Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê

Chương 18: Xin chào và tạm biệt

Tác giả: Cassandra Clare

Thung lũng thật sự đẹp hơn trong cảnh mộng của Jace nhiều. Có lẽ là do trăng sáng dát bạc lên dòng sông chạy qua thung lũng xanh tươi. Cây phong và cây dương trắng mọc xen kẽ bên rìa thung lũng, những chiếc lá cây xanh xào xào trong cơn gió lạnh – ở bên sườn đồi khá rét, vì chẳng có gì chắn gió hết.

Đây chắc chắn là thung lũng nơi anh đã nhìn thấy Sebastian lần cuối. Cuối cùng anh cũng đã đuổi kịp. Sau khi buộc Lữ Khách gần một thân cây, Jace cầm sợi chỉ dính máu khỏi túi và lập trình tự tìm kiếm, chỉ để cho chắc.

Anh nhắm mắt, mong thấy Sebastian, mong là ở một nơi nào rất gần – có thể vẫn còn trong thung lũng này-

Nhưng anh chỉ thấy bóng tối.

Trái tim anh bắt đầu đập thình thịch.

Anh thử lại, nắm chỉ trong tay trái và ngượng nghịu vẽ chữ rune theo dấu lên mu bàn tay trái bằng tay phải, bàn tay kém lanh lợi hơn. Anh hít một hơi trước khi nhắm mắt.

Lại chẳng có gì. Chỉ có một bóng tối mịt mùng, hơi xao động. Anh đứng cả một phút, răng nghiến ken két, gió thổi qua áo khoác, làm lưng anh nổi gai ốc. Chửi thề, anh mở mắt – rồi, với cảm giác tức giận vì tuyệt vọng, anh mở tay để gió thổi bay sợi chỉ và mang nó đi. Đầu óc anh bắt đầu hoạt động hết công suất. Rõ ràng chữ rune theo dấu không còn tác dụng nữa. Có lẽ Sebastian đã nhận ra hắn bị theo đuôi và làm gì đó để ngăn chặn – nhưng bằng cách nào? Có lẽ hắn tìm thấy một nguồn nước lớn. Nước ngăn chặn phép thuật.

Nhưng điều đó chẳng giúp Jace nhiều. Anh đâu thể đi tới mọi cái hồ trong đất nước mà xem xem Sebastian có trôi nổi giữa dòng hay không. Anh đã tới quá gần – quá gần rồi. Anh đã thấy thung lũng này, thấy Sebastian ở đó. Và ngôi nhà, chỉ thấp thoáng, nằm giữa những rặng cây mọc trên thung lũng. Ít nhất cũng nên đi xuống xem xét ngôi nhà để tìm xem liệu có dấu vết nào dẫn tới Sebastian, hoặc Valentine hay không. Với cảm giác chán nản, Jace sử dụng thanh stele để vẽ hàng loạt Ấn Ký lên người: những Ấn Ký cho anh sự nhanh nhẹn, nhanh chóng biến mất trong trận đánh: một cho anh sự im lặng, một cho uyển chuyển, và một cái khác cho những bước đi vững vàng. Khi xong – và thấy cảm giác đau bỏng giẫy nhoi nhói trên da – anh nhét thanh stele vào túi và gãi cổ Lữ Khách, rồi đi xuống thung lũng. Đường đi xuống khá dốc, và nhiều đá lở. Jace cẩn thận tìm đường đi và trượt xuống, nhanh nhưng nguy hiểm. Khi anh xuống tới thung lũng, tay anh dính máu do ngã xuống những chỗ lổn nhổn đá sỏi. Anh rửa tay trong dòng nước siết nhưng trong xanh; nước lạnh tê tái.

Khi anh đứng thẳng và nhìn quanh, anh nhận ra giờ anh đang nhìn thung lũng từ một vị trí khác trong cảnh mộng theo dõi. Ở đó có những rặng cây khẳng khiu, cành lá cong queo, sườn thung lũng bao bọc chung quanh, và có một ngôi nhà nhỏ. Giờ các ô cửa sổ tối om, và không có khói bốc ra từ ống khói. Jace cảm thấy vừa nhẹ nhõm vừa thất vọng. Dễ dàng khám xét nhà hơn khi không có ai ở trong. Và đồng thời chán là không có ai trong đó.

Khi tiến tới gần, anh tự hỏi điều gì về ngôi nhà trong cảnh mộng lại có vẻ quá chói mắt. Tới gần, đó chỉ là một nông trang Idris bình thường, xây từ những khối đá trắng và xám. Những ô cửa chớp hình như từng được sơn sửa lại. Chúng mang màu nhàn nhạt và bong tróc do dãi dầu mưa nắng.

Tới một ô cửa sổ, Jace đẩy người lên bậu và nhìn qua ô kính mờ. Anh thấy một căn phòng lớn, hơi bụi với bàn gia công chạy dọc một bức tường. Những đồ trên đó không phải là thứ bạn dùng để làm đồ thủ công – chúng là công cụ của các pháp sư: những mảnh giấy da dê bẩn thỉu; những cây nến sáp đen; những cái bát đồng dày đựng chất lỏng đen khô bám ở rìa; vài loại dao, vài con mỏng như những cái dùi, có cái có lưỡi vuông ta ngang. Một ngôi sao năm cách được vẽ trên sàn, rìa ngoài đã mờ, tại mỗi đỉnh có trang trí một chữ rune khác nhau. Bụng dạ Jace quặn lại – chữ rune giống chữ rune được khắc quanh chân Ithruriel. Có phải Valentine làm ra cái này – cái này là của ông ta sao? Đây là một nơi trú ẩn – một nơi trú ẩn mà Jace chưa từng tới thăm hay biết đến ư?

Jace thả tay khỏi bậu cửa, đặt chân xuống thảm cỏ khô – ngay khi bóng đen đi qua mặt trăng. Nhưng ở đây không có chim chóc, anh nghĩ, và liếc nhìn đúng lúc thấy một con quạ lượn vòng trên đầu. An đứng sựng, rồi vội ẩn vào bóng tối của một cái cây và nhìn ra qua những cành cây. Khi con quạ xà xuống gần mặt đất hơn, Jace biết bản năng đầu tiên của anh đã đúng. Đây không phải một con quạ bất kỳ – nó là Hugo, con quạ từng thuộc về bác Hodge; thi thoảng bác dùng nó để chuyển thư ra ngoài Học Viện. Gần đây Jace đã biết Hugo thực sự là con vật bố anh nuôi.

Jace ép sát vào thân cây hơn. Trái tim anh đập rộn rã, lần này vì vui sướng. Nếu Hugo ở đây, vậy có thể nó đang mang thư, và lần này thư không dành cho bác Hodge. Nó dành cho Valentine. Phải như vậy thôi. Đậu trên bậu cửa, Hugo thò đầu qua cửa sổ. Rõ ràng nhận ra trong nhà không có ai, con chim bay lên với tiếng quạ quạ khó chịu và bay về hướng dòng suối.

Jace bước khỏi bóng râm và vội vàng đuổi theo con quạ.

“Vậy, về cơ bản”, Simon nói, “dù Jace không thực sự là có quan hệ với cậu, nhưng cậu cũng đã hôn ông anh trai”.

“Simon!” Clary thất kinh. “IM ngay”. Cô quay phắt lại xem có ai nghe không, nhưng, may thay, chẳng ai có vẻ đang nghe. Cô đang ngồi trên chiếc ghế cao trên bục của Sảnh Hiệp Định, Simon ngồi cạnh. Mẹ đang đứng ở rìa bục, dựa người vào đó để nói chuyện cùng cô Amatis .

Xung quang họ, Sảnh là một cảnh tượng hỗn loạn khi cư dân Thế Giới Ngầm tràn vào qua Cổng Bắc, lao qua cửa, đứng chen chúc tới tận những bức tường. Clary nhận ra rất nhiều thành viên trong đàn của chú Luke, kể cả Maia đang toa toét cười với cô. Có những thần tiên da trắng, lạnh lùng và xinh đẹp như một khối băng, cùng những pháp sư mang đôi cánh dơi và chân dê và thậm chí có người còn có gạc, những ngọn lửa xanh nhảy nhót trên đầu ngón tay khi họ di chuyển qua căn phòng. Những Thợ Săn Bóng Tối đứng lẫn với họ, có vẻ căng thẳng.

Nắm lấy thanh stele bằng cả hai tay, Clary lo lắng nhìn quanh. Chú Luke đâu rồi? Chú đã biến mất trong đám đông. Cuối cùng cô cũng nhận ra chú đang nói chuyện với Malachi, người đang lắc đầu quầy quậy. Amatis đứng gần đó, bắn cho Quan Tổng Tài ánh mắt hình viên đạn.

“Đừng làm mình bực vì đã nói cho cậu nghe nhé, Simon”, Clary nói, lườm bạn. Cô đã cố hết sức để kể cho bạn nghe phiên bản vắn tắt của câu chuyện mẹ kể, hầu hết là rít lên khi cậu giúp cô hì hục đi qua đám đông tới cái bục và ngồi tại đó. Khá kỳ lạ khi ngồi trên này nhìn xuống căn phòng như thể cô là nữ hoàng của cả một đám đông do cô kiểm soát. Nhưng nữ hoàng đâu có hoảng hốt như cô. “Hơn nữa. Anh ấy hôn kém lắm”.

