Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ! Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê

Chương 6: Không hòa thuận

Tác giả: Cassandra Clare

Clary toàn thân choáng váng, như thể toàn bộ không khí đều bị hút ra khỏi căn phòng. Cô cố lùi lại nhưng loạng choạng và đập vai vào cửa. Nó phát ra một tiếng rầm, và Jace cùng cô gái tách nhau ra.

Clary đứng im. Cả hai đều đang nhìn cô. Cô để ý thấy cô gái có mái tóc đen thẳng tới vai và vô cùng xinh đẹp. Những cúc áo sơ mi trên cùng đã mở, để lộ chiếc áo lót ren. Clary cảm thấy như sắp sửa nôn.

Bàn tay cô gái sờ lên cái áo, nhanh chóng đóng cúc lại. Cô ta có vẻ không vui. “Xin lỗi,” cô ta nhăn mặt nói. “Cô là ai?”

Clary không trả lời – cô đang nhìn Jace, người đang nhìn cô một cách ngờ vực. Da anh không còn chút màu sắc, vì thế quầng thâm đen quanh mắt càng rõ. Anh nhìn Clary như thể đang nhìn vào nòng súng.

“Aline.” Giọng Jace không hề ấm áp hay có sắc thái. “Đây là em gái anh, Clary.”

“À. À.” Gương mặt Aline thư giãn thành một nụ cười có chút ngượng ngùng. “Xin lỗi! Xin lỗi đã gặp em trong tình huống này. Xin chào, chị là Aline.”

Cô ta tiến vầ phía Clary, vẫn mỉm cười, chìa tay ra. Mình không nghĩ mình chạm nổi vào cô ta, Clary kinh tởm nghĩ. Cô nhìn Jace, người có vẻ đang đọc biểu cảm in trong đôi mắt cô; không cười, anh nắm lấy vai Aline và nói gì đó vào tai cô ta. Cô ta có vẻ ngạc nhiên, nhún vai và và lẳng lặng đi ra cửa.

Vậy là trong phòng chỉ còn Clary và Jace. Ở đây với một người vẫn đang nhìn cô như thể cơn ác mộng kinh khủng nhất biến thành sự thật.

“Jace,” cô nói, và tiến một bước về phía anh.

Anh lùi lại như thể trên người cô phủ toàn chất độc. “Nhân danh Thiên thần,” anh nói, “Clary, em đang làm cái gì ở đây?”

Trên tất cả mọi điều, sự khắc nghiệt trong giọng nói anh làm cô tổn thương. “Ít nhất anh có thể giả bộ mừng khi thấy em chứ. Kể cả một chút thôi.”

“Anh không hề mừng,” anh nói. Có chút màu sắc đã trở lại, nhưng bọng mắt vẫn xám xịt đối lập với nước da của anh. Clary đợi anh nói gì đó, nhưng có vẻ anh chỉ định đứng nhìn cô trong sự kinh hoàng vì ghê tởm. Cô nhận thấy với sự rõ ràng rằng anh đang mặc chiếc áo len đen lùng phùng quanh cổ tay như thể anh đã sụt cân, và móng tay anh bị cắn cụt lủn nham nhở. “Thậm chí là một chút.”

“Đây không phải anh,” cô nói. “Em ghét khi anh hành động như thế này—”

“Ồ, em ghét thế, đúng không? À, vậy anh nên dừng lại, đúng không? Ý anh là, em thực sự làm mọi điều anh yêu cầu em làm.”

“Anh không có quyền làm bất cứ điều gì anh đã làm!” Cô quát, đột nhiên thấy giận. “Đặt chuyện về em như thế. Anh không có quyền-”

“Anh có mọi quyền!” Anh hét. Cô không hề nghĩ có ngày anh sẽ quát cô. “Anh có đủ quyền, em là đồ ngốc, cực ngốc. Anh là anh trai em và anh…”

“Anh là cái gì? Anh sở hữu em? Anh không sở hữu em đâu, dù anh là anh trai em hay không!”

Cánh cửa sau lưng Clary bật mở. Đó là Alec, ăn mặc lịch sự với chiếc áo khoác xanh sậm dáng dài, mái tóc đen rối. Anh đi đôi giày dính đầy bùn đất và trên gương mặt vốn bình lặng, nay lại lộ vẻ ngờ vực. “Sao tất cả những không gian khả dĩ, chuyện gì đang xảy ra ở đây đấy?” anh nói, hứng thú nhìn Jace rồi nhìn Clary. “Hai người định giết nhau hả?”

“Không hề,” Jace nói. Thần kỳ làm sao, Clary nghĩ, tất cả đã bị xóa sạch: sự giận dữ và hoảng loạn của anh, và anh lại bình tĩnh như cũ. “Clary đang định đi.”

“Tốt,” Alec nói, “vì tớ cần nói chuyện với cậu, Jace.”

“Vậy là không ai trong căn nhà này biết nói, ‘Xin chào, rất vui được thấy em’ nữa à?” Clary chẳng hỏi cụ thể một ai.

Dễ làm AJec thấy có lỗi hơn là Isabelle. “Anh có vui khi gặp em chứ, Clary,” anh nói, “tất nhiên là trừ việc em không nên ở đây. Isabelle nói với anh rằng không hiểu sao em tự mình tới được nơi này, và anh khá ấn tượng..”

“Cậu không thể nào không khuyến khích em ấy à?” Jace hỏi.

“Nhưng anh thật sự, thật sự cần nói chuyện với Alec. Em cho bọn anh vài phút nhé?”

“Em cũng cần nói chuyện với anh ấy,” cô nói. “Về mẹ bọn em…”

“Anh không thích nói chuyện…” Jace nói, “thực ra là với bất kỳ ai trong hai người.”

“Có, cậu có đó,” Alec nói. “Cậu thực sự muốn nói chuyện với tớ về vấn đề này.”

“Tớ nghi ngờ đấy,” Jace nói. Anh quay lại với Clary. “Em không đến đây một mình, đúng không?” Anh nói chậm rãi, như thể nhận ra tình huống tệ hơn anh tưởng. “Ai đi cùng em?”

Dường như có nói dối cũng chẳng ích gì. “Chú Luke,” Clary nói. “Chú Luke đi với em.”

Jace tái mặt. “Nhưng chú Luke thuộc Thế Giới Ngầm. Em có biết Clary làm gì với những cư dân Thế Giới Ngầm tự tiện bước vào Thành phố Pha Lê không – những kẻ bước qua kết giới khi chưa được cho phép? Đi vào Idris là một chuyện, nhưng vào tận Alicante? Không nói với một ai?”

“Không,” Clary nói, gần như thì thào, “nhưng em biết anh định nói gì…”

“Rằng nếu em và chú Luke không trở lại New York ngay lập tức, em sẽ tìm ra?”

Trong một lúc, Jace im lặng, nhìn thẳng vào đôi mắt cô. Sự tuyệt vọng nơi anh làm cô choáng váng. Dù gì đi nữa, anh là người đang đe dọa cô, chứ không phải ngược lại.

“Jace,” Alec cắt ngang sự im lặng, sự hoảng loạn nhuốm vào giọng nói. “Cậu không tự hỏi tớ ở đâu cả ngày sao?”

“Cậu đang mặc áo mới,” Jace nói, không thèm nhìn anh bạn. “Tớ nghĩ là cậu đi mua sắm. Nhưng về lý do cậu làm phiền tớ, tớ không hiểu nổi.”

“Tớ không đi mua sắm,” Alec bực tức. “Tớ đi…”

Cánh cửa lại bật mở. Trong chiếc váy trắng thướt tha, Isabella bước vào, đóng sầm cửa lại. “Mình đã bảo là anh ấy sẽ phát rồ mà,” cô nói, “đúng không?”

“À, vụ ‘Mình đã bảo rồi mà,” Jace nói. “Quá kinh điển.”

Clary kinh hoàng nhìn anh. “Sao anh đùa cợt được chứ?” cô thì thào. “Anh vừa đe dọa chú Luke. Chú Luke, người quý anh và tin tưởng anh. Vì chú ấy là cư dân của Thế Giới Ngầm. Anh làm sao vậy?”

