lớn. Một người đàn ông rất cao có mái tóc xoăn màu đen mở cửa.
“Mới có một người chết rất thảm,” Robert nói ngay.
Vị linh mục từ tốn gật đầu rồi nhìn từ Robert sang Kathryn.
“Đây là Kathryn Lyons,” Robert nói. “Chồng cô ấy vừa qua đời hôm qua trong một vụ rơi máy bay.”
Kathryn cảm thấy như khuôn mặt của vị linh mục trở nên trắng bệch trong một tích tắc rồi trở lại bình thường.
“Tôi là Cha Paul LeFevre,” ông nói với cả hai người, chìa tay ra. “Mời vào.”
Họ đi theo linh mục vào một gian phòng rộng có những cửa sổ hai cánh bằng thủy tinh chì và hàng nghìn quyển sách. Cha Paul ra dấu cho họ ngồi xuống quanh một lò sưởi nhỏ màu đen. Ông khoảng bốn chín năm mươi tuổi, và sau lớp áo màu đen là một cơ thể có vẻ cường tráng khác thường. Cô nghĩ vẩn vơ khi ngồi ở đấy về việc các linh mục làm gì để rèn luyện cơ thể, nếu họ được phép đi đến phòng thể hình và cử tạ.
“Con muốn tưởng niệm chồng,” Kathryn nói khi Cha Paul đã an tọa. Ông đặt một tập giấy và một cây bút trên đùi.
Kathryn cố nghĩ đến những từ dứt khoát hơn nhưng không tìm ra được. Cha Paul chậm rãi gật đầu tỏ vẻ thông hiểu. Kỳ thực, Kathryn có cảm giác mơ hồ, trong suốt buổi trò chuyện, rằng vị linh mục Công giáo này biết cô cần gì và tương lai trước mắt của cô ra sao rõ hơn cả bản thân cô.
“Con không phải là tín đồ Công giáo,” cô giải thích. “Nhưng chồng con thì đúng là con chiên của Chúa. Anh ấy từ bé đã theo đạo Công giáo, đi học ở các trường Công giáo. Con rất tiếc phải nói rằng đã lâu anh ấy không đi nhà thờ.”
Có một sự im lặng khi vị linh mục tiếp nhận thông tin này. Kathryn tự hỏi tại sao cô lại cảm thấy xin lỗi cho Jack là cần thiết.
“Còn con thì sao?” Cha Paul hỏi.
“Con từ nhỏ đã theo Hội Giám lý, nhưng con cũng không đi nhà thờ nhiều lắm.”
Cô nghĩ cô và Jack chưa đến nhà thờ vào sáng Chủ nhật lần nào. Những sáng chủ nhật, khi Jack ở nhà, là để dành cho giây phút thức dậy trên giường khi vẫn còn ngái ngủ, cho khoảnh khắc với tay chạm vào nhau uể oải dễ chịu – không một lời xen giữa, không một ngày xen giữa, những giấc mơ vương vấn thay cho trách nhiệm – và rồi sau đó, cho lúc nằm trong vòng tay Jack khi anh đã ngủ say.
“Có người nhà nào khác để báo tin không?” vị linh mục hỏi.
Kathryn lưỡng lự rồi liếc nhìn Robert.
“Thưa không,” cô đáp, lúng túng nhận ra cô đang nói dối với một linh mục trong một nhà thờ Công giáo.
“Hãy kể cho cha nghe về chồng của con,” linh mục nhẹ nhàng nói.
“Anh ấy qua đời hôm qua do nổ máy bay. Anh ấy chính là phi công.”
Cha Paul gật đầu. “Cha có đọc tin này trên báo,” ông nhẹ nhàng nói.
Kathryn nghĩ xem nên mô tả về Jack thế nào.
“Anh ấy là người tốt. Làm việc chăm chỉ. Yêu thương vợ con. Anh ấy rất thân thiết với con gái…”
Kathryn bặm môi lại, và nước mắt trào lên trong mắt cô. Robert rướn người qua đặt tay lên tay cô. Vị linh mục kiên nhẫn chờ đợi cô bình tâm lại.
“Anh ấy là con một,” Kathryn nói ngập ngừng. “Mẹ mất khi anh ấy chín tuổi, bố mất khi anh ấy học cao đẳng. Anh ấy lớn lên ở Boston và đi học ở trường Holy Cross. Anh ấy từng đi lính ở Việt Nam. Con gặp anh ấy sau đó, khi anh ấy là phi công lái máy bay chở hàng hóa. Giờ anh ấy làm cho…”
Cô dừng lại, lắc đầu.