“Hoặc có lẽ do cậu thấy kinh, vì anh ấy, cậu biết mà, anh trai cậu”. Simon dường như vui thích hơn mức Clary nghĩ cậu nên tỏ ra.

“Đừng nói ở nơi mẹ mình nghe thấy được, hoặc không mình giết cậu đấy”, cô nói kèm theo cái lườm thứ hai. “Mình đã cảm thấy sắp nôn ra hoặc ngất đi rồi. Đừng làm mình thấy tệ hơn nữa đi”.

Jocelyn, quay trở về từ rìa bục đúng lúc nghe thấy mấy lời cuối của Clary – dù, may là, không nghe rõ điều cô và Simon đang bàn tới – vỗ vai Clary trấn an. “Đừng lo lắng quá, con yêu ạ. Lúc trước con làm rất tuyệt rồi. Con cần gì không? Một cái chăn, ít nước ấm-”

“Con không lạnh”, Clary kiên nhẫn đáp, “và con không cần tắm đâu. Con ổn mà. Con chỉ muốn chú Luke lên đây và nói cho con biết chuyện xảy ra”.

Jocelyn vẫy chú Luke, nói bằng khẩu hình điều gì đó mà Clary không dịch được.

“Mẹ”, cô giận quát, “đừng”, nhưng đã quá muộn. Chú Luke ngước nhìn – và một số Thợ Săn Bóng Tối khác cũng vậy. Hầu hết nhanh chóng quay đi, nhưng Clary cảm nhận được sự phấn khích trong cái nhìn của họ. Thật kỳ lạ khi nghĩ mẹ như một nhân vật huyền thoại tại đây. Hầu như mọi người trong căn phòng này đều biết tới tên mẹ và có ý kiến về mẹ, dù tốt hay xấu. Clary tự hỏi mẹ lại không thấy phiền cơ chứ. Mẹ trông chẳng hề phiền – mẹ trông ổn, xinh đẹp và nguy hiểm. Một lúc sau, chú Luke lên bục với họ, nhưng với vẻ hơi hoảng và thậm chí có chút phấn khích. Chú nói, “Đợi một giây đã. Mọi người đang tới”.

“Malachi”, Jocelyn nói, không hẳn nhìn chú Luke, “có gây khó dễ cho anh không?”

Chú Luke phẩy tay. “Ông ta nghĩ chúng ta nên gửi tin cho Valentine, từ chối các điều khoản. Anh nói chúng ta đừng nên nói một lời nào. Để Valentine xuất hiện cùng đội quân ở Brocelind và mong chúng ta đầu hàng đi. Malachi có vẻ nghĩ điều đó chẳng giúp được gì, và khi anh nói với ông ta rằng chiến tranh không phải một trận cricket của mấy cậu học trò Anh, ông ta nói nếu có bất cứ cư dân bóng tối nào ở đây hành động ngoài vòng kiểm soát, ông ta sẽ can thiệp và kết thúc toàn bộ sự việc. Anh không biết ông ta đang nghĩ điều gì đang diễn ra nữa – như thể cư dân Thế Giới Ngầm không thể không ngừng đánh lộn trong vòng năm phút vậy”.

“Đó chính xác là điều ông ta nghĩ”, cô Amatis nói. “Đó là Malachi. Ông ta luôn lo lắng các cậu sẽ ăn thịt lẫn nhau”.

“Amatis ”, chú Luke nói. “Có người nghe thấy đó”. Rồi chú quay lại, khi hai người đàn ông bước lên bậc thang phía sau: một hiệp sĩ tiên cao, mảnh khảnh với mái tóc đen dài buông xuống hai bên khuôn mặt hẹp. Anh ta mặc giáp trắng: kim loại màu trắng, dày với những vòng tròn nhỏ xíu xếp chồng lên nhau như vảy cá. Mắt anh ta màu xanh lá.

Người kia là Magnus Bane. Anh ta không cười với Clary khi tới đứng cạnh chú Luke. Pháp sư mặc áo khoác đen dài đóng cúc tới tận cổ, và mái tóc đen hớt ngược lên.

“Trông ông thường quá”, Clary nhìn và nhận xét.

Magnus cười nhạt. “Tôi nghe nói cô có chữ rune cho chúng tôi xem”, là mọi điều Đại Pháp sư Brooklyn nói.

Clary nhìn chú Luke, người vừa gật đầu. “À, đúng”, cô nói. “Tôi chỉ cần một cái gì để viết – giấy chẳng hạn”.

“Mẹ đã hỏi con có cần gì không”, Jocelyn lầm bầm, nghe rất giống người mẹ mà Clary vẫn nhớ.

“Tớ có giấy”, Simon nói, rút ra khỏi túi quần bò. Cậu đưa cho cô. Đó là một tờ bướm nhàu nhĩ quảng bá cho buổi biểu diễn của ban nhạc Knitting Factory vào tháng Bảy. Cô nhún vai và lật ra mặt sau, giơ thanh stele đi mượn lên. Nó hơi sáng khi cô chạm đầu nó vào giấy, và cô hơi lo rằng tờ giấy sẽ cháy, nhưng ngọn lửa nhỏ tắt dần. Cô bắt đầu vẽ, cố gắng bỏ qua mọi thứ khác: những tiếng ồn ào của đám đông, cảm giác mọi người đang nhìn cô.

Chữ rune giống như lúc trước – một họa tiết những đường uốn lượn mạnh mẽ đè lên một họa tiết khác, rồi trải dài trên trang giấy như thể không mong muốn kết thúc tại đó. Cô phủi bụi trên giấy và giơ lên, cảm thấy thấp thỏm như thể đang ở trường và phải thuyết trình trước lớp. “Đây là chữ rune”, cô nói. “Nó cần chữ rune để hoàn thành, để có tác dụng. Một – chữ rune đồng hành”.

“Một cư dân Thế Giới Ngầm, một Thợ Săn Bóng Tối. Hai nửa của đôi bạn đồng hành cần được vẽ Ấn Ký”, chú Luke nói. Chú chép lại chữ rune ở cuối trang giấy, xé nó làm đôi và giơ cho cô Amatis. “Bắt đầu tính chữ rune đi”, chú nói. “Chỉ cho Nephilim nó có tác dụng như thế nào”.

Với một cái gật đầu, Amatis xuống bục và biến mất trong đám đông. Hiệp sĩ tiên, liếc nhìn cô và lắc đầu. “Tôi luôn được bảo rằng, chỉ có Nephilim mới chịu nổi những Ấn Ký của Thiên Thần”, anh ta nói với vẻ không tin. “Những người như chúng tôi sẽ hóa điên hoặc chết nếu có nó”.

“Đây không phải Ấn Ký Thiên Thần”, Clary nói. “Nó không thuộc Sách Xám. Nó an toàn, tôi hứa đấy”. Hiệp sĩ tiên có vẻ chẳng thèm tin.

Với một tiếng thở dài, Magnus xắn tay áo và giơ tay ra cho Clary. “Thử đi”.

“Tôi không thể”, cô nói. “Thợ Săn Bóng Tối vẽ Ấn Ký cho ông sẽ là bạn đồng hành của ông, và tôi không tham chiến”.

“Tôi mong là không” Magnus nói. Pháp sư liếc nhìn chú Luke và Jocelyn, người đang đứng cạnh nhau. “Hai người”, anh nói. “Tới đi. Cho thần tiên thấy nó có tác dụng như thế nòa”.

Jocelyn chớp mắt ngạc nhiên. “Cái gì?”

“Tôi đoán”, Magnus nói, “rằng hai người sẽ chiến đấu bên nhau, vì kiểu gì hai người chẳng lấy nhau”’.

Màu sắc chạy rần rật trên gương mặt Jocelyn, và mẹ cẩn thận tránh nhìn chú Luke. “Tôi không có thanh stele nào-”

“Dùng của con này”. Clary giơ tay ra. “Cho họ thấy đi mẹ”.

Jocelyn quay sang chú Luke, người có vẻ hoàn toàn choáng váng. Chú giơ tay trước khi mẹ kịp hỏi, và mẹ vẽ Ấn Ký lên lòng bàn tay chú với sự chính xác dù viết vội. Tay chú hơi run khi mẹ vẽ, và mẹ phải nắm lấy cổ tay chú; chú Luke nhìn mẹ trong khi mẹ vẽ, và Clary nghĩ tới cuộc nói chuyện của họ về mẹ và chú đã nói cho cô nghe về tình cảm chú dành cho mẹ Jocelyn, và cô thấy buồn vô hạn. Cô tự hỏi liệu mẹ có biết chú Luke yêu mẹ không nữa, và nếu biết, mẹ sẽ nói gì đây.

“Đó” Jocelyn rút thanh stele lại. “Xong rồi”.

Chú Luke giơ tay, bàn tay rộng mở, và khoe ra ấn ký màu đen uốn lượn ở giữa cho hiệp sĩ tiên xem. “Hài lòng chưa, Meliorn?”

“Meliorn?” Clary nói. “Tôi từng gặp anh, đúng không? Anh từng hẹn hò với Isabelle Lightwood”.