Isabelle có vẻ hoảng sợ. “Chú Luke ở đây? Ôi, Clary…”

“Chú ấy không ở đây,” Clary nói. “Chú ấy đã rời đi – vào sáng nay – và mình không biết chú đi đâu. Nhưng mình hiểu rõ lý do chú ấy phải đi.” Cô không thể nào nhìn Jace nữa. “Được rồi. Anh thắng. Đáng ra bọn em không nên tới. Đáng ra em không nên tạo ra Cổng Dịch Chuyển-“

“Tạo ra Cổng Dịch Chuyển?” Isabelle có vẻ bối rối. “Clary, chỉ có pháp sư mới có khả năng tạo ra Cổng Dịch Chuyển. Và họ đâu có đông. Cổng Dịch Chuyển duy nhất trong Idris là tại Gard.”

“Đó là điều mình đang muốn nói với cậu,” Alec rít lên với Jace – người có vẻ, Clary ngạc nhiên, tệ hơn lúc trước; anh như thể sắp ngất. “Về việc vặt mà tớ tiếp tục làm tối qua – thứ mà tớ phải chuyển tới Gard…”

“Alec, dừng lại. Dừng lại.” Jace nói và sự tuyệt vọng trong giọng nói anh làm cậu con trai kia ngừng nói. Alec ngậm miệng và đứng nhìn Jace trân trân, lưỡi kẹt giữa hai kẽ răng. Nhưng Jace có vẻ không nhìn anh; anh đang nhìn Clary, mắt cứng như pha lê. Cuối cùng anh nói. “Em nói đúng,” anh nói bằng giọng nghèn nghẹt, như thể cố lắm mới bật thành lời. “Đáng ra em không nên tới. Anh biết anh nói với em rằng ở đây không an toàn, nhưng không phải vậy. Sự thật là anh không muốn em ở đây là vì em hấp tấp, không biết suy nghĩ và em làm mọi chuyện rối tung hết cả. Em là thế đấy. Em không cẩn thận, Clary ạ.”

“Rối.. .tung.. .hết cả?” Clary không còn đủ không khí trong phổi để nói hơn một lời thì thào.

“Ôi, Jace,” Isabelle buồn bã nói, như thể anh mới là người bị tổn thương. Anh không nhìn cô nàng. Anh vẫn chỉ nhìn Clary mà thôi.

“Em luôn làm trước khi nghĩ,” anh nói. “Em biết điều đó, Clary. Nếu không phải vì em, chúng ta đã không kẹt chui vào Dumort.”

“Và Simon sẽ chết! Điều đó không có nghĩa lý gì ư? Có thể em hấp tấp, nhưng…”

Anh cao giọng. “Có thể?”

“Nhưng không phải mọi quyết định của em đều sai lầm! Anh nói, sau chuyện em làm trên tàu, anh nói em đã cứu mạng mọi người…”

Mọi màu sắc trên gương mặt Jace đã biến mất hết. Anh nói, với sự độc ác đột ngột và kinh ngạc. “Im đi, Clary, IM ĐI…”

“Trên tàu?” Alec nhìn qua nhìn lại hai người, bối rối. “Chuyện gì xảy ra trên tàu? Jace…”

“Anh đã bảo em đừng lải nhải nữa!” Jace hét, lờ Alec đi, lờ mọi việc đi, trừ Clary. Cô có thể cảm thấy áp lực từ cơn nóng giận đột ngột bùng phát nơi Jace giống như một cơn sóng đe dọa xô ngã cô. “Với bọn anh, em là bệnh dịch đấy! Em là người thường, em luôn như thế, em chưa bao giờ là Thợ Săn Bóng Tối. Em không biết cách nghĩ như bọn anh, nghĩ cho mọi người – tất cả những gì cho em nghĩ là cho em! Nhưng giờ là thời chiến, hoặc sắp là thế, và anh không có thời gian hay ý định theo đuôi em, cố đảm bảo rằng em không khiến ai trong số bọn anh phải chết!”

Cô cứ thế nhìn. Cô không nghĩ ra điều gì để nói; anh chưa từng nói với cô như thế. Cô chưa từng tưởng tượng nổi anh sẽ nói với cô như vậy. Dù trong quá khứ cô làm anh giận thế nào, anh chưa bao giờ nói với cô như thể anh ghét cô cả.

“Về nhà đi, Clary,” anh nói. Anh có vẻ mệt mỏi, như thể mọi nỗ lực nói với cô về điều anh thực sự cảm nhận đã vắt kiệt sức lực của anh. “Về nhà đi.”

Tất cả kế hoạch của cô đều tan thành mây khói – nhưng hy vọng mới nhen nhóm về việc tìm ra Fell, cứu mẹ, kể cả tìm chú Luke- chẳng còn nghĩa lý gì, không một từ nào tới. Cô đi về cửa. Alec và Isabelle tránh đường cho cô. Không ai nhìn cô hết, tất cả đều nhìn đi nơi khác, vừa choáng váng vừa ngượng. Clary biết cô nên cảm thấy tủi nhục hoặc giận giữ, nhưng không hề. Cô chỉ thấy tâm hồn đã chết.

Cô quay lại khi tới cửa. Jace đang nhìn cô. Ánh sáng rọi từ ô cửa sổ đằng sau làm gương mặt anh chìm trong bóng tối; tất cả những gì cô thấy được là chút ánh sáng chói lọi điểm xuyết lên mái tóc vàng của anh; giống như những mảnh gương vỡ. “Khi anh nói với em lần đầu tiên rằng Valentine là bố anh, em đã không tin,” cô nói. “Không phải vì em không muốn điều đó là sự thực, nhưng vì anh chẳng giống ông ta chút nào. Em chưa bao giờ nghĩ anh giống ông ta. Nhưng có đó. “Anh giống ông ta lắm.”

Cô rời khỏi phòng, đóng sầm cửa sau lưng.

“”Họ sẽ bỏ đói cháu,” Simon nói.

Cậu đang nằm trên sàn xà lim, đá lát sàn lành lạnh sau lưng. Nhưng, từ góc độ này, cậu có thể thấy bầu trời qua ô cửa sổ. Những ngày đầu sau khi Simon biến thành ma cà rồng, khi cậu tưởng sẽ không bao giờ được nhìn thấy mặt nắng nữa, cậu thường xuyên nghĩ về mặt trời và bầu trời. Về cách màu sắc của bầu trời thay đổi trong ngày: về màu xanh nhạt của ban sáng, màu xanh nóng nực của giữa trưa và màu xam cô ban sậm của chạng vạng. Cậu nằm thao thức trong đêm với những sắc thái xanh lượn vòng trong trí não. Giờ, khi nằm trong xà lim dưới Gard, cậu tự hỏi mình có thể nhìn thấy bầu trời và những sắc xanh nữa không, để cậu lại được tận hưởng khoảnh khắc nghỉ ngơi ngắn ngủi, khó chịu trong một không gian nhỏ xíu chỉ có một góc trời qua duy nhất một ô cửa sổ gắn song sắt trên tường.

“Chú có nghe thấy cháu nói không?” Cậu cao giọng. “Điều Tra Viên sẽ để cháu chết đói. Không cung cấp thêm máu.”

Có tiếng sột soạt. Một tiếng thở dài thườn thượt. Rồi Samuel nói. “Có. Chỉ là tôi không biết cậu muốn tôi giải quyết ra sao.” Chú ta ngừng lại. “Tôi thấy tiếc cho cậu, Ma cà rồng Ưa Sáng ạ, nếu điều đó giúp cậu nguôi ngoai phần nào.”

“Thật ra là nghe xong cháu chẳng thấy nguôi ngoai tẹo nào,” Simon nói. “Điều Tra Viên muốn cháu nói dối. Muốn cháu nói với ông ta rằng nhà Lightwood bắt tay với Valentine. Rồi ông ta sẽ cho cháu về nhà.” Cậu chuyển sang nằm úp bụng, những viên đá chọc vào da. “Mà thôi. Cháu chẳng hiểu sao cháu lại kể hết cho chú nghe. Có lẽ chú còn chẳng hiểu cháu đang nói gì.”