“Anh ấy thích câu cá và lên mạng,” cô kể khi đã có thể nói tiếp. “Anh ấy chơi tennis. Anh ấy dành rất nhiều thời gian cho Mattie, con gái của chúng con.”
Đây là những sự thật, cô nghĩ, nhưng còn Jack thực sự, Jack mà cô đã biết và đã yêu, không có trong những sự thật đó.
“Anh ấy thích mạo hiểm,” cô nói đột ngột, gây ngạc nhiên cho vị linh mục. “Anh ấy không thích những ngày mưa gió. Anh ấy vặn bánh pizza để vắt dầu ra. Phim anh ấy thích xem là Nhân chứng. Con từng thấy anh ấy khóc khi xem xong những bộ phim buồn. Anh ấy không chịu nổi kẹt xe. Anh ấy thà đi đường vòng xa hơn tám mươi cây số để tránh kẹt xe trên đường cao tốc. Anh ấy ăn mặc không cầu kỳ lắm. Anh ấy mặc đồng phục đi làm và chẳng bao giờ bận tâm nhiều đến chuyện quần áo. Anh ấy có một chiếc áo khoác da mà anh ấy rất thích. Anh ấy có thể rất dịu dàng và ân cần…”
Cô nhìn đi nơi khác.
“Còn con thì sao?” linh mục hỏi. “Con thấy thế nào?”
“Con ư?” Kathryn hỏi lại. “Con cảm thấy như vừa bị nhừ đòn.”
Linh mục gật đầu vẻ hiểu biết. Giống như phản ứng của chuyên gia trị liệu, cô nghĩ.
“Còn cuộc hôn nhân của con? Nó như thế nào?”
Kathryn liếc nhìn Robert.
“Nó rất tốt đẹp,” cô đáp. “Chúng con rất mặn nồng. Con có thể nói rằng chúng con yêu nhau trong một thời gian rất dài, dài hơn đa số những cặp vợ chồng khác. Mà con cũng không biết người khác thế nào. Con chỉ đoán như vậy thôi.”
“Rồi sau đó, chuyện gì xảy ra?” linh mục hỏi.
“Rồi sau đó?” cô lặp lại. “Rồi sau đó chúng con lại yêu nhau. Chúng con chuyển từ giai đoạn yêu đương nồng thắm sang chỉ yêu thôi.”
“Chỉ yêu thôi, đó là những gì Chúa mong muốn từ các con,” linh mục nói.
Chưa một lần nào trong cuộc hôn nhân của mình Kathryn nghĩ đến chuyện Chúa muốn gì.
“Chúng con kết hôn mười sáu năm rồi,” cô nói.
Linh mục gác chéo chân. “Cơ trưởng Lyons đã được đưa về chưa?”
“Được đưa về?” cô hỏi, thoạt đầu không hiểu.
“Thi thể,” linh mục đáp.
“Không có thi thể,” Kathryn nói nhanh. “Thi thể chồng con chưa được tìm thấy.”
“Vậy thì cha đoán là con đang nói đến lễ tưởng niệm.”
Kathryn nhìn sang Robert cầu cứu. “Con nghĩ là vậy.”
“Xem nào,” Cha Paul nói, “chúng ta có thể làm một trong hai việc. Chúng ta có thể làm lễ tưởng niệm cho Cơ trưởng Lyons, trong trường hợp đó cha khuyên con nên tổ chức trước Lễ Giáng sinh để kỳ nghỉ lễ có thể trở thành một phần trong quá trình chữa lành thay vì trở thành bi kịch cho cả con lẫn con gái.”
Kathryn nghĩ ngợi về đề xuất này, cô không cảm thấy nhiều hi vọng về nó lắm.
“Hoặc,” linh mục nói tiếp, “chúng ta có thể đợi cho đến khi tìm thấy chồng con.”
“Không,” Kathryn kịch liệt phản đối. “Vì con gái con, vì con, vì Jack, chúng ta cần tưởng nhớ Jack ngay lúc này. Người ta đang đóng đinh anh ấy trên báo chí và tivi.”