Meliorn chẳng nói sao và chẳng biểu hiện gì, nhưng Clary thề rằng anh ta có hơi khó chịu. Chú Luke lắc đầu. “Clary, Meliorn là hiệp sĩ của Triều đình Seelie. Anh ta không thể nào-”

“Anh ta có hẹn hò với Isabelle mà”, Simon nói, “và bạn ấy đá anh ta. Ít nhất đó là điều bạn ấy định làm. Khó bỏ quá”.

Meliorn chớp mắt với cậu. “Cậu”, anh ta nói với sự kinh tởm. “cậu là đại diện cho những Đứa Con của Màn Đêm?”

Simon lắc đầu. “ Không. Tôi chỉ ở đây vì bạn tôi thôi”. Cậu chỉ Clary.

“Những Đứa Con của Màn Đêm”, chú Luke nói, có chút lưỡng lự, “không tham gia, Meliorn. Tôi đã báo cho Nữ Hoàng của các anh biết tin đó. Họ chọn- đi theo con đường riêng của họ”.

Gương mặt thanh tú của Meliorn cau lại. “Đáng ra tôi phải biết chứ”, anh ta nói. “Những Đứa Con của Màn Đêm rất khôn ngoan và thận trọng. Bất cứ chuyện gì khiến họ nổi giận phải khiến tôi nghi ngờ”.

“Tôi không nói gì về nổi giận hết”, chú Luke mở lời, cố gắng bình tĩnh và hơi bực bội – Clary không nghĩ rằng ai mà không hiểu chú có thể biết chú đang bực mình. Cô có thể cảm thấy chú nhích người: chú đang nhìn về phía đám đông. Nhìn theo, Clary thấy người bạn quen đang đi vòng qua phòng – Isabelle, mái tóc đen dài như suối, chiếc roi quấn quanh eo như hàng tá những cái vòng vàng.

Clary nắm lấy cổ tay Simon. “Nhà Lightwood. Mình vừa thấy Isabelle”.

Cậu nhìn đám đông và nhíu mày. “Mình không nhận thấy là cậu đang tìm họ”.

“Cậu chuyển lời nhắn cho Isabelle hộ mình với”, cô thì thào, liếc nhìn xem có ai để ý tới họ không; không ai. Chú Luke đang vẫy tay với ai đó trong đám đông; trong lúc đó, Jocelyn nói đôi lời với Meliorn, người đang nhìn mẹ mà mỗi lúc một hoảng hốt hơn. “Mình phải ở đây, nhưng – làm ơn, mình cần cậu nói với bạn ấy và Alec điều mẹ đã nói với mình. Về Jace và anh ấy thực sự là ai, cả Sebastian nữa. Họ phải biết. Bảo họ tới và nói chuyện với mình ngay khi có thể. Làm ơn nhé, Simon”.

“Được rồi”. Clary lo lắng vì sự căng thẳng trong giọng nói của cô, Simon kéo cổ tay khỏi tay cô và nhẹ nhàng chạm lên má cô để trấn an. “Mình sẽ trở lại”.

Cậu bước xuống bậc thang và biến mất trong đám đông; khi cô ngoái nhìn, cô thấy Magnus đang nhìn cô, miệng cười ranh mãnh. “Ổn mà”, anh ta nói, rõ ràng đang trả lời bất cứ câu hỏi nào mà chú Luke vừa đưa ra. “Tôi biết rõ Cánh Đồng Brocelind. Tôi sẽ mở Cổng Dịch Chuyển tại quảng trường. Một cánh cổng lớn sẽ không kéo dài lâu, vì thế mọi người phải đi qua đó thật nhanh ngay khi được vẽ Ấn Ký xong.”

Khi chú Luke gật đầu và quay lại nói gì đó với mẹ Jocelyn, Clary nhoài người và thì thào. “Cám ơn nhé. Vì bất cứ điều gì anh đã làm cho mẹ em.” Nụ cười nhếch mép của Magnus ngoác rộng ra. “Cô không nghĩ tôi sẽ làm, đúng không.”

“Tôi hơi nghĩ thế”, Clary thừa nhận. “Đặc biệt khi tôi gặp ông ở túp lều, ông không thèm nói cho tôi biết Jace đã mang Simon qua Cổng Dịch Chuyển khi tới Alicante. Lúc trước tôi chưa có cơ hội rủa xả ông, nhưng ông nghĩ cái gì thế chứ? Rằng tôi không muốn nghe hả?”

“Rằng cô quá muốn lắng nghe,” Magnus nói. “Và cô sẽ bỏ dở mọi chuyện và lao tới Gard. Mà tôi cần cô tìm Sách Trắng cho tôi.”

“Quá là độc ác,” Clary bực bội nói. “Và ông sai rồi. Tôi vẫn sẽ.”

“Làm điều bất cứ ai cũng làm. Điều tôi sẽ làm nếu đó là người tôi quan tâm. Tôi không trách cô, Clary, và tôi không nói ra vì tôi nghĩ cô yếu đuối. Tôi không nói vì cô là con người, và tôi hiểu con người. Tôi đã sống quá lâu rồi.”

“Làm như ông chẳng bao giờ làm chuyện ngu ngốc vì ông có cảm xúc vậy,” Clary nói. “Mà Alec đâu rồi? Vì sao ông không đi chọn anh ấy làm bạn đồng hành?”

Hình như Magnus đã nhăn mặt. “Tôi sẽ không tới gần cậu ta khi bố mẹ cậu ta ở gần đây. Cô biết mà.”

Clary tì cằm lên tay. “Làm điều đúng đắn vì người ông yêu đôi lúc cũng khó chịu thật.”

“Ừ,” Magnus nói. “Cô nói đúng.”

Con quạ bay lượn vòng, chậm chạp và lười biếng, trên những rặng cây về phía tây thung lũng. Mặt trăng cao cao tỏa nắng, vì thế Jace không cần tới ngọn đèn phù thủy trong khi bám theo con chim, cố đi trong bóng cây.

Vách thung lũng sừng sững trước mặt, một bức tường đá xám lổn nhổn. Con quạ dường như đang bay dọc theo con suối khi nó vòng sang phía tây, cuối cùng biến mất trong một vách hẹp. Jace suýt trẹo cổ chân vài lần vì đá ướt và ước trước khi anh có thể chửi lớn, nhưng chắc chắn Hugo sẽ nghe thấy. Còng người xuống trong tư thế khó chịu, anh tập trung để không bị gãy chân.

Đến lúc tới được rìa thung lũng, áo anh đã đẫm mồ hôi. Đã có lúc anh nghĩ mình mất dấu Hugo, và trái tim anh chùng xuống – rồi anh thấy cái bóng màu đen đang bay là là khi con quạ bổ xuống và biến mất trong khe nứt đen ở tường thung lũng. Jace chạy tới – thật mừng vì được chạy thay vì phải bò. Khi anh tới gần khe nứt, anh có thể thấy cái khe hở to hơn, tối hơn đằng sau đó – một cái hang. Lục tục rút viên đá phù thủy ra khỏi túi, Jace chui vào theo.

Chỉ có một chút ánh sáng lọt qua miệng hang, và sau vài bước anh đã chìm hẳn vào trong bóng tối đen kịt. Jace giơ ngọn đèn phù thủy và để ánh sáng chiếu rọi qua những kẽ ngón tay. Lúc đầu anh nghĩ rồi anh sẽ tìm được đường ra ngoài, và rằng những ngôi sao trên đầu vẫn tỏa ánh sáng huy hoàng. Những ngôi sao không sáng ở đâu bằng ở Idris – và giờ chúng không hề sáng. Ngọn đèn phù thủy phản sáng lên hàng tá những mảnh khoáng thạch mica trên đá xung quanh, và những bức tường hang trở nên sống động với những tia sáng

Chúng cho anh thấy anh đang đứng trong một khoảng không hẹp lọt giữa hai khe núi dốc, lối vào hang đằng sau lưng, hai lối rẽ đen ngòm trước mặt. Jace nghĩ tới câu chuyện bố kể về những vị anh hùng lạc trong mê cung đã dùng dây thừng hoặc dây bện để tìm được trở lại. Anh chẳng có hai thứ đó. Anh đi gần hơn tới hai lối rẽ và đứng im lặng một lúc lâu, nghe ngóng. Anh nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt, văng vẳng từ một nơi xa xăm; tiếng suối róc rách, tiếng xoàn xoạt của những đôi cánh, và – những giọng nói.

Anh giật mình lùi lại. Những giọng nói tới từ lối rẽ bên trái, anh chắc chắn. Anh chẹn ngón tay cái lên ngọn đèn phù thủy để giảm ánh sáng, tới khi nó tỏa ra ánh sáng mờ mờ chỉ đủ soi đường. Sau đó, anh lao vào bóng tối.

“Cậu nghiêm túc chứ, Simon? Có thật không? Thật hay quá! Tuyệt cú mèo!” Isabelle đưa tay tìm tay người anh trai. “Alec, anh có nghe thấy Simon nói gì không? Jace không phải con trai Valentine. Chưa bao giờ và không bao giờ”.

“Vậy ai là con trai Valentine?” Alec trả lời, dù Simon có cảm giác anh ta chỉ chú tâm có tí chút. Anh ta có vẻ đang nhìn quanh quẩn khắp phòng tìm gì đó. Bố mẹ anh hơi đứng xa một chút, nhíu mày nhìn họ; Simon đang lo là cậu phải giải thích toàn bộ câu chuyện cho họ nữa, nhưng họ đã vui lòng nán lại bên hai đứa con để nghe cậu trình bày vài phút.