Samuel tạo ra âm thanh nửa giống cười khúc giữa giống ho. “Thật ra là có. Tôi biết nhà Lightwood. Chúng tôi đã từng cùng nằm trong hội Circle. Vợ chồng Lightwood, Wayland, Pangbom, Herondale và Penhallow. Tất cả những dòng dõi cao quý của Alicante.”

“Và Hodge Starkweather,” Simon nói, nghĩ tới người gia sư của lũ trẻ Lightwood. “Cả ông ấy nữa chứ?”

“Đúng,” Samuel nói. “Nhưng gia đình nhà ông ta không được trọng vọng cho lắm. Hodge từng thề thốt, nhưng tôi sợ ông ta chẳng giữ nỗi lời thề.” Chú ta dừng lại. “Aldertree luôn ghét vợ chồng Lightwood, tất nhiên, từ khi chúng ta còn nhỏ. Ồng ta chẳng giàu có hay điển trai, và ờ, họ đối xử với ông ta cũng chẳng tử tế gì cho cam. Tôi không nghĩ ông ta quên được.”

“Giàu có?” Simon nói. “Nhưng tôi tưởng tất cả Thợ Săn Bóng Tối đều được Clave trả lương. Như… cháu không biết, chủ nghĩa cộng sản hay gì đó.”

“Theo lý thuyết, tất cả Thợ Săn Bóng Tối đều được trả lương như nhau và công bằng,” Samuel nói. “Một vài người, những người có địa vị cao trong Clave, hoặc những người nắm giữ trọng trách lớn – điều hành Học Viện chẳng hạn – nhận được mức lương cao hơn. Vậy là có những người sống ngoài Idris và chọn cách kiếm tiền trong thế giới người thường; điều đó không bị cấm, miễn là họ chịu nộp một phần cho Clave. Nhưng” – Samuel chần chừ – “cậu đã thấy căn nhà Penhallow, đúng không? Cậu nghĩ sao nào?”

Simon nhớ lại. “Rất xa hoa.”

“Một trong những ngôi nhà bề thế nhất Alicante,” Sarnuel nói. “Và họ có một ngôi nhà khác, một trang viên bên ngoài đất nước này. Hầu hết các nhà giàu đều như vậy hết. Cậu thấy đấy, các Nephilim có thể làm giàu theo cách khác. Họ gọi đó là ‘những chiến lợi phẩm.’ Bất cứ thứ gì do thuộc về quỷ hoặc cư dân Thế Giới Ngầm, sau khi chúng chết, sẽ thuộc về Thợ Săn Bóng Tối đã giết chúng. Vì thế nếu một pháp sư giàu có phá Luật, và bị giết bởi một Nephilim…”

Simon rùng mình. “Vậy giết cư dân Thế Giới Ngầm là một công việc hái ra tiền?”

“Có thể nói thế,” Samuel nói một cách cay đắng, “nếu cậu không quá kén chọn người để giết. Cậu có thể hiểu vì sao có rất nhiều ý kiến bất đồng với Hiệp Định. Nó làm eo hẹp túi tiền cùa người ta, bắt họ phải cẩn trọng trong việc giết cư dân Thế Giới Ngầm. Có lẽ đó là lý do tôi gia nhập Circle. Gia đình tôi chưa bao giờ giàu có, và bị coi thường vì không chấp nhận tiền kiếm được do giết người…” Chú ta ngừng nói.

“Nhưng Circle cũng giết những cư dân Thế Giới Ngầm,” Simon nói.

“Vì họ nghĩ đó là nhiệm vụ thiêng liêng,” Samuel nói. “Không phải vì tham lam. Dù giờ tôi không thể tưởng tượng nổi vì sao tôi chưa từng nghĩ điều đó có vấn đề.” Chú ta nói như thể kiệt sức. “Đó là Valentine. Hắn luôn có cách. Hắn biết cách thuyết phục cậu trong mọi chuyện. Tôi nhớ đã đứng bên cạnh hắn với đôi tay đẫm máu, nhìn xuống thi thể một người phụ nữ mà vẫn nghĩ rằng tôi đã làm đúng, vì Valentine nói thế.”

“Một thi thể của cư dân thế Giới Ngầm?”

Samuel thở khò khè bên kia tường. Cuối cùng, chú ta nói, “Cậu phải hiểu, tôi sẽ làm mọi thứ hắn yêu cầu. Bất cứ người nào trong chúng tôi đều thế. Vợ chồng Lightwood cũng vậy. Điều Tra Viên biết điều đó, và đó chính là điều hắn đang cố làm để khai thác. Nhưng cậu nên biết – nếu như cậu đồng ý và đổ tội cho nhà Lightwood, đằng nào Aldertree cũng giết cậu để bịt miệng. Nó phụ thuộc vào liệu ý tưởng về lòng khoan dung có khiến hắn cảm thấy quyền lực không.”

“Không vấn đề gì hết,” Simon nói. “Cháu sẽ không làm. Cháu sẽ không phản bội nhà Lightwood.”

Samuel có vẻ không tin. “Có lý do gì không? Cậu quan tâm tới nhà Lightwood nhiều vậy sao?”

“Bất cứ điều gì cháu nói với ông ta về họ đều là dối trá.”

“Nhưng có lẽ hắn muốn nghe lời dối trá. Cậu muốn về nhà, đúng không?”

Simon nhìn chằm chằm vào bức tường như thể bằng cách nào đó cậu có thể nhìn xuyên qua đó để thấy người đàn ông bên kia tường. “Đó là điều chú muốn làm? Giúp ông ta nói dối?”

Samuel ho – một tràng ho khù khụ, của một người sức khỏe không tốt lắm. Dù sao, dưới đây ẩm thấp và lạnh lẽo, với Simon thì chẳng xi nhê gì, nhưng có lẽ sẽ ảnh hưởng kha khá tới những người bình thường. “Tôi không nghe những lời khuyên ngớ ngẩn từ tôi,” chú ta nói. “Nhưng đúng, tôi sẽ làm. Tôi luôn đặt việc cứu mạng mình lên hàng đầu.”

“Cháu biết chú nói không đúng.”

“Thực ra,” Samuel nói, “là đúng đấy. Simon, một khi cậu nhiều tuổi rồi, cậu sẽ học được rằng, khi người ta nói những điều chẳng mấy thuận tai về chính họ, thường là họ nói thật.”

Nhưng mình không già đi, Simon nghĩ. Nhưng điều cậu nói lại là, “Đây là lần đầu tiên chú gọi cháu là Simon. Simon chứ không phải Ma cà rồng Ưa Sáng.”

“Chắc vậy.”

“Và về nhà Lightwood,” Simon nói. “Cháu cũng chẳng thích họ nhiều. Ý cháu là, cháu thích Isabelle và khá ưa Alec với Jace. Nhưng nguyên nhân còn vì một cô gái khác. Mà Jace lại là anh trai cô gái đó.”

Giây phút cánh cửa đóng lại sau lưng Clary, Jace dựa lưng vào tường, như thể chân anh bị cắt rời khỏi cơ thể. Gương mặt anh xám ngoét, vừa kinh hoàng vừa choáng váng và còn một cảm xúc gì khác như… thả lỏng, kiểu vừa thoát khỏi tai họa trong đường tơ kẽ tóc.

“Jace,” Alec nói và tiến một bước về phía bạn. “Cậu có thực sự nghĩ-”

Jace nói nhỏ, ngắt lời Alec “Đi ra,” anh nói. “Đi ra, cả hai người.”

“Thế thì anh có thể làm gì nào?” Isabelle hỏi. “Phá nát cuộc đời anh thêm nữa hả? Chuyện khỉ này là vì cái gì?”

Jace lắc đầu. “Anh đưa Clary về nhà. Đó là điều tốt nhất cho con bé.”

“Anh đã làm cả đống điều hơn là đưa bạn ấy về nhà. Anh hủy hoại bạn ấy. Anh không thấy vẻ mặt Clary sao?”

“Đáng mà,” Jace nói. “Em không hiểu được đâu.”