Cô nghe thấy từ đóng đinh và cảm thấy ngượng ngùng vì dùng nó trước mặt một linh mục. Nhưng đó không phải chính là điều đang thực sự xảy ra sao? cô nghĩ. Họ đang đóng đinh danh dự của Jack, ký ức của Jack.
“Người ta nói anh ấy tự sát, anh ấy giết một trăm lẻ ba người,” Kathryn nói. “Nếu Mattie và con không tưởng nhớ Jack, thì con không biết còn ai làm chuyện đó.”
Linh mục quan sát cô.
“Tưởng nhớ anh ấy,” cô nói thêm, dù không thể giải thích được hơn nữa.
“Mà con…”
Cô hắng giọng và cố gắng ngồi thẳng.
“Con rất nghi ngờ khả năng tìm thấy xác anh ấy,” cô nói.
***
Đêm hôm đó, đi đi lại lại thao thức trong nhà bếp của Julia sau khi bà và Mattie đã đi ngủ rất lâu, Kathryn bắt đầu tự hỏi liệu cô có nên báo với Cha Paul rằng còn một người thân còn sống – mẹ của Jack. Và Kathryn có sai không khi đã không báo tin cho bà biết rằng con bà đã chết? Cô nghĩ rằng mình đã sai, nhưng ý nghĩ về việc mẹ của Jack còn sống, hình ảnh một bà lão trông giống như Jack ngồi trong một viện dưỡng lão khiến Kathryn cảm thấy một tiếng động khó chịu trong không khí, như tiếng muỗi vo ve phiền toái không dứt mà cô chỉ muốn biến quách đi. Kathryn khó chịu không chỉ vì phát hiện ra Jack nói dối cô; mà chính sự tồn tại tiếp diễn của bà, một người phụ nữ mà Kathryn không biết phải làm thế nào. Không định trước, Kathryn với tay lấy điện thoại rồi gọi đến tổng đài.
Khi đã có số điện thoại, cô gọi điện đến viện dưỡng lão.
“Forest Park,” một phụ nữ trẻ trả lời.
“Ồ, xin chào,” Kathryn hồi hộp nói. “Tôi muốn nói chuyện với bà Matigan Rice.”
“Ái chà, hay thật,” cô gái nói, Kathryn nghĩ cô ta đang ăn hoặc nhai kẹo cao su.
“Đây là cuộc gọi tìm bà Rice lần thứ ba trong ngày hôm nay,” cô ta nói tiếp, “và chẳng có ai gọi cho bà ta trong bao lâu nhỉ, xem nào, dễ cũng sáu tháng rồi đấy.”
Cô ta phát ra tiếng hút, như đang uống nước bằng ống hút.
“Mà dù thế nào đi nữa, bà Rice cũng không nghe điện thoại được. Bà ấy rất yếu, không thể rời phòng, và ngoài những vấn đề sức khỏe khác ra thì bà ấy nghe kém lắm, thế nên nghe điện thoại là việc bất khả thi.”
“Bà ấy thế nào rồi?” Kathryn hỏi.
“Vẫn thế.”
“Vậy à,” Kathryn ngập ngừng. “Tôi chỉ đang cố gắng nhớ lại… bà Rice vào đây khi nào.”
Đầu dây bên kia im lặng.
“Chị có phải là thân nhân không đấy?” cô ta hỏi vẻ cảnh giác.
Kathryn suy nghĩ về câu hỏi đó. Cô có phải là thân nhân không? Jack, vì lý do riêng, đã chọn cách không thừa nhận mẹ mình còn sống, và do đó, theo logic mà nói thì bà không còn sống nữa – chắc chắn đã không còn sống đối với Kathryn và Mattie. Kathryn không biết nên làm Matigan Rice sống lại bằng cách nào. Có phải Jack nói dối về mẹ vì cảm thấy xấu hổ không? Phải chăng anh và bà có một vướng mắc không thể tháo gỡ?
“Không, tôi không phải là thân nhân,” Kathryn đáp. “Sắp có một buổi lễ tưởng niệm dành cho con trai bà ấy, và tôi muốn báo tin cho bà ấy biết.”
“Con trai bà ấy chết rồi ư?”
“Vâng.”
“Tên anh ta là gì?”
“Jack. Jack Lyons.”
“OK.”
“Anh ấy vừa thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay,” Kathryn nói thêm.
“Thật ư? Ý chị là vụ tai nạn máy bay Vision đó à?”
“Phải.”