“Ai quan tâm chứ!” Isabelle giơ tay đắc thắng rồi nhíu mày. “Thật ra, cũng đúng đấy. Ai là bố đẻ Jace? Michael Wayland thật sao?”

Simon lắc đầu. “Stephen Herodale”.

“Vậy Jace là cháu Điều Tra Viên”, Alec nói.

“Thế nên bà ta mới-” anh ngừng nói và nhìn xa xăm.

“Thế nên bà ta mới làm sao?” Isabelle hỏi. “Alec, chú ý cái. Hay ít nhất là nói cho bọn em biết anh đang tìm gì”.

“Không phải gì”, Alec nói. “Ai mới đúng. Magnus. Anh muốn hỏi anh ấy có muốn làm bạn đồng hành của anh trong cuộc chiến không. Nhưng anh không biết anh ta đang ở đâu? Cậu có thấy không?” Alec hỏi, hướng tới Simon.

Simon lắc đầu. “Lúc nãy ông ta trên bục với Clary, nhưng” – cậu nghển cổ nhìn – “Giờ thì không rồi. Chắc ông ấy đang ở cùng những người khác”.

“Thật chứ? Anh định bảo anh ấy làm bạn đồng hành hả?” Isabelle hỏi. “Vụ bạn đồng hành này, giống như nhảy Côlitông, ngoại trừ vụ giết người”.

“Vậy là, không hoàn toàn là nhảy Côlitông”, Simon nói.

“Có lẽ mĩnh sẽ mời cậu làm bạn đồng hành của mình, Simon nhỉ”, Isabelle nói, nhướn mày tỏ ý dò hỏi.

Alec nhíu mày. Anh, giống như hầu hết các Thợ Săn Bóng Tối khác trong phòng, đều đã trang bị vũ trang tới tận răng – mặc toàn đồ đen, thắt lưng treo lủng lẳng đủ loại vũ khí. Một cái cung đeo sau lưng anh ta; Simon mừng vì anh đã tìm được cái mới thay thế cho chiếc Sebastian bẻ gãy. “Isabelle, em đâu cần bạn đồng hành, vì em sẽ không tham chiến. Em còn quá trẻ. Và nếu em dám nghĩ tới chuyện đó, anh sẽ giết em”. Đầu anh ngẩng phắt lên. “Đợi đã… đó có phải Magnus không?”

Isabelle nhìn theo ông anh và khịt khịt. “Alec, đó là người sói. Một cô gái sói. Hình như là May gì đó thì phải”.

“Maia”, Simon sửa lại. Cô nàng đứng hơi tách biệt, mặc chiếc quần da màu nâu và áo phông đen bó có in dòng chữ CÁI GÌ KHÔNG GIẾT ĐƯỢC TÔI… TỐT NHẤT NÊN BIẾT ĐƯỜNG MÀ CHẠY. Một chiếc băng đô xước hết những bím tóc của cô nàng gọn ra sau. Cô nàng quay lại, như thể cảm nhận thấy họ đang nhìn, và mỉm cười. Simon cười lại, Isabelle lườm. Simon ngay lập tức ngừng cười – từ bao giờ mà cuộc sống của cậu lại phức tạp thế này chứ?

Gương mặt Alec bừng sáng. “Magnus kia rồi”, anh nói và đi không thèm ngoái đầu lại, rẽ đường qua đám đông tới nơi vị pháp sư cao cao đang đứng. Sự ngạc nhiên của Magnus khi Alec tới nơi quá rõ ràng, thậm chí là từ khoảng cách này.

“Thật ngọt ngào làm sao”, Isabelle nói, nhìn họ. “Cậu biết đấy, theo cách hơi khùng khùng”.

“Sao lại khùng khùng?”

“Vì”, Isabelle giải thích, “Alec đang cố cho Magnus hiểu anh ấy yêu thực sự, nhưng anh ấy lại chẳng bao giờ nói với bố mẹ về Magnus, hay là anh ta là gì, anh biết đó-”

“Pháp sư hả?” Simon nói.

“Rất vui”. Isabelle lườm cậu. “Cậu biết mình muốn nói gì. Chuyện đang diễn ra ở đây thật”

“Thật ra thì chuyện gì đang diễn ra nào?” Maie hỏi, tới gần nghe ngóng. “Ý mình là, mình không hiểu rõ về vụ bạn đồng hành lắm. Làm sao mà thành công được?”

“Như thế này này”. Simon chỉ Magnus và Alec, đang đứng hơi cách đám đông một chút, sát nhau. Alec đang nắm tay Magnus, gương mặt căng thẳng, mái tóc đen rủ xuống che mắt.

“Vậy tất cả chúng ta đều phải làm vậy hả?” Maia hỏi. “Ý mình là được vẽ ấy”.

“Nếu như bạn tham chiến”, Isabelle nói và lạnh lùng nhìn cô gái kia. “Hình như bạn chưa đủ mười tám tuổi thì phải”.

Maia nhếch mép. “Tớ không phải Thợ Săn Bóng Tối. Người sói được coi là đã trưởng thành khi tròn mười sáu tuổi”.

“À, vậy thì cậu phải được vẽ”, Isabelle nói. “Bởi một Thợ Săn Bóng Tối. Vậy cậu nên đi kiếm ai đó đi”.

“Nhưng-” Maia, vẫn nhìn Alec và Magnus, ngừng nói và nhíu mày. Simon quay sang xem ô gái đang nhìn – và nhìn chăm chú. Alec đang quàng tay ôm Magnus và hôn anh ta, vô cùng nồng thắm. Magnus, có vẻ đang trong trạng thái choáng váng, đứng sựng tại chỗ. Vài nhóm người – Thợ Săn Bóng Tối và cư dân Thế Giới Ngầm – đều đứng trố mắt nhìn và xì xào bàn tán. Liếc sang bên, Simon thấy cô chú Lightwood, mắt chữ o mồm chữ a. Cô Maryse đưa tay lên che miệng.

Maia có vẻ lúng túng. “Đợi một giây”, cô nàng nói. “Chúng ta có phải làm thế nữa không?”

Đây là lần thứ sáu Clary nhìn khắp đám đông kiếm Simon. Cô không thấy bạn. Căn phòng chật ních những Thợ Săn Bóng Tối và cả cư dân Thế Giới Ngầm, một đám đông đang đi qua cánh cưa mở và ra ngoài bậc thang bên ngoài. Mọi nơi đều lóe lên ánh sáng stele khi cư dân Thế Giới Ngầm và Thợ Săn Bóng Tối tới bắt cặp và vẽ Ấn Ký cho nhau. Clary thấy cô Maryse Lightwood chìa tay cho một tiên nữ cao ráo da xanh lơ trông cũng xanh xao và vương giả hệt như cô. Chú Patrick Penhallow đang nghiêm nghị vẽ Ấn Ký với một pháp sư tóc sáng lên những tia lửa xanh lam. Qua cách Cổng Dịch Chuyển tại quảng trường. Ánh sáng tỏa chiếu xuống qua giếng trời bằng kính tạo nên một bầu không khí kỳ quái.

“Tuyệt vời, đúng không?” chú Luke nói. Chú đứng ở rìa bục, nhìn xuống toàn cảnh căn phòng. “Thợ Săn Bóng Tối và cư dân Thế Giới Ngầm, cùng nhau trong một căn phòng. Làm việc cùng nhau”. Chú có vẻ ngưỡng mộ khoảnh khắc này. Còn Clary chỉ ước gì Jace ở đây để chứng kiến. Cô không thể bỏ nỗi sợ cho anh sang bên, dù cô cố gắng thế nào. Ý nghĩ anh có thể đang đối mặt với Valentine, có thể liều mạng vì anh nghĩ anh bị nguyền rủa – rằng anh có thể chết mà không biết sự thật-

“Clary”, Jocelyn gọi, với một chút ngạc nhiên”, con có nghe mẹ nói gì không?”

“Có ạ”, Clary nói, “và nó tuyệt vời thật, con biết”.

Jocelyn đặt tay lên tay Clary. “Đó không phải điều mẹ vừa nói. Chú Luke và mẹ sẽ cùng nhau chiến đấu. Mẹ nghĩ con biết rồi. Con sẽ ở lại đây cùng Isabelle và những đứa trẻ khác”.

“Con không phải trẻ con”.

“Mẹ biết là không, nhưng con còn quá trẻ để tham chiếm. Và kể cả không thì con cũng chưa từng được huấn luyện”.

“Con không muốn chỉ khoanh tay nhìn”.

“Khoanh tay nhìn?” Mẹ Jocelyn ngạc nhiên. “Clary, không một chuyện gì có thể xảy ra nếu không nhờ con. Chúng ta thậm chí còn không có cơ hội chiến đấu nếu không có con. Mẹ rất tự hào về con. Mẹ chỉ muốn nói với con rằng kể cả nếu cả mẹ và chú Luke đều ra đi, bọn mẹ đều sẽ quay lại. Mọi thứ rồi sẽ ổn mà”.

Clary ngước nhìn mẹ, nhìn đôi mắt xanh rất giống đôi mắt cô. “Mẹ”, cô nói. “Đừng nói dối”.