“Có thể là đối với Clary,” Isabelle đáp. “Em hy vọng điều đó đáng với chính anh.”

Jace quay mặt đi. “Cứ…để anh lại đây, Isabelle. Làm ơn.”

Isabelle giật mình liếc nhìn ông anh ruột. Jace chưa bao giờ nói làm ơn. Alec đặt tay lên vai cô em. “Không sao đâu, Jace,” anh nói, nhẹ nhàng hết mức có thể. “Anh chắc chắn Clary sẽ ổn thôi.”

Jace ngửng đầu và nhìn Alec mà không thực sự thấy – dường như anh đang nhìn vào hư không. “Clary sẽ không đâu,” anh nói. “Mình biết mà. Nói mới nhớ, cậu có thể nói cho tớ hay cậu tới đây để nói gì. Hình như cậu nghĩ vấn đề đó khá quan trọng.”

Alec bỏ tay khỏi vai Isabelle. “Tớ không muốn nói với cậu trước mặt Clary-”

Ánh mắt Jace cuối cùng cũng tập trung vào Alec. “Không muốn nói với tớ điều gì trước mặt Clary?”

Alec lưỡng lự. Hiếm khi anh thấy Jace buồn thế này, và anh có thể tưởng tượng được cái điều ngạc nhiên khó chịu hơn nhiều này sẽ ảnh hưởng tới Jace như thế nào. Nhưng không thể giấu Jace lâu hơn nữa. Jace phải biết. “Hôm qua,” anh nhỏ giọng nói, “khi tớ đưa Simon tới Gard, Malachi nói với tớ rằng Magnus Bane sẽ đón Simon ở bên kia Cổng Dịch Chuyển tới New York. Vì thế tớ gửi thư-lửa cho Magnus. Sáng nay tớ nhận được tin từ anh ta. Anh ta không hề gặp Simon ở New York. Thật ra, anh ấy nói không hề có bất cứ hoạt động Dịch Chuyển nào ở New York kể từ sau khi Clary đi.”

“Có lẽ Malachi nói nhầm,” Isabelle nói khéo, sau khi thoáng nhìn thấy vẻ mặt xám xịt như tro của Jace. “Có thể ai khác đón Simon ở bên kia. Và Magnus có thể sai về hoạt động Dịch Chuyển…”

Alec lắc đầu. “Sáng nay tớ cùng mẹ tới Gard. Tớ đích thân hỏi Malachi, nhưng khi thấy ông ta – tớ không thể nói vì sao – chui vào một góc. Tớ không thể đối mặt với ông ta. Rồi tớ nghe ông ta nói chuyện với một lính gác. Yêu cầu họ đưa ma cà rồng lên lầu vì Điều Tra Viên muốn nói chuyện với hắn một lần nữa.

“Anh có chắc là họ đang đề cập tới Simon không?” Isabelle hỏi, nhưng trong giọng không có tý thuyết phục nào. “Có thể…”

“Họ nói về chuyện sao mà tên cư dân Thế Giới Ngầm đó lại ngờ nghệch tin rằng họ sẽ đưa hắn ta trở lại New York mà không buồn thẩm tra chứ. Một trong số họ nói rằng hắn ta không thể tin có ai thù hận mà cố dồn cậu ta vào Alicante. Và Malachi nói, ‘À, các cậu trông chờ gì từ con trai của Valentine?’”

“Ôi,” Isabelle thì thào. “Ôi Chúa ơi.” Cô liếc mắt về phía ông anh nuôi. “Jace…”

Đôi tay Jace nắm chặt xuôi bên thân. Mắt anh trông như thụt vào trong, như thể chúng thụt vào trong sọ. Trong những hoàn cảnh khác, Alec sẽ đặt tay lên vai Jace, nhưng giờ thì không; có gì đó ở Jace khiến anh phải kìm lại. “Nếu không phải cậu đã lôi cậu ấy theo,” Jace nói bằng giọng trầm thấp, đều đều, như thể tụng kinh, “có thể họ sẽ để cậu ta về nhà. Có thể họ đã tin…”

“Không,” Alec nói. “Không đâu, Jace, đó không phải lỗi của cậu. Cậu đã cứu mạng Simon.”

“Cứu mạng cậu ta để Clave có thể hành hạ cậu ấy,” Jaoe nói. “Tốt làm sao. Khi Clary hay chuyện…” Anh lắc đầu quầy quậy. “Con bé sẽ nghĩ tớ cố tình mang cậu ấy tới đây giao cho Clave dù đã biết họ sẽ làm gì.”

“Clary sẽ không nghĩ vậy đâu. Cậu đâu có lý do để làm trò đó.”

“Có lẽ,” Jace chậm rãi nói, “nhưng sau điều tớ vừa làm…”

“Không ai dám nghĩ anh sẽ làm vậy,” Isabelle nói. “Những người biết anh sẽ không nói thế. Không ai…”

Nhưng Jace không đợi để nghe xem ai không nghĩ vậy nữa. Thay vào đó anh quay người và đi ra ô cửa sổ và nhìn qua ngoài kênh. Anh đứng đó một lúc, ánh sáng chiếu qua ô cửa tạo nên viền sáng quanh tóc anh. Rồi anh động tay, quá nhanh tới nỗi Alec không có thời gian phản ứng. Khi Alec nhận thấy chuyện gì đang xảy ra và lao lên để ngăn lại thi đã quá trễ.

Một tiếng rắc – âm thanh của tiếng rạn vỡ – và bụi kính đột ngột rơi xuống như cơn mưa những ngôi sao sắc nhọn. Jace nhìn xuống tay trái, những mấu tay lốm đốm những vệt đỏ, với sự hứng thú khó cảm động khi những giọt máu tròn to tụ lại và rơi xuống chân.

Isabelle hết nhìn Jace lại nhìn cái lỗ trên kính, những đường nứt tỏa ra từ trung tâm rỗng không, một mạng nhện của những vết nứt màu bạc. “Ôi, Jace,” cô nàng nói, bằng tông giọng nhẹ nhàng mà chưa bao giờ Alec nghe thấy. “Chúng ta biết giải thích thế nào với nhà Penhallow đây?”

Không hiểu sao Clary tìm được đường ra khỏi nhà. Cô không chắc thế nào – tất cả đều là những hình ảnh nhòe nhoẹt của cầu thang va hành lang vụt qua rất nhanh, và rồi cô đang chạy ra cửa trước và rời khỏi nhà và bằng cách nào đó cô đứng trên bậc thềm nhà Penhallow, tự hỏi liệu mình có sắp nôn lên bụi hồng nhà họ không.

Chúng quả là nơi lý tưởng cho việc nôn mửa, và bụng dạ cô đang cồn cào đến đau quặn, nhưng sự thật rằng tất cả những gì cô ăn chỉ là chút xúp đã ngăn cô lại. Cô không nghĩ trong dạ dày còn gì cho cô nôn. Thay vào đó cô bước xuống bậc tam cấp và ngờ ngệch rời khỏi cổng trước – cô không nhớ mình đã tới từ hướng nào, hoặc trở lại nhà cô Amatis bằng cách nào, nhưng chuyện đó chẳng quan trọng lắm. Cô cũng chẳng hứng thú trở về giải thích cho chú Luke rằng họ phải rời Alicante ngay hoặc Jace sẽ nộp họ cho Clave.

Có lẽ Jace nói đúng. Có thể cô đã hấp tấp và không biết suy nghĩ. Có lẽ cô chưa bao giờ nghĩ xem cô đã gây ảnh hưởng tới những người cô yêu thương như thế nào. Gương mặt Simon thoáng hiện trước mắt cô, sắc nét như trong một bức hình chụp, tiếp đến là khuôn mặt chú Luke-

Cô dừng lại và dựa người lên cây cột đèn. Hộp kính vuông trông giống như một loại đèn ga đặt trên cột trụ cũ trước những ngôi nhà đá nâu tại Công Viên Slope. Không hiểu sao, nó giúp cô nguôi ngoai đi phần nào.