“Ôi, Chúa ơi, vụ đó thật đáng sợ nhỉ? Loại người gì mà lại đi tự sát rồi giết luôn những người vô tội như thế?”
Kathryn im lặng.
“Chà, đây là lần đầu tiên tôi hay tin con trai bà Rice có mặt trên chuyến bay đấy. Chị có muốn tôi cố gắng báo tin cho bà ta không? Tôi không thể hứa với chị là bà ta sẽ hiểu…”
“Vâng,” Kathryn lạnh lùng nói. “Tôi nghĩ cô nên tìm cách báo tin cho bà ấy.”
“Có lẽ tôi nên báo với người phụ trách của tôi trước đã. À mà cám ơn chị đã báo cho chúng tôi nhé, tôi hy vọng chị không có người thân trên chuyến bay đó.”
“Thật ra là tôi cũng có.”
“Ôi, Chúa ơi, tôi rất tiếc.”
“Chồng tôi chính là phi công,” Kathryn nói.
***
Những ngày sau khi gặp linh mục, Kathryn và Cha Paul thường xuyên nói chuyện với nhau, và vị linh mục đã hai lần lái xe đến nhà bà Julia để viếng thăm. Tại cuộc gặp đầu tiên ở nhà thờ, Robert đã khẳng định cần phải có an ninh, còn Cha Paul dường như không nghĩ rằng việc này nằm ngoài tầm kiểm soát của mình, dù trong chuyện này, theo những gì đã xảy ra, ông đã tự tin thái quá. Sau nhiều lần nhắc lại, Kathryn đã có thể nói nhiều hơn chữ tưởng nhớ, dù Cha Paul không đòi hỏi nhiều hơn thế, và cô cảm kích điều đó. Giờ đây mỗi khi nghĩ đến Cha Paul, cô đều cảm thấy rùng mình một cách nhẹ nhõm, vì nếu không có sự thu xếp chu đáo của ông, buổi lễ tưởng niệm sẽ thất bại thảm hại.
Theo chương trình, cô cùng bà Julia và Mattie phải đến nhà thờ một tiếng trước giờ làm lễ để có thể đi lại dễ dàng và không gặp trở ngại trên đường, vì đường sá sau đó đã tắc nghẽn đến độ không có gì – thậm chí một chiếc xe cấp cứu – có thể lọt qua. Mattie mặc váy lụa dài màu xám và áo khoác đen cắt ngắn. Người nó run bần bật khi Cha Paul nói giờ đây bố nó đã hạ cánh an toàn. Julia và Kathryn mặc vest và nắm tay nhau. Hay chính xác hơn là Julia nắm tay Kathryn, còn Kathryn nắm tay Mattie, và sự truyền dẫn sức mạnh này, ý chí của sức mạnh từ người này sang người kia và người kế tiếp, đã giúp cho Kathryn, và cô nghĩ cũng giúp cả bà Julia và Mattie nữa, vượt qua buổi lễ. Nhưng cuối cùng, khi Kathryn đứng dậy từ hàng ghế, quay lưng lại để nhìn phía sau nhà thờ và thấy hàng hàng lớp lớp phi công mặc vest đen, phi công của nhiều hãng hàng không, đa số chưa bao giờ gặp Jack, rồi đến những hàng học sinh từ các lớp học của cô, trong đó một số em đã tốt nghiệp và quay về để tham dự sự kiện này, cô đã khụy xuống suýt ngã, và chính Mattie, đột ngột đổi vai trò, đã đỡ cô dậy, giúp cô đứng vững. Mattie, Kathryn và Julia sau đó đã đi đến cuối dãy ghế, và Kathryn nghĩ rằng đó có thể là quãng đường dài nhất cô từng đi qua. Vì trong lúc đi, cô có cảm giác mơ hồ rằng khi cô đến được cửa nhà thờ và ngồi vào chiếc xe màu đen đang đợi bên ngoài, cuộc đời của cô với Jack sẽ thật sự chấm dứt.
Ngày hôm sau, báo chí đăng ảnh chụp Kathryn rời khỏi nhà thờ Thánh Joseph, và cô ngạc nhiên không chỉ vì mình xuất hiện đồng loạt trên trang nhất một số tờ báo trên sạp báo ngoài cửa hiệu Ingerbretson, mà còn bởi chính bức ảnh đó: Cô nhận thấy nỗi buồn đã làm biến đổi khuôn mặt, đào những hố sâu, kẻ những nếp nhăn và làm cơ bắp chảy xệ, khiến khuôn mặt cô gần như không thể nhận ra. Trong ảnh, Kathryn nắm chặt tay con gái làm điểm tựa, trông cô bần thần, hoang mang và già đi nhiều tuổi.