Jocelyn hít một hơi thật sâu và đứng dậy, rụt tay. Trước khi mẹ kịp nói gì, Clary đã thoáng thấy gì đó – một gương mặt quen thuộc trong đám đông. Một người gầy mảnh khảnh, đen đúa đang tiến về phía họ, đi qua Sảnh đầy ắp người dễ như không – như thể hắn ta đang lướt qua đám đông, như một cuộn khói chui qua những mắt hàng rào.

Và Clary nhận ra hắn, khi hắn tới gần bục. Đó là Raphael, vẫn mặc áo sơ mi trắng và quần đen như lần đầu tiên cô gặp. Cô đã quên mất anh ta đi lại khẽ khàng thế nào. Anh ta trông chỉ độ mười bốn khi bước lên bậc thang, gương mặt gầy bình lặng và như Thiên Thần, như một cậu bé trong dàn nhạc lễ đang bước lên bậc của đoàn thánh ca.

“Raphael”, chú Luke có phần ngạc nhiên, kèm theo một chút nhẹ nhõm. “Tôi không nghĩ là anh sẽ tới. Vậy những Đứa Con của Màn Đêm có cân nhắc lại việc gia nhập cùng chúng tôi trong trận chiến chống Valentine không? Vẫn có một vị trí trong hội đồng dành cho các anh, nếu các anh muốn”. Chú giơ tay cho Raphael.

Đôi mắt đẹp và trong sáng của Raphael nhìn chú không biểu lộ gì. “Tôi không thể bắt tay anh, người sói”. Khi chú Luke có vẻ bị đả kích, anh ta mỉm cười, chỉ đủ để khoe những chiếc răng nanh trắng ở. “Tôi là một hình lập thể”, anh ta nói và giơ tay để họ có thể thấy ánh sáng chiếu xuyên qua nó. “Tôi chẳng chạm được gì hết”,

“Nhưng-” chú Luke ngước nhìn ánh trăng chiếu ùa vào qua mái nhà. “Vì sao-” Chú hạ tay. “À, tôi mừng vì anh ở đây. Dù anh chọn cách xuất hiện nào”.

Raphael lắc đầu. Trong một lát, ánh mắt anh ta dừng lại ở Clary – một cái nhìn cô thực sự không thích – và rồi ang ta quay sang Jocelyn và nụ cười mở rộng. “Cô”, anh ta nói, “Cô vợ yêu của Valentine. Những ma cà rồng khác, đã chiến đấu cùng cô trong vụ Nổi Dậy, đã cho tôi biết về cô. Tôi thừa nhận rằng tôi chưa từng dám nghĩ sẽ được tận mắt trông thấy cô”.

Jocelyn nghiêng đầu. “Rất nhiều Đứa Con của Màn Đêm chiến đấu rất dũng cảm. Liệu sự hiện diện của anh đây có ám chỉ rằng có thể chúng ta sẽ sóng vai bên nhau một lần nữa?”

Clary nghĩ, thật lạ khi mẹ nói theo cách lạnh nhạt và lịch sự như thế nào, nhưng điều đó có vẻ rất bình thường với mẹ. Bình thường như mặc đồ lao động cũ kỹ ngồi trên mặt đất, cần theo một cái chổi vẩy sơn vậy.

“Tôi mong vậy”, Raphael nói, và lại nhìn lướt qua Clary một lần nữa và cô có cảm giác như bị một bàn tay lạnh lẽo chạm vào. “Chúng tôi chỉ có một yêu cầu, một yêu cầu đơn giản – nho nhỏ – mà thôi. Nếu được, Những Đứa Con của Màn Đêm từ nhiều vùng miền sẽ vô cùng hạnh phúc được chiến đấu bên cạnh các người”.

“Một vị trí Hội Đồng”, chú Luke nói. “Tất nhiên, nó có thể được chính thức hóa, chỉ trong vòng một giờ-”

“Không phải”, Raphael nói, “là vị trí trong Hội Đồng. Cái khác”

“Cái- khác?” Chú Luke bối rối nhắc lại. “Cái gì? Tôi đảm bảo với anh, nếu điều đó trong khả năng của chúng tôi-”

“Ồ, có chứ”. Nụ cười của Raphael thật lóa mắt. “Thật ra, là một thứ, trong khi chúng ta trò chuyện đây, đang nằm giữa bốn bức tường của Đại Sảnh”. Anh ta quay lại và vẫy tay một cách duyên dáng về phía đám đông. “Đó là cậu bé Simon”, anh ta nói. “Ma Cà Rồng Ưa Sáng”.

Đường hầm dài và ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo liên tục như ruột một con quái vật khổng lồ. Nó bốc mùi đá ướt, tro bụi và cái gì đó nữa, một cái gì đó mang mùi âm khí và kỳ lạ khiến Jace hơi có chút liên tưởng tới Thành Phố Xương.

Cuối cùng đường hầm dẫn tới một căn phòng hình tròn. Những thạch nhũ, bề ngoài nhẵn bóng như đá quý, rủ xuống từ trên trần đá lượn sóng bên trên. Nền hang nhẵn như được đánh bóng, và óc những hoa văn bí ẩn khắc trên những tảng đá đang tỏa sáng. Một loại những nhũ đá nhọn hoắc bao quanh căn phòng đá. Ở chính giữa gian phòng là một cột đá thạch anh khổng lồ, mọc lên từ nền hang như một chiếc răng nanh khổng lồ, thi thoảng được điểm xuyết bởi đường vân màu đỏ. Nhìn gần hơn, Jace thấy ở các bên cột đá trong suốt. Đường vân màu đỏ là kết quả của cáu gì đó đang xoắn lượn và di chuyển bên trong như một ống nghiệm đựng đầy khói màu.

Trên cao, ánh sáng tràn vào qua một lỗ tròn trên đá, một giếng trời tự nhiên, căn phòng rõ ràng là một sản phẩm thiết kế chứ không phải là của ngàn năm mẹ thiên nhiên kiến tạo – những họa tiết rối rắm trên sàn đã chứng minh điều đó quá rõ – nhưng ai lại đục ra một căn phòng ngầm lớn tới nhường này, và vì sao?

Một tiếng quạ kêu vọng khắp phòng, khiến mọi dây thần kinh của Jace đều căng như dây đàn. Anh cúi trốn sau cột đá thạch anh to bè, tắt đèn phù thủy, đúng lúc hai người bước vào từ bóng tối ở bên kia phòng và tiến về phía anh, đầu cúi vào nhau trò chuyện. Chỉ tới khi họ tới giữa phòng và ánh sáng rọi chiếu tới họ, anh mới nhận ra họ là ai.

Sebastian.

Và Valentine.

Mong tránh đám đông, Simon đi đường vòng tới bục, chui ra sau những hàng ghế xếp gọn hai bên Sảnh. Cậu cắm cúi, vừa đi vừa suy nghĩ. Thật là lạ khi Alec, chỉ lớn hơn Isabelle một hai tuổi, lại được tham chiến trong khi những người còn lại phải ở lại “hậu phương”. Và Isabelle có vẻ bình thường. Không khóc, không lên cơn kích động. Như thể cô nàng đã nghĩ tới chuyện đó rồi. Có lẽ thế thật. Có lẽ tất cả đều đã biết.

Cậu tới gần bục, ngước nhìn và ngạc nhiên khi thấy Raphael đang đứng đối mặt với chú Luke, vẫn giữ cái vẻ điềm nhiên ơ hờ mọi khi. Chú Luke, ngược lại, trông có vẻ kích động – chú đang lắc đầu, tay giơ lên phản đối, và cô Jocelyn bên cạnh có vẻ nổi sùng. Simon không nhìn được khuôn mặt Clary – cô quay lưng với cậu – nhưng cậu hiểu cô nên nhận ra được sự căng thẳng hằn lên trên bờ vai cô bạn.

Không muốn Raphael thấy, Simon chui nấp sau cột nghe ngóng. Kể cả giữa tiếng ồn ào của đám đông, cậu vẫn nghe thấy giọng chú Luke đang lên cao. “Chúng tôi không muốn bàn tới”, chú Luke nói. “Tôi không thể tin anh dám nói tới chuyện này”.

“Và tôi không thể ngờ rằng anh sẽ từ chối”. Giọng Raphael điềm nhiên và rành mạch, chất giọng vẫn còn thanh thanh của một cậu con trai chưa dậy thì. “Chỉ là một thứ nho nhỏ thôi mà”.

“Đó không phải một thứ”. Clary có vẻ bực bội. “Đó là Simon. Cậu ấy là người”.

“Nhắc cho cô nhớ”, Raphael nói. “Cậu ta là ma cà rồng”.

“Vậy không phải anh cũng là ma cà rồng sao?” Jocelyn hỏi, giọng lạnh băng y như khi Clary và Simon làm điều ngu ngốc gì đó. “Anh đang nói rằng cuộc sống của anh không có giá trị gì sất?”

Simon dựa lưng vào cột. Có chuyện gì thế nhỉ? “Cuộc đời có tôi đáng giá lắm chứ”, Raphael nói, “vì, không như các người, cuộc sống của tôi kéo dài vĩnh viễn. Điều tôi muốn thực hiện sẽ không bao giờ kết thúc, trong khi rõ ràng cuộc đời mọi người đều có hạn. Nhưng không phải vấn đề. Cậu ta là ma cà rồng, là một thành viên trong tộc chúng tôi, và tôi yêu cầu cậu ta trở về”.