“Clary!” Đó là giọng tràn ngập lo lắng của một người con trai. Đột nhiên Clary nghĩ, Jace. Cô quay phắt lại.

Nhưng không phải Jace. Sebastian, cậu con trai tóc đen tại phòng khách nhà Penhallow, đang đứng trước mặt cô, thở hổn hển chút đỉnh như thể vừa chạy đuổi theo cô.

Cô đột nhiên cảm thấy cảm giác lúc trước, khi lần đâu tiên nhìn thấy cậu ta – thấy ngờ ngợ quen quen, cùng với cảm giác gì đó cô không định nghĩa được. Không phải thích hay không thích – nó giống như bị hấp dẫn, như thể cái gì đó kéo cô lại gần cậu con trai cô không hề quen biết này. Có lẽ chỉ do vẻ ngoài. Cậu ta đẹp, cũng như Jace vậy, dù nếu ở người Jace toàn sắc vàng thì cậu ta toàn vẻ xanh xao và hắc ám. Dù cả giờ, dưới ánh đèn đường, cô có thể thấy rằng cậu ta và chàng hoàng tử trong tưởng tượng của cô không hề giống nhau như cô nghĩ. Kể cả màu sắc của họ cũng khác nhau. Có gì đó ẩn chứa trong khuôn mặt, cái cách cậu kìm nén chính mình, những bí mật đen tối trong đôi mắt cậu ta…

“Cô ổn không?” Sebastian hỏi. Giọng anh ta mới nhẹ nhàng làm sao. “Cô chạy khỏi nhà như…” Giọng cậu ta nhỏ đi khi nhìn cô. Cô vẫn đang nắm lấy thân đèn như thể cần nó để đứng vững. “Có chuyện gì thế?”

“Tôi cãi nhau với Jace,” cô nói, cố giữ giọng bình tĩnh. “Anh biết nó thế nào mà.”

“Thực ra là không,” Cậu có vẻ có lỗi. “Tôi không có anh chị em.”

“May cho anh đấy,” cô nói và giật mình vì sự chua chát trong giọng nói.

“Cô không có ý đó thật.” Anh bước lại gần cô hơn, và khi anh làm thế, ánh đèn bật sáng, ánh sáng trắng của đèn phù thủy phủ xuống hai người họ. Sebastian ngước nhìn ánh đèn và mỉm cười. “Một điềm báo đấy.”

“Điềm báo gì cơ?”

“Điềm báo rằng cô nên để tôi đưa về nhà.”

“Nhưng tôi còn chẳng biết nhà ở đâu nữa,” cô bỗng nhận ra. “Tôi trốn khỏi nhà để tới đây. Tôi không nhớ đường.”

“À, vậy cô ở với ai?”

Cô chần chừ chưa nói.

“Tôi không nói với ai đâu,” anh nói. “Thề có Thiên Thần làm chứng.”

Cô nhìn. Đó đúng là một lời thề, đối với một Thợ Săn Bóng Tối. “Được rồi,” cô nói, trước khi cô kịp nghĩ lại quyết định của mình “Tôi ở với cô Amatis Herodale.”

“Tuyệt. Tôi biết chính xác cô ấy ở đâu.” Cậu chìa tay cho cô. “Chúng ta đi nhé?”

Cô cố cười. “Anh biết không, anh khá tự tin đấy.”

Cậu nhún vai. “Tôi thường động lòng trước những cô gái đang gặp nạn.”

“Đừng phân biệt giới tính chứ.”

“Không hề. Tôi phục vụ luôn cả những quý ông gặp nạn. Cùng một kiểu động lòng luôn,” cậu nói và, với vẻ hoa mỹ, cậu chìa tay ra lần nữa. Lần này, cô nắm lấy.

Alec đóng cửa phòng gác mái nhỏ đằng sau lưng và quay lại nhìn Jace. Đôi mắt anh thường mang một màu xanh lam như nước hồ Lyn, một màu xanh lam nhạt không vấn đục, nhưng màu sắc dường như thay đổi theo cảm xúc. Lúc này, chúng mang màu dòng hải lưu East River trong trận bão. Hiện con người anh cũng nổi giông bão nữa. “Ngồi xuống,” anh nói vói Jace và chỉ xuống chiếc ghế thấp gần ô cửa sổ đầu hồi. “Tớ sẽ đi lấy băng gạc.”

Jace ngồi. Căn phòng anh ở cùng với Alec ở tầng trên cùng nhà Penhallow khá chật, với hai chiếc giường nhỏ, dựa vào hai bức tường. Quần áo họ treo trên móc trên tường. Có một ô cửa sổ duy nhất, để cho một chút ánh sáng xuyên qua – giờ trời đã tối, và bầu trời ngoài ô cửa kính chuyển màu chàm. Jace quan sát trong khi Alec quỳ xuống, rút và mở miệng cái túi vải thô lấy từ dưới gầm giường. Anh ta lục lọi túi một hồi rồi đứng dậy, trên tay cầm một chiếc hộp. Jace nhận ra nó là chiếc hộp thuốc họ thi thoảng dùng khi những chữ rune không hữu dụng – trong đó đựng thuốc khử trùng, băng gạc và kéo.

“Cậu không định dùng chữ rune trị thương sao?” Jace hỏi, vì tò mò là chính.

“Không. Mình chỉ cần…” Alec ngừng nói, ném chiếc hộp lên giường và lầm bầm chửi thề. Alec tới chiếc bồn rửa xây sát tường và rửa tay mạnh tới nỗi làm nước văng tung tóe. Jace quan sát người anh em nuôi với chút tò mò. Tay Jace bắt đầu co giật đau nhói từng cơn. Alec cầm cái hộp, kéo ghế đối diện Jace, và ngồi phịch xuống. “Đưa tay cho mình.”

Jace giơ tay. Anh phải thừa nhận rằng trông nó khá tệ. Cả bốn mấu tay đều rách toạc như mô hình bức xạ của những ngôi sao. Máu khô dính trên ngón tay, trông giống những mảnh vụn còn sót lại của chiếc găng tay màu nâu đỏ.

Alec nhăn mặt. “Cậu là đồ ngốc.”

“Cám ơn,” Jace nói. Anh kiên nhẫn quan sát trong khi Alec cúi đầu, dùng nhíp nhẹ nhàng nhổ vụn kính đâm vào da anh. “Vậy, sao lại không?”

“Không cái gì?”

“Sao không dùng chữ rune trị thương? Đây đâu phải vết thương do quỷ gây ra.”

“Vì.” Alec cầm chiếc chai xanh đựng thuốc sát trùng. “Tớ nghĩ nên để cậu biết thế nào là đau. Cậu vẫn sẽ lành lại như người bình thường. Lâu và để lại sẹo xấu. Có thể cậu sẽ học được vài điều.” Anh đổ thứ chất lỏng gây xót lên vết thương hở của Jace. “Dù tớ cũng chẳng tin lắm.”

“Cậu thừa biết tớ có thể tự dùng chữ rune trị thương cơ mà.”

Alec bắt đầu cuốn gạc quanh tay Jace. “Nếu cậu muốn tớ nói với nhà Penhallow chuyện thực sự xảy ra trên gác mái, thay vì để họ nghĩ đó là một tai nạn, thì tùy cậu.” Alec buộc chặt gạc lại, Jace nhăn mặt. “Nếu tớ tưởng cậu tự gây điều này cho mình, tớ sẽ không bao giờ nói cho cậu biết.”

“Không, cậu sẽ nói.” Jace nghiêng đầu. “Tớ không nhận ra là vụ tớ tấn công ô cửa sổ bích họa lại làm cậu buồn đến thế.”

“Chỉ là…” Xong việc với băng gạc, Alec nhìn xuống tay Jace, bàn tay anh vẫn đang nắm. Nó bị cuộn trong đống gạc trắng, lấm tấm máu nơi ngón tay Alec chạm vào. “Sao cậu lại làm những chuyện ấy với mình chứ? Không chỉ điều cậu làm với cửa sổ, mà là cái cách cậu nói chuyện với Clary nữa. Cậu trừng phạt bản thân vì gì nào? Cậu không thể ngăn điều cậu cảm nhận được.”