Lúc này cô nhíu mày để nhớ lại bức ảnh đó, và những bức ảnh khác, xui xẻo nhất là ảnh chụp cô và Robert ở chỗ trú ẩn ngoài bãi biển, Robert kéo tay áo cô, cả hai trông thoáng sợ hãi và bị dồn vào đường cùng. Cô nghĩ đó là một bức ảnh đặc biệt đau đớn, vì trong thực tế, Robert đã nổi đóa trước thủ đoạn không biết xấu hổ của tay phóng viên ảnh. Đến tận bây giờ cô vẫn còn nghe tiếng Robert hét lên với tay phóng viên ảnh trong lúc anh leo lên đá và đuổi theo gã qua bãi cỏ. Sau đó, sự phẫn nộ của Robert và cuộc rượt đuổi khiến Kathryn cảm thấy tràn đầy tự tin đến nỗi cô đã xúc động đến mức đưa ra tuyên bố khi vừa bước vào nhà – lời tuyên bố lập tức tan thành mây khói khi Somers nhắc đến mẹ của Jack.
Sau hôm ở cửa hiệu Ingerbretson về, Kathryn thôi không còn để mắt đến báo chí hoặc tivi nữa. Sau lễ tưởng niệm, cô chỉ định ở lại nhà bà Julia một đêm, nhưng không ngờ chuyến thăm đó lại kéo dài qua lễ Giáng sinh. Cũng như Mattie, Kathryn không thể đặt chân về nhà, và cô cũng không thể bảo Mattie về nhà với cô khi chưa dọn dẹp hết những kỷ vật có thể khiến Mattie lao ra khỏi cửa. Chỉ một lần duy nhất, lúc ở nhà bà Julia, có người vô tình quên tắt tivi, thế nên trước khi Kathryn kịp nhận ra chuyện gì đang xảy ra, cô đã đứng ngây người xem đoạn phim đồ họa mô phỏng những sự kiện xảy ra sau vụ nổ trong buồng lái của chuyến bay Vision 384. Theo diễn biến đó, buồng lái đã đứt rời khỏi thân máy bay, còn thân máy bay thì nổ tung thành từng mảnh nhỏ trong một vụ nổ thứ hai. Đoạn phim đồ họa mô tả đường di chuyển của nhiều bộ phận khi rơi xuống biển. Theo phóng viên, cú rơi có thể diễn ra trong khoảng chín mươi giây. Kathryn không thể rời mắt khỏi màn hình. Cô dõi theo đường vòng cung của buồng lái đồ họa khi nó rơi xuống nước, làm nước bắn lên và chìm nghỉm.
***
Những cuộn mây màu trắng sữa đang dày lên, làm giảm ánh sáng chiếu vào cửa sổ phòng ngủ của khách. Kathryn ngồi dậy trên giường, quyết tâm bắt tay vào dọn dẹp. Cô nghe tiếng bước chân ngoài hành lang nên vội thả hai chân xuống cạnh giường. Chắc là bà Julia, cô nghĩ, đến để giúp một tay. Nhưng khi Kathryn ngước lên, cô nhận ra người đang đứng ở khung cửa không phải là bà Julia, mà là Robert Hart.
“Tôi đến nhà bà của cô,” anh ta nói ngay, “cụ bảo cô đã về đây.”
Anh đút tay vào túi áo khoác thể thao, chiếc áo có màu mềm mại mơ hồ, có lẽ là màu nâu sẫm. Trông anh thật khác khi mặc quần jean. Tóc anh hơi rối, giống như anh mới dùng tay vuốt tóc lại.
“Tôi đến đây không phải vì công việc,” anh nói. “Tôi được nghỉ vài ngày. Tôi muốn xem cô thế nào rồi.” Anh bước vào phòng.
Cô tự hỏi anh có gõ cửa phía sau nhà không, và giả dụ có, thì tại sao cô lại không nghe thấy.
“Tôi rất vui khi gặp lại anh,” cô nói và tự ngạc nhiên về chính mình.
Mà đúng là vậy. Cô có thể cảm thấy một khối nặng – không phải toàn bộ trọng lượng, chỉ là một phần nhỏ nhùng nhằng – trượt khỏi vai mình.