“Anh không thể có cậu ấy về được”, Clary quát. “Anh chưa bao giờ có cậu ấy. Anh chưa bao giờ thích thú gì với cậu ấy, cho tới khi anh biết cậu ấy có thể đi lại dưới ánh nắng-”

“Có lẽ”, Raphael nói, “nhưng không phải là lý do em đang nghĩ”. Anh ta nghiêng đầu, đôi mắt sáng, vui vẻ đảo láo liên như mắt chim. “Không ma cà rồng nào nên có khả năng như cậu ta”, anh ta nói. “cũng không một Thợ Săn Bóng Tối nào nên có sức mạnh như cô và anh trai cô. Trong nhiều năm, người ta chê bai ma cà rồng chúng tôi là sản phẩm bị lỗi của mẹ tự nhiên. Nhưng chúng tôi – chúng tôi hoàn toàn tự nhiên”.

“Raphael”. Chú Luke đe nẹt. “Tôi không biết anh đang muốn gì. Nhưng chúng tôi không bao giờ để anh làm hại tới Simon đâu”.

“Nhưng anh sẽ để Valentine cùng đội quân quái vật làm hại những con người kia, những đồng minh của anh”. Raphael chỉ toàn bộ khán phòng đông đúc. “Anh kệ cho họ liều mạng mặc cho họ quyết định vậy mà không cho Simon quyền tự quyết sao? Có lẽ cậu ta sẽ đưa ra quyết định khác anh đó”. Anh ta hạ tay. “Anh biết rằng nếu anh không chấp nhận điều kiện tôi đưa ra, chúng tôi sẽ không tham chiến. Những Đứa Con của Màn Đêm sẽ không can dự vào ngày hôm nay”.

“Cứ việc”, chú Luke nói. “Tôi không dùng mạng sống của một đứa trẻ vô tội để mua sự hợp tác của các anh. Tôi không phải Valentine”.

Raphael quay sang Jocelyn. “Còn cô thì sao, Thợ Săn Bóng Tối? Cô định để cho một người sói quyết định xem thế nào là tốt cho đồng loại của cô sao?”

Jocelyn đang nhìn Raphael như thể anh ta là một con gián đang bò lổm ngổm trong gian bếp. Rất chậm rãi, cô nói, “Nếu anh dám đặt một bàn tay lên Simon thôi, ma cà rồng, tôi sẽ chặt anh thành từng mảnh và cho mèo ăn đấy. Hiểu chứ?”

Môi Raphael mím lại. “Rất tốt”, anh ta nói. “Khi mấy người nằm hấp hối trên Cánh Đồng Brocelind, hãy tự hỏi vì sao một mạng sống lại ngang giá bằng cả ngàn mạng nhé”.

Anh ta biến mất. Chú Luke vội quay sang Clary, nhưng Simon không còn quan sát họ nữa; cậu đang nhìn đôi bàn tay mình. Cậu đã nghĩ chúng sẽ run, nhưng chúng đơ ra như tay xác chết. Rất chậm, cậu nắm chặt tay lại.

Valentine vẫn như mọi khi, một người lớn trong bộ đồ săn của Thợ Săn Bóng Tối được cách điệu, đôi vai rộng, dày trông không ăn khớp với khuôn mặt đẹp, góc cạnh. Trên lưng ông ta là thanh Kiếm Thánh cùng với một cái túi to sụ. Ông ta đeo một chiếc thắt lưng to bản với vô số vũ khí treo trên đó: những con dao găm lưỡi dày, đoản kiến mỏng và những cái dao lột da. Nhìn Valentine từ sau tảng đá, Jace cảm thấy cảm giác như mọi khi nghĩ tới bố – một sự ảnh hưởng quen thuộc không đổi đi cùng với sự trống trải, thất vọng và ngờ vực.

Thật lạ khi nhìn bố đứng cùng Sebastian, giờ trông – khá khác. Anh ta cũng mặc đồ đi săn và đeo một thanh kiếm đốc bạc dài nơi thắt lưng, nhưng không phải thứ hắn đeo hay mặc khiến Jace thấy lạ lẫm. Mà là mái tóc, không còn là những lọn tóc đen loăn xoăn màu vàng, vàng sáng, kiểu màu bạch kim. Thật ra, nhìn hắn với mái tóc vàng trông hợp hơn nhiều so với mái tóc đen; nước da hắn không còn trông trắng bệch tới dọa người nữa. Hẳn hắn đã nhuộm tóc để cho giống Sebastian Veclac, và còn đây chính là bề ngoài thực sự của hắn. Một cơn sóng thù địch chua loét cuộn trào trong người Jace, và tất cả những điều anh làm được là trốn sau tảng đá và không được lao vào bóp cổ Sebastian.

Hugo lại cất tiếng kêu quạ quạ và đậu xuống vai Valentine. Jace giật mình khi nhìn con quạ trong tư thế quá quen thuộc trong suốt bao nhiêu năm anh biết bác Hodge. Hugo gần như sống trên vai bác, và thấy nó đậu trên vai Valentine có một cảm giác cực kỳ xa lạ, thậm chí không đúng, dù cho bác Hodge đã làm những gì.

Valentine đưa tay vào gãi bộ lông bóng mượt của con chim, gật đầu như thể hai người đang trò chuyện thân mật. Sebastian quan sát, đôi lông mày vàng cong lên. “Có tin gì từ Alicante sao?” hắn ta nói trong khi Hugo bay khỏi vai Valentine và lượn vòng trên đầu, đôi cánh lướt qua những chóp thạch nhũ sáng như đá quý.

“Chẳng có tin gì hay ho như ta thích”, Valentine nói. Nghe tiếng của bố, lạnh lùng và điềm nhiên như mọi khi, xuyên qua người Jace như một mũi tên. Tay anh giật giật không tự chủ và anh ấn tay sát người, mừng vì tảng đá chắn tầm nhìn hộ anh. “Chỉ có một điều chắc chắn. Clave đang kết đồng minh với lực lượng Thế Giới Ngầm của Lucian”.

Sebastian nhíu mày. “Nhưng Malachi nói-”

Jace ngạc nhiên khi thấy Sebastian tiến lên và chạm vào cánh tay Valentine. Có gì đó trong sự đụng chạm đó – cái gì đó thân thiết và tự tin – khiến bụng Jace quặn lại như bị cả tá giun quẫy. Không ai chạm vào Valentine như thế. Kể cả anh cũng không được phép chạm vào bố như vậy.

“Bố thất vọng sao?” Sebastian hỏi, giọng cũng như vậy, cùng sự kỳ cục lạ lùng của tình thân.

“Clave đã đi xa hơn ta nghĩ. Ta biết nhà Lightwood đã không còn kỳ vọng gì nữa, và kiểu buồn đau đó dễ lan truyền lắm. Đó là lý do ta không nuốn họ đi vào Idris. Nhưng những người còn lại thì đầu óc đã nhiễm đầy chất độc của Lucian, khi hắn ta chẳng còn là Nephilim-” Sự kinh tởm của Valentine rất rõ rệt, nhưng ông ta không hề tránh Sebastian, Jace càng lúc càng khó tin, không hề định gạt tay cậu con trai kia ra khỏi vai ông ta. “Ta thất vọng lắm lắm. Ta nghĩ họ sẽ hiểu lý lẽ. Ta không hề thích kết thúc mọi chuyện theo cách này”.

Sebastian có vẻ bất ngờ. “Con không đồng ý”, hắn nói. “Nghĩ về họ, sẵn sàng tham chiến, hùng dũng ra đi, chỉ để thấy rằng tất cả đều là công cốc. Rằng điều họ làm chẳng có nghĩa lý gì. Nghĩ về vẻ mặt họ”. Miệng hắn dãn ra thành một nụ cười.

“Jonathan”. Valentine thở dài. “Đó là sự cần thiết xấu xa, không nên vui vẻ gì”.

Jonathan? Jace nắm lấy thạch nhũ, tay đột ngột trơn trượt. Vì sao Valentine lại gọi Sebastian bằng tên anh chứ? Nhầm sao? Nhưng Sebastian không hề ngạc nhiên.

“Chẳng nhẽ không tốt hơn khi con thích điều con làm?” Sebastian nói. “Con tất nhiên là vui vẻ ở Alicante rồi. Nhà Lightwood tốt tính hơn là bố nói, đặc biệt là Isabelle. Bọn con khá hợp rơ. Còn về Clary-”

Vừa nghe Sebastian nhắc tới Clary đã làm tim Jace đột ngột đập lỡ nhịp.

“Con bé không hề giống như con nghĩ”, Sebastian cáu kỉnh nói. “Clary không hề giống con chút nào”.

“Không ai trên thế giới này giống con đâu, Jonathan. Và còn về Clary, con bé luôn giống y hệt mẹ nó”.

“Con bé không thừa nhận điều nó thực sự muốn”, Sebastian nói. “Chưa thôi. Rồi kiểu gì nó cũng lòng vòng quanh đây”.

Valentine nhướn mày. “Lòng vòng quanh đây là sao?”