Giọng Jace đều đều. “Tớ cảm nhận làm sao?”

“Tớ thấy cách cậu nhìn Clary.” Đôi mắt Alec nhìn đi xa xăm, nhìn cái gì đó cách xa Jace, cái gi đó không ở đây. “Và cậu không thể có Clary. Có lẽ cậu chỉ không biết sẽ thế nào khi cậu muốn một thứ gì đó.”

Jace nhìn thẳng vào Alec. “Giữa cậu và Magnus Bane có chuyện gì thế?”

Alec ngẩng phắt lên. “Tớ không – chẳng có chuyện gì cả-”

“Tớ không ngốc. Cậu gửi thư thẳng cho Magnus ngay sau khi nói chuyện với Malachi, trước khi cậu nói cho tớ hay Isabelle hay bất cứ ai khác…”

“Bởi vì Magnus là người duy nhất có thể cho tớ câu trả lời. Không có gì giữa bọn tớ hết,” Alec nói – và rồi, nhìn thấy vẻ mặt Jace, bổ sung mà cực kỳ lưỡng lự, “không còn nữa. Chẳng còn gì giữa bọn tớ hết. Được chưa?”

“Mong rằng không phải do tớ,” Jace nói.

Alec trắng bệch và lùi lại, như thể anh đang chuẩn bị đỡ một cú đánh. “Cậu muốn nói sao?”

“Tớ biết cậu nghĩ thế nào về tớ,” Jaoe nói. “Nhưng thật ra cậu đang lừa chính mình đấy. Cậu chỉ thích tớ vì tớ an toàn. Không nguy hiểm gì hết. Cậu chưa hề thử có một mối quan hệ thực sự, vì cậu có thể dùng tớ làm bình vôi.” Jace biết mình có phần độc ác nhưng anh chẳng quan tâm mấy. Làm tổn thương người anh yêu thương cũng dễ chịu gần bằng làm tổn thương chính anh khi anh trong tâm trạng thế này.

“Tớ hiểu rồi,” Alec nghiến răng nói. “Đầu tiên là Clary, sau đó tới tay cậu, và giờ là tớ. Cậu xuống địa ngục đi, Jace.”

“Cậu không tin tớ?” Jace hỏi. “Được thôi. Cứ tự nhiên. Hôn tớ ngay bây giờ đi.”

Alec kinh hãi nhìn Jace.

“Chuẩn xác, dù tớ đẹp trai chết đi được, cậu không thực sự thích tớ theo cách đó. Và nếu cậu đá Magnus, đó không phải do tớ. Chỉ vì cậu quá sợ nên không dám tỏ tình với người mà cậu thực sự yêu. Tình yêu biến chúng ta thành những kẻ dối trá,” Jace nói. “Nữ Hoàng Seelie đã nói với tớ như vậy. Vì thế đừng đánh giá tớ khi tớ nói dối về cảm nhận của mình. Cậu cũng làm như vậy thôi.” Anh đứng dậy. “Và giờ tớ muốn cậu một lần nữa làm điều đó vì tớ.”

Gương mặt Alec cứng đờ vì tổn thương. “Ý cậu là sao?”

“Nói dối giùm tớ,” Jace nói, nhấc cái áo khỏi móc treo tường và khoác vào. “Đã hoàng hôn rồi. Giờ mọi người sắp từ Gard về. Tớ muốn cậu nói với mọi người là tớ thấy không được khỏe và vì thế tớ không xuống nhà. Nói với họ rằng tớ thấy muốn xỉu và đã trượt chân, do đó làm vỡ cửa sổ.”

Alec ngẩng đầu và nhìn Jace một cách trực diện. “Được thôi,” anh nói. “Nếu cậu nói với tớ xem cậu thực sự đi đâu.”

“Tới Gard,” Jace nói. “Tớ sẽ lôi Simon ra khỏi tù.”

Mẹ Clary luôn gọi khoảng thời gian giữa chạng vạng và đêm tối là “khoảnh khắc xanh lam.” Mẹ nói ánh sáng đó là mạnh nhất và không bình thường nhất, và đó là thời gian tốt nhất để vẽ. Clary chưa thực sự hiểu mẹ muốn nói gì, nhưng giờ, khi đi giữa Alicante trong ánh chiều chạng vạng, cô đã hiểu.

Khoảnh khắc xanh lam tại New York không thực sự xanh; sắc xanh bị xóa mờ bởi ánh đèn đường và các biển hiệu đèn neon. Mẹ Jocelyn hẳn đã nghĩ tới Idris. Ở đây ánh sáng phủ màu tím chuẩn phủ lên những công trình bằng đá trong thành phố, và những ngọn đèn phù thủy tỏa những quầng sáng trắng quá rực rỡ đến nỗi Clary nghĩ sẽ cảm nhận được hơi ấm khi đi qua. Cô ước gì mẹ ở đây. Mẹ sẽ chỉ cho cô những nơi mẹ quen thuộc, những địa điểm hằn in trong ký ức của mẹ.

Nhưng mẹ cũng chưa từng nói với mình về bất cứ điều gì trong những điều này. Mẹ cố tình giữ bí mật. Và giờ thì mình đã biết. Một cơn đau nhói – nửa vì giận nửa vì hối hận – nghẹn lại trong tim Clairy.

“Sao cô im lặng thế,” Sebastian nói. Họ vừa đi qua cây cầu, với hai bên thành cầu khắc đầy những chữ rune, bắc qua con kênh.

“Chỉ đang nghĩ xem tôi sẽ gặp rắc rối lớn thế nào khi trở về. Tôi đã phải trèo qua cửa sổ để trốn đi, nhưng giờ chắc cô Amatis đã biết tôi đi rồi.”

Sebastian nhíu mày. “Sao lại phải trốn? Cô không được phép đi gặp anh trai mình sao?”

“Đáng ra tôi không được phép ở Alicante,” Clary nói. “Tôi phải ở nhà, an toàn tránh nạn.”

“À. Điều đó giải thích nhiều đó.””

“Thật sao?” Cô tò mò liếc nhìn anh chàng. Những cái bóng màu xanh lam tỏa chiếu lên mái tóc đen của anh.

“Có vẻ cứ nhắc tới tên cô là mọi người lại tái mặt. Chắc mối quan hệ giữa anh em không được hòa thuận lắm.”

“Không hòa thuận? Cũng là một cách nói đấy.”

“Cô không thích anh trai sao?”

“Thích Jace á?” Suốt mấy tuần qua, cô cứ nghĩ mãi xem liệu cô có yêu Jace Wayland hay không và vì sao, cô chưa từng bao giờ dừng lại suy nghĩ xem liệu cô có thích anh không.

“Xin lỗi. Jace là người thân của tôi – thế nên tôi có thích anh trai mình hay không đâu có quan trọng.”

“Tôi có thích anh ấy,” cô nói, đến bản thân còn thấy ngạc nhiên. Tôi có, chỉ là – anh ấy khiến tôi bực. Anh ấy suốt ngày bảo em được làm cái này, không được làm cái khác…”

“Có vẻ chẳng ích gì,” Sebastian nhận xét.

“Là sao?”

“Hình như cô luôn làm theo ý cô.”

“Chắc thế.” Lời nhận xét làm cô giật mình khi nó tới từ một người gần như xa lạ. “Nhưng có vẻ điều đó làm Jace điên tiết hơn tôi tưởng.”

“Anh ta sẽ nguôi giận thôi.” Giọng Sebastian có phần khinh miệt.

Clary tò mò nhìn. “Anh có thích Jace không?”

“Có. Nhưng tôi không nghĩ anh ta quý tôi nhiều.” Sebastian có vẻ ảo não. “Mọi điều tôi nói hình như đều làm anh ta khó chịu.”