“Mattie thế nào rồi?” anh hỏi, đi vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế sơn mài đỏ.
Đó sẽ là một bức ảnh thú vị, Kathryn chợt nghĩ, người đàn ông ngồi trên ghế sơn mài đỏ trên nền sơn xanh đọt chuối. Một người đàn ông hấp dẫn. Một khuôn mặt thu hút. Chỏm tóc và mái tóc màu đất, kết hợp với tướng ngồi hơi thõng vai, đút tay vào túi, khiến anh trông hao hao người Anh, như một nhân vật trong một bộ phim về Thế chiến thứ hai. Một người đang chìm trong suy tư, cô nghĩ.
“Kinh khủng,” Kathryn đáp, cảm thấy nhẹ nhõm khi có người để nói về Mattie. Bà Julia đã quá mệt mỏi nên cô không muốn tạo thêm gánh nặng cho bà với những mối bận tâm của riêng mình. Bà đã chịu khổ sở quá nhiều, nhiều hơn bất kỳ người phụ nữ bảy mươi tám tuổi nào.
“Mattie đang vật vã lắm,” Kathryn kể đơn giản với Robert. “Nó bồn chồn, lo lắng, không tập trung được vào bất kỳ việc gì. Thỉnh thoảng nó cố xem tivi, nhưng việc đó bây giờ không an toàn nữa. Ngay cả khi chương trình nó xem không phải là tin tức thì vẫn luôn có cái gì đó khiến nó nhớ đến bố. Tối qua, nó đi đến nhà của Taylor để gặp vài đứa bạn, và khi trở về nó cực kỳ cáu bẳn. Một người bạn của bố Taylor có mặt tại nhà đã hỏi Mattie là sắp tới có phiên tòa xét xử không, và Mattie đã mất hết tự chủ. Bố của Taylor phải chở nó về.”
Kathryn nhận ra Robert đang nhìn cô chăm chú.
“Tôi cũng không biết nữa,” cô nói. “Tôi lo lắm, Robert ạ. Thực sự rất lo. Mattie dễ nổi cáu lắm. Nó rất mong manh dễ vỡ. Nó không chịu ăn uống gì cả. Đôi khi nó phá ra cười như điên dại. Dường như nó không còn biết cách phản ứng phù hợp với bất kỳ thứ gì nữa. Dù tôi cũng muốn biết thế nào là phù hợp. Tôi bảo Mattie rằng cuộc sống không phải đã tan biến, chúng ta không thể phá bỏ các luật lệ, và nó đáp, khá đúng, rằng mọi luật lệ đều đã bị phá vỡ rồi.”
Anh gác chéo chân theo kiểu đàn ông, mắt cá chân này đặt trên đầu gối chân kia.
“Giáng sinh của cô thế nào?” anh hỏi.
“Buồn lắm. Rất thảm hại. Từng phút đều rất thảm hại. Điều tồi tệ nhất là chứng kiến Mattie cố gắng. Như thể nó mắc nợ tôi và bà Julia vậy. Như thể nó mắc nợ bố nó. Giờ tôi chỉ ước giá như chúng tôi đã hủy toàn bộ mọi việc. Còn anh thì sao?”
“Buồn,” anh đáp. “Thảm hại.”
Kathryn mỉm cười.
“Cô đang làm gì trong này?” anh hỏi, nhìn quanh phòng, như để tìm manh mối từ một món đồ nào đấy.
“Tôi đang cố tình tránh né dọn dẹp nhà cửa. Trước nay tôi luôn dùng phòng này làm nơi nghỉ ngơi. Tôi ẩn nấp trong đây. Anh đang làm gì ở đây? Đó mới là câu cần hỏi đấy.”
“Tôi được nghỉ vài ngày.”
“Thì sao?”
Anh bỏ chân xuống, đút tay vào túi quần.
“Vào đêm cuối cùng, Jack không nghỉ ở căn hộ dành cho phi hành đoàn,” anh nói.
Không khí trong phòng trở nên ngột ngạt và nặng nề.
“Anh ấy đi đâu?” Kathryn khẽ hỏi.
Sao người ta lại có thể mau mắn đặt ra một câu hỏi mà mình không muốn nghe câu trả lời thế nhỉ, Kathryn tự nhủ, và đây không phải là lần đầu tiên. Tựa như một phần của lý trí thách thức phần còn lại.