Sebastian cười toe toét, một nụ cười khiến Jace giận tới không khống chế nổi. Anh cắn mạnh môi, nếm được vị máu. “Ồ, bố biết đấy”, Sebastian nói. “Sẽ về với chúng ta. Con không đợi được. Lừa con bé là điều vui nhất con từng làm trong bao nhiêu năm rồi”.

“Con không nên vui. Con phải tìm ra con bé đang tìm gì. Và khi con bé tìm ra nó – ta phải nói thêm là không có con – con để con bé giao nó cho một pháp sư. Và rồi con không thể mang Clary về đây, dù con bé có thể gây nguy hiểm cho chúng ta tới mức nào. Không hẳn là một thắng lợi huy hoàng đâu, Jonathan”.

“Con đã cố mang con bé về. Chúng không cho con bé rời khỏi tầm mắt, và con không thể nào bắt cóc nó giữa Sảnh Hiệp Định được”. Sebastian có vẻ bực. “Hơn nữa, con đã nói rồi, Clary không biết cách sử dụng sức mạnh chữ rune. Con bé chẳng gây nguy hiểm gì-”

“Dù lúc này Clave đang lên kế hoạch gì, con bé cũng là căn nguyên”, Valentine nói. “Hugo nói vậy. Nó thấy con bé ngồi trên bục của Sảnh Hiệp Định. Nếu con bé có thể cho Clave thấy sức mạnh-”

Jace đột ngột lo sợ cho Clary, vừa thấy một chút tự hào – tất nhiên là em ấy là trung tâm của mọi chuyện rồi. Đó là Clary của anh cơ mà.

“Rồi chúng sẽ ra trận”, Sebastian nói. “Đó là điều chúng ta muốn, đúng không? Clary chẳng là gì hết. Trận chiến mới là vấn đề cốt yếu”.

“Con có quan sát nó”, Sebastian nói. “Nếu sức mạnh con bé là không giới hạn như bố nghĩ, con bé có thể dùng nó để đưa anh bạn ma cà rồng nhỏ bé ra khỏi ngục – hoặc cứu lão già Hodge ngu ngốc khi lão đang hấp hối-”

“Không có quyền năng nào có thể ngăn cái chết”, Valentine nói. “Và về Hodge, có lẽ con nên giành chút tôn trọng với cái chết của ông ta, chính con là người ra tay đoạt mạng sống của ông ấy”.

“Hodge định nói cho mọi người biết về Thiên Thần. Con buộc phải ra tay”.

“Con muốn ra tay. Con luôn muốn”. Valentine rút một đôi găng tay da dày từ túi chầm chậm đeo vào tay. “Có lẽ ông ta sẽ nói. Có lẽ không. Trong bao nhiêu năm ông ta chăm sóc Jace ở Học Viện và tự hỏi ông ta đang nuôi dưỡng cái gì. Hodge là một trong số ít người biết có hơn một đứa trẻ. Ta biết ông ta sẽ không phản bội ta – ông ta quá hèn mà”.

Anh co duỗi những ngón tay trong găng, nhíu mày. Hơn một đứa trẻ? Valentine đang nói gì vậy?

Sebastian vẫy tay ra hiệu bỏ qua đề tài Hodge. “Ai quan tâm xem ông ta nghĩ gì? Ông ta chết và lên thiên đường rồi”. Mắt hắn sáng lên tia đen tối. “Giờ bố tới hồ chứ?”

“Ờ. Con rõ phải làm gì chưa?”

Valentine hất hàm về phía thanh liếm đeo trên thắt lưng Sebastian. “Dùng nó. Nó không phải Kiếm Thánh, nhưng mối liên kết của nó cũng có tác dụng tương tự”.

“Vậy là con không được đến hồ với bố?” Giọng Sebastian có phần mè nheo. “Chúng ta không thể thả quân đội ra luôn à?”

“Chưa tới nửa đêm. Ta nói ta cho họ thời gian tới nửa đêm. Có thể họ sẽ thay đổi quyết định-”

“Họ sẽ không-”

“Ta đã nói. Và giữ lời”. Giọng Valentine quả quyết. “Nếu con không nghe tin gì từ Malachi vào nửa đêm, hãy ở cổng”. Nhìn thấy sự lưỡng lự của Sebastian, Valentine có vẻ mất kiên nhẫn. “Ta cần con làm điều đó,Jonathan. Ta không thể đợi tại đó tới nửa đêm; ta phải mất gần tiếng đồng hồ để tới hồ qua các đường hầm, và ta không định để trận đánh kéo dài từng đó thời gian. Những thế hệ tương lai phải biết rằng Clava đã thua trận nhanh thế nào, và chiến thắng của chúng ta mang tính quyết định tới đâu”.

“Chỉ là con ghét phải bỏ lỡ vụ triệu hồi. Con thích ở đó khi bố làm”. Sebastian có vẻ nuối tiếc, nhưng dưới đó còn có gì đó tính toán, cái gì đó độc ác, tham lam, và lạnh lùng một cách kỳ là và cố ý. Nhưng Valentine không có vẻ buồn quan tâm.

Jace choáng váng khi thấy Valentine chạm vào mặt Sebastian, một biểu cảm trìu mến, thoáng qua nhưng không thể lẫn đi đau được, trước khi quay đi và tiến về phía cuối động, nơi bóng tối bao phủ. Ông ta dừng lại tại đó, trông như một bóng người trắng xanh đối nghịch với bóng tối. “Jonathan”, ông ta gọi lại. “Rồi có ngày con sẽ là gương mặt của Thiên Thần. Sau cùng, con sẽ thừa hưởng những Bảo Bối Thiên Thần sau khi ta qua đời. Có lẽ, rồi sẽ có một ngày, chính con sẽ triệu hồi Raziel”.

“Con thích thế”, Sebastian nói, và đứng nghiêm trang trong khi Valentine, với cái gật đầu cuối cùng, biến mất trong bóng tối. Giọng Sebastian hạ xuống còn tiếng thì thầm. “Mình rất thích”, hắn gầm ghè. “Ta sẽ nhổ vào gương mặt thằng khốn đó”. Hắn quay phắt lại, gương mặt như một tấm mặt nạ trắng trong ánh sáng mờ mờ. “Mày ra ngoài được rồi đó, Jace”, hắn nói. “Tao biết mày ở đó”.

Jace sững người – nhưng chỉ một giây. Cơ thể anh di chuyển trước khi khối óc kịp điều khiển. Anh chạy tới cửa lối vào, chỉ nghĩ tới việc chạy ra ngoài, làm cách nào đó, báo tin cho chú Luke.

Nhưng lối vào bị chặn. Sebastian đứng đó, lạnh lùng và hả hê, tay duỗi, những ngón tay gần như chạm vào tường đường hầm. “Thật sao”, hắn nói, “mày nghĩ mày nhanh hơn tao sao?”

Jace dựng khựng lại. Trái tim anh đập thình thịch, như một cái máy đếm nhịp bị hỏng, nhưng giọng nói rất kiên định. “Vì tao giỏi hơn mày trong mọi hướng có thể tưởng tượng ra, tao có cơ sở”.

Sebastian chỉ mỉm cười. “Tao có thể nghe thấy tiếng tim mày”, hắn nhẹ nhàng nói. “Khi mày ngồi đó quan sát tao và Valentine. Mày có thấy buồn không?”

“Vậy là mày đang hẹn hò với bố tao?” Jace nhún vai. “Mày hơi quá trẻ, thật đấy”.

“Cái gì?” Kể từ lần đầu gặp Sebastian, giờ Jace mới thấy hắn sửng sốt. Jace có thể thưởng thức nó chỉ có một khoảnh khắc, ngay trước khi sự bình tĩnh trở lại với Sebastian. Nhưng có ánh nhìn đem tối lấp lánh trong đôi mắt hắn ám chỉ hắn sẽ không tha thứ vì Jace đã khiến hắn mất bình tĩnh. “Đôi lúc tao cũng nghĩ về mày”, Sebastian tiếp tục, vẫn bằng cái giọng nhẹ nhàng như cũ. “Đôi lúc, tao nghĩ có cái gì về mày, về cái gì đó đằng sau đôi mắt vàng của mày. Một chút thông minh, không giống cái gia đình ngu ngốc đã nhận nuôi mày. Nhưng tao đoán đó chỉ là mày làm bộ, một thái độ mà thôi. Mày cũng đần độn hệt như chúng, dù cho mày được hưởng mười năm giáo dục đàng hoàng”.

“Mày thì biết gì về giáo dục của tao chứ?”

“Nhiều hơn mày nghĩ đó”. Sebastian hạ tay. “Cái người đàn ông nuôi dạy mày, đã nuôi nấng tao. Chỉ là ông ta không bỏ tao sau mười năm đầu đời”.

“Ý mày là sao?” Giọng Jace nhỏ lại thành tiếng thì thầm, và rồi khi anh nhìn vào gương mặt vô hồn, không mỉm cười của Sebastian, anh như thấy cậu con trai kia lần đầu tiên – mái tóc trắng, đôi mắt đen thăm thẳm, những nét tàn nhẫn trên gương mặt, như một thứ được tạc ra từ đá – và anh thấy gương mặt của bố mà thiên thần đã cho anh xem, một gương mặt trẻ trung, sắc sảo, đói khát và đáng sợ, và anh đã biết. “Mày”, anh nói. “Valentine là bố mày. Mày là người anh em của tao”.