Họ quặt sang một quảng trường rải đá cuội được bao quanh bởi những căn nhà cao, hẹp. Ở giữa là bức tượng thiên thần bằng đồng – Thiên Thần, đức ngài đã dùng máu để tạo ra Thợ Săn Bóng Tối. Ở cuối phía Bắc quảng trường là một công trình đá trắng khổng lồ. Những bậc cầu thang đá cẩm thạch dài dằng dặng dẫn lên mái vòm có trụ chống, đằng sau đó là một cửa đôi khổng lồ. Toàn cảnh dưới ánh đèn đêm thật đáng hùng tráng – và thân thuộc đến kỳ lạ. Clary tự hỏi liệu cô đã từng thấy một bức tranh vẽ nơi này chưa. Có lẽ là từ một bức tranh của mẹ?

“Đây là Quảng Trường Thiên Thần,” Sebastian nói, “và kia là Đại Sảnh Thiên Thần. Hiệp Định được ký kết lần đầu tiên tại đây, vì các cư dân Thế Giới Ngầm không được phép đặt chân vào Gard – giờ nó được gọi là Sảnh Hiệp Định. Đây là trung tâm hội họp – họ tổ chức các buổi lễ, lễ cưới, khiêu vũ, các sự kiện tương tự tại nơi này. Nó là trung tâm thành phố. Họ nói mọi con đường đều dẫn tới Đại Sảnh.”

“Nó có phần giống với một nhà thờ – nhưng các anh không có nhà thờ tại đây, đúng không?”

“Không cần thiết,” Sebastian nói. “Tháp quỷ bảo vệ bọn tôi. Bọn tôi chẳng cần gì khác. Vì thế mà tôi thích tới đây. Nó cho tôi cảm giác… bình yên.”

Clary nhìn cậu ta một cách ngạc nhiên. “Vậy anh không sống ở đây?”

“Không. Tôi sống ở Paris. Tôi chỉ tới thăm Aline thôi – Aline là chị họ của tôi. Mẹ tôi và bố Aline, bác Patrick, là anh em. Bố mẹ Aline điều hành Học Viện Bắc Kinh trong nhiều năm trời. Họ mới trở về Alicante được mười năm đổ lại đây.”

“Họ… cô chú Penhallow không thuộc hội Cirlce, đúng không?”

Sebastian thoáng giật mình. Cậu ta im lặng khi họ quay người và bỏ lại quảng trường sau lưng, đi về phía những con đường chìm khuất trong bóng tối. “Sao cô hỏi vậy?” cuối cùng anh nói.

“À… vì cô chú Lightwood từng là thành viên của hội đó.”

Họ đi dưới ánh đèn đường. Clary đánh mắt nhìn Sebastian. Trong chiếc áo măng tô đen và áo sơ mi trắng, bước đi dưới ánh sáng trắng, anh trông như một hình minh họa màu đen trắng về một quý ông trong một cuốn album thời Victoria. Mái tóc đen xoăn cắt sát theo cái cách khiến cô ngứa ngáy muốn vẽ anh bằng bút và mực. “Cô phải hiểu,” anh nói. “Một nửa số Thợ Săn Bóng Tối trẻ tuổi tại Idris thời đó đều là thành viên của Cirle, và rất nhiều thành viên khác không sống tại Idris. Bác Patrick hồi đầu cũng tham gia vào hội, nhưng bác đã rời khỏi Circle khi bắt đầu nhận ra Valentine điên rồ tới độ nào. Cả bố và mẹ Aline đều không tham gia vụ Nổi Loạn – bác Patrick tới Bắc Kinh để trốn khỏi Valentine và gặp mẹ Aline tại Học Viện. Khi cô chú Lightwood và những thành viên khác của Circle bị người ta tìm cách trả thù vì chống lại Clave, nhà Penhallow bỏ phiếu cho việc khoan hồng. Vì thế nhà Lightwood được đưa tới New York thay vì bị nguyền rủa. Vì thế cô chú Lightwood luôn biết ơn hai bác tôi.”

“Còn bố mẹ anh thì sao?” Clary nói. “Họ có thuộc hội không?”

“Không hẳn. Mẹ tôi là em gái bác Patrick. Bác Patrick đã đưa mẹ tôi đến Paris khi bác tới Bắc Kinh. Mẹ gặp bố ở đó.”

“Mẹ anh là em chú Patrick?”

“Mẹ tôi qua đời đã lâu rồi,” Sebastian nói. “Bố tôi cũng vậy. Bác Élodie nuôi nấng tôi.”

“Ôi,” Clary nói, cảm thấy ngu ngốc. “Tôi xin lỗi.”

“Tôi không nhớ gì về họ,” Sebastian nói. “Không nhiều. Khi còn nhỏ, tôi ước có một người anh trai hay chị gái, một người có thể nói với tôi biết cảm giác có bố mẹ là như thế nào.” Anh trầm ngâm nhìn cô. “Tôi có thể hỏi cô vài điều không, Clary? Sao cô cứ nằng nặc đòi tới Idris dù biết anh trai mình sẽ phản ứng dữ dội như thế nào?”

Trước khi cô kịp trả lời, họ bước ra khỏi con hẻm nhỏ và vào một sân nhà tối đèn quen thuộc, cái giếng không sử dụng ở giữa sáng lên dưới ánh trăng. “Quảng trường Cistern,” Sebastian thất vọng nói. “Chúng ta tới đây nhanh hơn tôi tưởng.”

Clary liếc nhìn cây cầu bê tông bắc qua con kênh gần đó. Cô có thể thấy ngôi nhà của cô Amatis ở đằng xa. Mọi ô cửa sổ đều sáng đèn. Cô thở dài. “Từ đây tôi tự về được, cảm ơn anh nhé.”

“Cô không muốn tôi đưa cô tới-”

“Không. Trừ khi anh cũng muốn dính vô rắc rối với tôi.”

“Cô nghĩ tôi sẽ gặp rắc rối? Vì đã lịch sự đưa cô về?”

“Không ai nên biết tôi đang ở Alicante,” cô nói. “Điều này đáng ra phải là bí mật Và tôi không có ý xúc phạm anh đâu, nhưng anh là người lạ.”

“Anh không thích là người lạ,” cậu nói. “Anh muốn hiểu rõ em hơn.” Sebastian đang nhìn cô với vẻ vừa tò mò và ngượng ngùng, như thể anh không chắc điều anh vừa nói sẽ được đón nhận như thế nào.

“Sebastian,” cô nói, đột nhiên thấy quá ư mệt mỏi. “Em mừng vì anh muốn làm quen với em. Nhưng em chẳng còn chút năng lượng để làm quen với anh nữa. Xin lỗi.”

“Anh không có ý…”

Nhưng cô đã đi xa, về phía cây cầu. Nửa đường cô quay lại và liếc nhìn Sebastian. Anh trông cô đơn đến kỳ lạ dưới anh trăng, với mái tóc đen lòa xòa che khuôn mặt.

“Ragnor Fell,” cô nói.

Anh nhìn cô chăm chú. “Cái gì?”

“Anh hỏi em vì sao em đến đây dù không được phép,” Clary nói. “Mẹ em bị ốm. Ốm thực sự. Có thể là đang chết dần. Chỉ có một điều có thể giúp mẹ, chỉ có một người có thể giúp mẹ, đó là pháp sư Ragnor Fell. Chỉ là em không biết tìm ông ta ở đâu.”

“Clary…”

Cô quay người rảo bước về nhà. “Tạm biệt anh nhé.”

Leo lên hàng rào mắt cáo khó hơn nhiều so với leo xuống. Đôi giày của Clary trượt không biết bao nhiêu lần trên bức tường đá ẩm ướt, và cô mừng khi cuối cùng cũng đẩy người lên được bệ cửa sổ và nửa nhảy nửa ngã xuống phòng ngủ.

Niềm vui của cô chẳng được tày gang. Ngay khi gót giày nện xuống sàn nhà thì một ánh đèn lóe lên, căn phòng sáng rõ như ban ngày. Cô Amatis ngồi trên mép giường, lưng rất thẳng, viên đá phù thủy cầm trong tay. Nó tỏa ánh sáng chói tới độ không thể làm mềm đi nổi gương mặt khó đăm đăm hay nét hằn trên khóe miệng cô. Cô nhìn Clary một lúc lâu. Cuối cùng cô nói, “Trong bộ quần áo dó, trông cháu y hệt Jocelyn.”