“Chúng tôi không biết,” Robert đáp. “Như cô đã biết, anh ấy là người Mỹ duy nhất trong phi hành đoàn. Khi máy bay hạ cánh, Martin và Sullivan lên xe của họ rồi lái về nhà. Chúng tôi biết rằng Jack đã đến căn hộ, tuy rất ngắn ngủi, vì anh ấy đã gọi hai cuộc điện thoại, một cuộc cho cô và một cuộc cho một nhà hàng để đặt bàn tối hôm đó. Nhưng theo người giúp việc, không có ai ngủ lại đó vào tối thứ hai. Có vẻ như Ban An toàn đã biết chuyện này một thời gian rồi. Nó sẽ xuất hiện trong bản tin hôm nay. Buổi trưa.”
Kathryn nằm xuống giường và nhìn lên trần nhà. Cô không có ở nhà khi Jack gọi điện, và anh đã để lại lời nhắn trong máy ghi âm. Chào cưng, anh đây. Anh sắp xuống dưới để kiếm gì ăn. Em gọi điện cho Alfred chưa? Hẹn sớm gặp lại em nhé.
“Tôi không muốn cô bị bất ngờ. Tôi không muốn cô nhận tin này một mình.”
“Mattie…,” cô thốt lên.
“Tôi đã báo với bà Julia rồi,” anh nói. Anh đứng dậy, đi qua phòng, ngồi xuống ở cuối giường, gần như không chạm lên mép giường. Anh mặc áo cotton màu sẫm, có lẽ là màu xám, dù Kathryn tự hỏi có phải màu đó cũng được gọi là màu nâu sẫm không.
Đầu óc cô cảm thấy bị xô đẩy, đè nén. Nếu Jack không ngủ trong căn hộ phi hành đoàn thì anh đã ngủ ở đâu? Cô nhắm mắt, không muốn nghĩ đến điều đó. Nếu có người hỏi, cô hẳn đã nói rằng cô biết chắc chồng cô chưa bao giờ thiếu chung thủy. Chuyện này không giống Jack, cô muốn nói với Robert như vậy. Đó hoàn toàn không phải là anh ấy.
“Chuyện này sẽ chấm dứt,” Robert nói.
“Đó không phải là tự sát.” Cô cảm thấy thôi thúc ít nhất phải nói ra điều này. Cô cảm thấy như vậy một cách tuyệt đối.
Anh nghiêng người qua, đặt tay lên tay cô. Theo bản năng, cô rút tay lại, nhưng anh nắm chặt.
Cô không muốn hỏi, cô đã không hỏi, nhưng cô phải hỏi, và cô có thể thấy rằng anh đang chờ đợi câu hỏi. Cô từ từ ngồi dậy, rút tay lại, và lần này Robert thả ra.
“Cuộc hẹn đặt bàn cho bao nhiêu người?” cô hỏi hết sức thận trọng.
“Cho hai người.”
Cô bặm môi. Như thế cũng không có ý nghĩa gì, cô nghĩ. Có thể là cho Jack và một người trong phi hành đoàn, phải không nhỉ? Cô thấy ánh mắt của Robert hướng ra cửa sổ rồi quay lại. Người nào trong phi hành đoàn? cô tự hỏi.
“Cô giữ liên lạc với Jack thế nào mỗi khi anh ấy đi xa?” Robert hỏi.
“Anh ấy gọi cho tôi. Như thế dễ hơn, vì lịch của tôi lúc nào cũng vậy. Anh ấy gọi cho tôi ngay sau khi đến căn hộ phi hành đoàn. Nếu cần liên lạc thì tôi sẽ để lại tin nhắn trong hộp thư thoại của anh ấy. Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau như thế vì tôi không bao giờ biết khi nào thì anh ấy đang cố chợp mắt.”
Cô nghĩ đến sự thỏa thuận đó. Đó là đề nghị của cô hay của Jack? Họ đã làm thế trong nhiều năm rồi, cô không nhớ nổi đã bắt đầu như thế nào nữa. Và đó dường như luôn là một hệ thống hợp lý, không có gì phải hỏi. Kỳ lạ thật, cô nghĩ, một sự việc nhìn ở góc độ này thì ra thế này, nhưng khi nhìn ở góc độ khác thì lại ra một thứ hoàn toàn khác. Hoặc có lẽ nó không kì lạ đến mức đó.