Nhưng Sebastian không còn đứng trước mặt anh nữa; đột nhiên hắn ở đằng sau, và tay đặt lên vai Jace như muốn ôm anh, nhưng bóp mạnh. “Xin chào và tạm biệt, cậu em yêu quý”, hắn quát và rồi cánh tay hắn gồng cứng, chẹn họng Jace.

Clary đã kiệt sức. Một cảm giác đầu ong ong, giật giật, hậu quả của việc vẽ chữ rune đồng hành, thường trực ở thùy não trước. Cô có cảm giác như có người cố đá sập cửa từ sai hướng.

“Con ổn không?” Jocelyn đặt tay lên vai Clary. “Con trông có vẻ không khỏe”.

Clary nhìn xuống – và thấy chữ rune đen lằng nhằng như mạng nhện trên mu bàn tay mẹ, một chữ rune sinh đôi với chữ rune trong lòng bàn tay chú Luke. Bụng cô quặn lại. Cô đang cố đối diện với sự thực rằng chỉ vài giờ nữa mẹ cố có thể chiến đấu cùng đoàn quân quỷ dữ – nhưng chỉ có thể đẩy ý nghĩ đó xuống mỗi khi nó nổi lên mà thôi.

“Con chỉ đang tự hỏi xem Simon đang ở đâu”. Clary đứng dậy. “Con sẽ đi tìm cậu ấy”.

“Dưới đó hả?” Jocelyn lo lắng nhìn xuống đám đông. Clary nhận thấy, giờ Sảnh đã thoáng hơn nhiều khi những người được vẽ Ấn Ký xong xuôi rời khỏi cửa trước, tiến vào quảng trường bên dưới. Malachi đứng cạnh cửa, khuôn mặt màu nâu đồng không biểu cảm khi hướng dẫn cư dân Thế Giới Ngầm và Thợ Săn Bóng Tối phải đi đâu.

“Con ổn thôi mà mẹ”, Clary đi qua mẹ và chú Luke để xuống những bậc thang bên dưới. “Con sẽ trở lại ngay”.

Mọi người quay ra nhìn khi cô đi xuống và chui vào đám đông. Cô có thể cảm nhận thấy ánh mắt của họ trên cô, sức nặng của những cái nhìn đó. Cô nhìn khắp lượt, tìm nhà Lightwood hay Simon, nhưng chẳng thấy ai cô quen biết – và cũng khó mà nhìn thấy gì qua đám đông này khi chiều cao của cô có hạn. Với một tiếng thở dài, Clary đi về phía cánh cửa phía tây Sảnh, nơi ít người hơn.

Giây phút cô tới gần hàng cột đá cẩm thạch, một bàn tay thò ra và lôi cô đi. Clary chỉ kịp há hốc mồm ngạc nhiên, và rồi cô đứng trong bóng tối đằng sau cây cột lớn nhất, lưng dựa vào bức tường đá cẩm thạch mát lạnh, Simon nắm lấy tay cô. “Đừng hét, nhé? Mình đây mà”, cậu nói.

“Tất nhiên mình không định hét. Đừng lố bịch chứ”. Clary nhìn xung quanh, tự hỏi chuyện gì đang xảy ra – cô chỉ thấy vào khoảng Sảnh rộng rãi hơn qua những hàng cột. “Nhưng vụ điệp viên James Bond này là sao đây? Mình đang đi tìm cậu đó”.

“Mình biết. Mình đang đợi cậu đi xuống. Mình muốn nói chuyện với cậu ở nơi không có ai nghe”. Cậu lo lắng liếm môi. “Mình đã nghe được điều Raphael nói. Điều anh ta muốn”.

“Ôi, Simon”. Vai Clary cùng xuống. “Nghe này, không có chuyện gì đâu. Chú Luke đuổi anh ta đi rồi-”

“Có lẽ chú không nên làm vậy”, Simon nói. “Có lẽ chú nên để Raphael có thứ anh ta muốn”.

Cô chớp mắt. “Ý cậu là cậu ấy hả? Đừng ngu ngốc chứ. Không bao giờ-”

“Có chứ”. Cậu bóp tay cô mạnh hơn. “Mình muốn làm điều đó. Mình muốn chú Luke nói với Raphael rằng thỏa thuận được chấp nhận. Hoặc không mình sẽ tự nói”.

“Mình biết cậu đang làm gì”, Clary phản đối. “Và mình tôn trọng và ngưỡng mộ cậu, nhưng cậu không cần làm, Simon, không cần đâu. Điều Raphael muốn là sai trái, và không ai phán xét cậu vì không hiến mạng vì một trận chiến không phải của cậu-”

“Nhưng có đó”, Simon nói. “Điều Raphael nói đúng. Mình là một ma cà rồng, và cậu toàn quên mất điều đó. Hay có lẽ chỉ vì cậu muốn quên. Nhưng mình là một cư dân Thế Giới Ngầm còn cậu là Thợ Săn Bóng Tối, và trận chiến này là của cả hai chúng ta”.

“Nhưng cậu không giống họ-”

“Mình là một trong số họ”. Cậu nói chậm rãi, rành mạch, như muốn hoàn toàn chắc chắn cô sẽ hiểu từng chữ cậu đang nói. “Và mình sẽ luôn là thế. Nếu Thế Giới Ngầm tham chiến cùng Thợ Săn Bóng Tối mà không có sự tham gia của những ma cà rồng, vậy thì cũng chẳng có vị trí trong Hội Đồng dành cho những Đứa Con của Màn Đêm. Họ sẽ không thuộc về thế giới mà chú Luke đang cố gây dựng, một thế giới nơi Thợ Săn Bóng Tối và cư dân Thế Giới Ngầm làm việc cùng nhau. Ở cùng nhau. Những ma cà rồng sẽ bị cấm cửa vào đó. Họ sẽ là kẻ thù của Thợ Săn Bóng Tối. Mình sẽ là kẻ thù của cậu”.

“Mình sẽ không bao giờ là kẻ thù của cậu”.

“Điều đó sẽ giết chết mình”, Simon nói đơn giản. “Nhưng mình không thể cứ đứng sang một bên mà giả bộ mình chẳng có liên quan được. Và mình không xin cậu đồng ý. Mình cần cậu giúp. Nhưng nếu cậu không giúp, mình sẽ nhờ Maia đưa mình tới trại ma cà rồng, và mình sẽ nộp mình cho Raphael. Cậu hiểu không?”

Cô nhìn cậu bạn một hồi lâu. Cậu đang cầm chặt tay cô tới nỗi cô có thể cảm thấy máu đang đập trong da dưới cánh tay. Cô liếm đôi môi khô khốc; miệng cô đắng nghét. “Mình có thể làm gì”, cô thì thào, “để giúp cậu?”

Cô ngờ vực ngước nhìn trong khi Simon nói. Cô lắc đầu trước khi cậu nói xong, mái tóc xòa xuống, gần thư che mắt. “Không”, cô nói, “ý tưởng điên rồ quá, Simon. Đó không phải một món quà; đó là một hình phạt-”

“Có lẽ không phải dành cho mình”, Simon nói. Cậu liếc nhìn đám đông và Clary thấy Maia đang đứng đó, vô cùng tò mò quan sát họ. Cô nàng rõ ràng đang đợi Simon. Quá nhanh, Clary nghĩ. Mọi chuyện diễn biến quá nhanh.

“Đây là biện pháp tốt nhất, Clary”.

“Không-”

“Nó sẽ không làm mình tổn thương đâu. Ý mình là mình đã bị trừng phạt rồi, đúng không? Mình không thể vào nhà thờ, giáo đường, mình không thể nói – mình không thể gọi tên các Thánh, mình không lớn lên, mình bị đuổi khỏi cuộc sống bình thường. Có lẽ điều này chẳng thay đổi cái gì hết”.

“Nhưng có thể có đó”.

Cậu thả tay Clary, ôm lấy em và rút thanh stele của chú Patrick khỏi thắt lưng bạn. Cậu giơ ra cho cô. “Clary” cậu nói. “Hãy làm điều này vì mình. Làm ơn”.

Cô cầm lấy thanh stele bằng những ngón tay cứng đờ và giơ lên, chạm vào đầu mũi và da Simon, ngay phía trên mắt. Ấn Ký đầu tiên, Magnus đã nói vậy. Ấn Ký khởi thủy. Cô nghĩ tới nó, và thanh stele bắt đầu di chuyển theo cách một vũ công bắt đầu chuyển động khi nhạc bắt đầu. Những đường màu đen chạy dọc trên trán cậu như một đóa hoa nở rộ trong một thước phim quay nhanh. Khi cô làm xong, cô biết cô đã vẽ ra cái gì đó hoàn hảo, lạ lùng và cổ xưa, một cái gì đó có từ thời ban nguyên của lịch sử. Nó tỏa sáng như một ngôi sao ngay trên đôi mắt của Simon khi cậu chạm những ngón tay qua trán, hơi choáng váng và bối rối.

“Mình cảm nhận được nó”, cậu nói. “Như một vết bỏng vậy”.

“Mình không biết mọi chuyện sẽ ra sao”, cô thì thào. “Mình không biết hiệu quả lâu dài của nó là gì”. Với một nụ cười nửa miệng xấu xí, cậu giơ tay chạm vào má cô. “Mong rằng chúng ta có cơ hội để biết”.

Bình luận