Clary loạng choạng. “Cháu… cháu xin lỗi,” cô nói. “Về việc ra ngoài như thế này…”

Cô Amatis nắm tay quanh ngọn đèn phù thủy, tắt đi quầng sáng. Clary chớp mắt trong bóng tối đột ngột. “Thay bộ đồ đó ra,” Amatis nói, “và gặp bọn cô dưới tầng trong nhà bếp. Và đừng nghĩ đến việc trốn qua đường cửa sổ,” cô bổ sung, “không thì lần sau cháu về ngôi nhà này, cháu sẽ thấy cánh cửa khóa trái rồi đấy.”

Nuốt khan, Clary gật đầu.

Cô Amatis đứng dậy và rời đi không nói thêm một lời. Clary nhanh nhanh chóng chóng cởi bộ đồ đi săn và mặc quần áo của chính cô được treo trên cột giường, giờ đã khô, vào – quần bò hơi khó mặc vào một chút, nhưng thật tuyệt khi được mặc chiếc áo phông quen thuộc của cô vào. Lắc mái tóc rối bù ra sau, cô đi xuống tầng.

Lần cuối cùng cô nhìn thấy tầng trệt nhà cô Amatis, cô đang lên cơn sốt và bị ảo giác. Cô nhớ những hành lang dài kéo tới vô hạn và chiếc đồng hồ quả lắc để đứng trên sàn kêu tích tắc như tiếng đập của một trái tim sắp chết. Giờ cô thấy mình đang ở trong một căn phòng khách nhỏ nhắn và ấm cúng, với đồ nội thất bằng gỗ đơn giản đi kèm tấm thảm sờn cũ trên sàn. Diện tích nhỏ cùng màu sắc sáng gợi cho cô ít nhiều tới phòng khách trong căn hộ nhà cô tại Brooklyn. Cô im lặng bước vào bếp, nơi lửa cháy trên lò và căn phòng ngập tràn ánh sáng vàng ấm áp. Cô Amatis đang ngồi trước bàn. Cô choàng khăn quanh vai; nó làm nổi rõ những sợi bạc trên tóc cô ấy hơn.

“Cháu chào cô.” Clary lấn cấn trước ngưỡng cửa. Cô không biết liệu cô Amatis có giận không.

“Cô chắc chẳng cần phải hỏi cháu đi đâu,” Amatis nói, không thèm ngước mắt nhìn. “Cháu tới gặp Jonathan, đúng không? Cô đoán là nơi duy nhất thôi. Có lẽ nếu cô có con, cô sẽ biết khi nào một đứa trẻ nói dối cô. Nhưng cô đã rất hy vọng rằng, ít nhất là trong lúc này, cô không hoàn toàn làm anh trai cô thất vọng.”

“Làm chú Luke thất vọng?”

“Cháu biết chuyện gì xảy ra khi Luke bị cắn không?” Amatis nhìn thẳng về phía trước. “Khi người anh trai của cô bị một người sói cắn – và tất nhiên rồi, Valentine luôn loại bỏ những hiểm họa ngu ngốc đe dọa hắn và những đồng mình, chỉ là vấn đề thời gian thôi – Luke tới và nói với cô chuyện đã xảy ra và rằng anh ấy sợ hãi thế nào vì có thể dính bệnh người sói. Và cô nói… cô nói..”

“Amatis, cô không phải kể với cháu đâu…”

“Cô nói Luke hãy cút khỏi nhà cô và đừng quay lại tới khi chú ấy chắc chắn không dính bệnh. Cô tránh xa chú ấy – cô không thể ngăn mình được.” Giọng cô run run. “Chú ấy thấy cô ghê tởm thế nào, nó hiện lên toàn bộ gương mặt cô. Chú ấy nói chú ấy sợ rằng nếu chú ấy mắc bệnh thật, nếu chú ấy trở thành sinh vật-sói, rằng Valentine sẽ yêu cầu chú ấy tự tử, và cô nói…cô nói rằng thế là tốt nhất.”

Clary hơi thở dốc; cô không thể ngăn mình được.

Amatis ngẩng phắt đầu. Sự căm thù bản thân hiện rõ trên nét mặt cô. “Về cơ bản Luke luôn là người quá tốt, dù Valentine cố bắt anh ấy làm gì – đôi lúc cô nghĩ Luke và Jocelyn là những người tốt duy nhất cô biết – và cô không thể chịu nổi ý nghĩ anh ấy sẽ biến thành một dạng quái vật…”

“Nhưng không phải vậy. Chú ấy không phải quái vật.”

“Lúc đó cô không biết. Sau khi anh ấy đã Biến Đổi, sau khi anh ấy trốn khỏi đây, Jocelyn đã cố gắng và cố gắng thuyết phục cô rằng bên trong Luke vẫn là con người cũ, vẫn là anh trai yêu quý của cô. Nếu không nhờ mẹ cháu, cô sẽ không bao giờ đồng ý gặp lại Luke. Cô để Luke ở lại đây trước vụ Nổi Loạn – để anh ấy trốn trong hầm rượu – nhưng cô biết anh ấy không thực sự tin cô, sau khi cô quay lưng với anh ấy. Cô nghĩ giờ anh ấy vẫn vậy.”

“Chú ấy tin tưởng cô nên mới đưa cháu tới đây khi cháu ốm,” Clary nói. “Chú ấy tin cô nên mới để cháu lại đây với cô…”

“Luke không còn nơi nào để đi,” Amatis nói. “Và xem cô đã trông chừng cháu tốt tới mức nào này. Cô thậm chí còn chẳng giữ nổi cháu trong nhà chỉ trong một ngày.”

Clary giật mình. Thà cô bị quát mắng còn sướng hơn thế này nhiều. “Không phải lỗi của cô đâu. Cháu nói dối cô và trốn ra ngoài. Cô không thể làm gì được.”

“Ôi Clary,” Amatis nói. “Cháu không hiểu sao? Cháu luôn có thể làm gì đó. Chỉ là những người như cô luôn luôn nhủ bản thân điều khác. Cô tự nhủ rằng cô bó tay trong vụ của Luke. Cô tự nhủ rằng cô chẳng có cách gì ngoài chống mắt nhìn Stephen bỏ rơi cô. Và thậm chí cô còn từ chối tham gia những cuộc họp của Clave vì cô tự nhủ cô chẳng thể làm gì gây ảnh hưởng tới quyết định của họ được, thậm chí cô ghét điều họ làm. Nhưng rồi khi cô chọn làm gì đó – thì cô còn chẳng thể làm nó đi đúng hướng được nữa.” Ánh mắt cô sáng lên, đau khổ và lấp lánh trong ánh lửa. “Đi ngủ đi Clary,” cô kết thúc. “Và từ giờ trở đi, cháu có thể tới và đi khi cháu muốn. Cô sẽ không làm gì để cản cháu hết. Sau cùng, như cháu nói, cô chẳng thể làm gì cả.”

“Cô Amatis-”

“Đừng.” Amatis lắc đầu. “Cứ đi ngủ đi. Làm ơn.” Cô đã quyết định dừng nói chuyện; cô quay đầu đi, như thể Clary đã đi và nhìn vào tường, không chớp mắt.

Clary quay gót và chạy lên tầng. Trong phòng ngủ dành cho khách, cô đá cửa đóng sầm lại sau lưng và tung người xuống giường. Cô nghĩ cô muốn khóc, nhưng nước mắt không chảy ra. Jace ghét mình, Clary nghĩ. Cô Amatis ghét mình. Mình chưa kịp tạm biệt Simon. Mẹ mình đang hấp hối. Và chú Luke đã bỏ rơi mình. Mình cô đơn. Mình chưa bao giờ cô đơn như bây giờ, và tấ cả đều là lỗi của mình. Có lẽ đó là lý do cô không thể khóc, cô nhận ra, khi mắt ráo hoảnh nhìn lên trần nhà. Vì khóc làm gì khi chẳng có ai ở bên an ủi bạn? Và điều gì còn tệ hơn, khi bạn thậm chí còn chẳng thể an ủi chính mình?

Bình luận