“Rõ ràng chúng ta không thể hỏi phi hành đoàn,” cô nói.
“Đúng.”
Cô nghĩ đến câu hỏi mà Mattie đã hỏi cô vào ngày nó nhận được tin đồn về vụ tự sát: Làm sao mẹ biết rằng mẹ biết một ai đó?
Kathryn đứng dậy và đi đến cửa sổ. Cô đang mặc áo thun cũ rộng thùng thình và quần jean sờn gối mà cô đã mặc mấy ngày rồi. Cả đôi tất mà cô đang đi cũng không sạch. Cô không nghĩ hôm nay mình sẽ gặp ai. Cô nghĩ khi đau buồn thì ngoại hình là thứ đầu tiên bỏ đi. Hay nhân phẩm mới là thứ đầu tiên?
“Tôi không còn khóc được nữa,” cô nói. “Giai đoạn đó qua rồi.”
“Kathryn…”
“Đó là chuyện chưa có tiền lệ,” cô nói tiếp. “Tuyệt đối không có tiền lệ. Chưa có phi công nào từng bị buộc tội tự sát trong hãng hàng không cả.”
“Thật ra, không phải là không có tiền lệ,” Robert nói. “Từng có một vụ.”
Kathryn quay mặt lại từ cửa sổ.
“Ở Maroc. Một máy bay của hãng Royal Air Maroc đã rơi gần Agadir vào tháng tám năm 1994. Chính phủ Maroc, dựa theo đoạn băng CVR, cho rằng tai nạn đó là do hành động tự sát. Có vẻ như phi công đã cố tình ngắt chế độ bay tự động và hướng máy bay xuống đất. Chiếc máy bay bị vỡ trước khi va chạm. Bốn mươi bốn người chết.”
“Chúa ơi!”
Cô đưa tay lên che mắt. Không thể không thấy, dù chỉ trong một tích tắc, nỗi khiếp đảm của cơ phó khi chứng kiến cơ trưởng tự sát, cơn hoảng loạn kinh hoàng của các hành khách trong máy bay khi họ cảm thấy sự rơi đột ngột.
“Chừng nào họ mới công bố đoạn băng?” cô hỏi. “Đoạn băng của Jack?”
Robert lắc đầu. “Tôi ngờ rằng họ sẽ không bao giờ công bố nó. Họ không cần phải làm thế. Đoạn trích được lấy dựa theo Đạo luật Tự do Thông tin. Khi các đoạn băng được công bố, thì nội dung của nó hoặc là không có gì nhạy cảm, hoặc là đã được kiểm duyệt kỹ càng.”
“Vậy là tôi sẽ không bao giờ phải nghe nó.”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Nhưng vậy thì… làm sao chúng ta biết được chuyện gì đã xảy ra?”
“Ba mươi cơ quan khác nhau ở ba quốc gia đang điều tra về vụ nổ này,” Robert nói. “Tin tôi đi, Liên đoàn ghét lời cáo buộc tự sát hơn bất kỳ ai khác – thậm chí chỉ là manh mối của một vụ tự sát. Tất cả các nghị sĩ ở Washington đang kêu gọi kiểm tra tâm lý phi công gắt gao hơn, mà theo quan điểm của Liên đoàn thì đó là một cơn ác mộng. Vụ này càng được giải quyết sớm thì càng tốt.”
Kathryn xoa bóp cánh tay, làm cho máu lưu thông. “Tất cả chỉ là chuyện chính trị, phải không?” cô hỏi.
“Thường là thế.”
“Vì vậy mà anh mới đến đây.”
Anh ngồi trên giường, im lặng. Anh lấy tay vuốt phẳng ga trải giường. “Không. Không phải bây giờ.”
“Vậy anh đến đây với tư cách là…?”
“Tôi ở đây,” anh đáp, ngước lên. “Tôi chỉ ở đây, vậy thôi.”
Cô gật đầu chậm rãi. Cô muốn mỉm cười. Cô muốn nói với Robert Hart rằng cô rất vui khi anh có mặt ở đó, rằng trải qua toàn bộ chuyện này một mình là điều vô cùng khó khăn, và rất khó khăn khi không được ở bên người duy nhất mà cô cần, đó là Jack.
“Áo anh mặc có phải loại tốt không?” cô hỏi nhanh.
“Không hẳn.”
“Anh có muốn làm việc nhà không?”