Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật 101 – Mọi Điều Bạn Cần Biết Về Pháp Luật Hoa Kỳ

Phần 6: Khi Nào Một Thỏa Thuận Thực Sự Được Coi Là Thỏa Thuận?

Tác giả: Jay M. Feinman

Doanh nghiệp, Khách hàng và Luật hợp đồng

Trong tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim The Paper Chase (Kiểm tra bài tập về nhà), vị giáo sư Kingsfield lạnh lùng và đáng sợ là hình ảnh biếm họa của một giảng viên luật người vừa biết khích lệ vừa biết khủng bố tinh thần sinh viên. Không phải vô tình mà Kingsfield được phác họa qua hình ảnh của một giảng viên luật hợp đồng. Luật hợp đồng cần phải đơn giản một thỏa thuận chẳng qua chỉ là một thỏa thuận nhưng vẫn thường được xem là môn học thách thức nhất đối với các sinh viên năm thứ nhất, một môn học làm phần lớn sinh viên khốn khổ. Và không khó để thấy lý do của điều đó.

Luật hợp đồng là gì?

Luật hợp đồng đề cập đến tất cả các khía cạnh của việc hứa hẹn, giữ lời và không giữ lời. Mà con người thì đưa ra những lời hứa hay những sự chấp thuận quanh năm ngày tháng. Dana mời Brian đến nhà dùng bữa vào tối thứ bảy; anh chàng hứa hẹn sẽ đến và sẽ mang theo cả rượu vang. Một khách hàng đồng ý nhận các loại thư quảng cáo thẻ Visa khi ký vào mẫu có các điều khoản in sẵn ở mặt sau. Một công nhân nhận làm một công việc, có thể có hoặc không có một hợp đồng lao động bằng văn bản. Một công ty xây dựng nhận thầu xây dựng một tòa nhà văn phòng lớn với một công ty đầu tư bất động sản.

Những lời hứa hẹn hay đồng ý này, và hàng triệu những hứa hẹn hay đồng ý khác mà con người đưa ra hàng ngày, có muôn vàn những sự khác biệt. Đồng ý đến ăn tối khác hẳn với đồng ý xây một tòa nhà văn phòng lớn. Và việc đồng ý đến ăn tối vào một buổi tối thứ bảy thông thường cũng khác hẳn với đồng ý đi dự một bữa tiệc cuối năm duy nhất trong đời dành cho học sinh trung học. Nhận làm việc bán thời gian để đi đưa bánh mì kẹp tại một cửa hàng McDonald’s khác hẳn với việc ký một hợp đồng lao động để trở thành chủ tịch của hãng McDonald’s. Luật hợp đồng đề cập đến tất cả các sự việc này, bất kể những sự khác biệt đó. Nếu Brian thất hứa với Dana, liệu cô ấy có thể kiện để đòi lại số tiền cô ấy đã dùng để mua đồ ăn và chiếc váy mới? Liệu những khách hàng sử dụng thẻ Visa có phải chấp nhận tất cả các điều khoản mà anh ta không hề đọc và không hề hiểu? Nếu việc xây tòa nhà kéo dài quá nhiều tháng và làm phát sinh quá nhiều chi phí so với dự kiến, ai sẽ phải chịu trách nhiệm, công ty xây dựng hay công ty bất động sản? Luật hợp đồng sẽ có câu trả lời, hay chí ít cũng là công cụ mà nhờ nó người ta có thể tranh luận để tìm ra câu trả lời.

Luật hợp đồng điều chỉnh các loại thỏa thuận khác nhau không phụ thuộc vào việc ai là người thỏa thuận, hay vấn đề được thỏa thuận là gì. Tuy nhiên, có một số loại thỏa thuận không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hợp đồng. Chẳng hạn, luật hợp đồng điều chỉnh hợp đồng lao động giữa chủ tịch công ty Ford với công ty, nhưng các quy định chuyên ngành khác, được gọi là luật lao động, lại điều chỉnh các thỏa thuận tập thể giữa công ty Ford và Liên hiệp công nhân ngành ô tô, Liên hiệp đại diện cho các công nhân của công ty Ford. Thỏa thuận giữa các đối tác trong một hãng luật là hợp đồng, nhưng nó được điều chỉnh bởi luật về công ty hợp danh chứ không phải luật hợp đồng nói chung. Các nguyên tắc cũng như quy định của luật hợp đồng thiết lập nền tảng cho luật lao động và luật về hợp danh, nhưng trong mỗi lĩnh vực nó lại được thay đổi để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh trong lĩnh vực chuyên ngành. Theo cách tiếp cận này thì luật hợp đồng là phần còn lại tức là nó điều chỉnh những loại thỏa thuận còn lại khi mà một số loại hợp đồng nhất định đã được điều chỉnh bởi các lĩnh vực luật khác và đi sâu vào chuyên ngành hơn.

Sự tập trung của luật hợp đồng vào những sự hứa hẹn hay đồng ý giúp phân biệt nó với hai lĩnh vực khác của luật tư: luật tài sản và luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn. Sự hứa hẹn hay đồng ý hướng đến tương lai tối thứ bảy hay ngày mà công trình của tòa nhà văn phòng hình thành sau thời gian vài năm. Luật hợp đồng, vì vậy, liên quan đến cái sẽ có. Khi một người đưa ra lời hứa rồi lại không giữ lời, luật hợp đồng sẽ bắt người đó phải trả giá bởi người đó đã không mang lại cái trạng thái tương lai mà lời hứa đã ràng buộc là người đó phải mang lại. Luật tài sản, trái lại, điều chỉnh những gì đang có. Khi một kẻ đột nhập vào bất động sản của ai đó mà không được phép, kẻ đột nhập đó sẽ bị buộc tội can thiệp vào một trạng thái hiện tại đó là quyền của chủ tài sản được sử dụng tài sản của mình và không cho phép người khác sử dụng nó. Luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn xem xét cái đã có đó là trạng thái trong quá khứ của một thứ trước khi nó bị gây hại. Một người lái xe bất cẩn làm bị thương một khách qua đường phải chịu trách nhiệm vì đã làm cho tình trạng của người qua đường đó tồi tệ đi so với trước đó do đã lấy đi của người qua đường cái mà trước đó anh ta có, chẳng hạn như sức khỏe, hay khả năng kiếm tiền.

Vì sao chúng ta cần luật hợp đồng

Từ góc độ của luật sư, hợp đồng là cơ chế mà nhờ đó xã hội vận hành và luật hợp đồng được coi như một loại dầu nhờn để làm cho cơ chế đó vận hành tốt hơn. Trong một nền kinh tế thị trường, công việc được thực hiện, hàng hóa được phân phối và việc chuyên môn hóa quá trình lao động và sản xuất được điều phối thông qua các hợp đồng. Mọi người muốn có phương tiện giao thông, và hãng Ford đáp ứng điều đó bằng việc cung cấp loại xe thể thao đa dụng (SUV) cỡ lớn và xe ô tô giá rẻ. Nếu loại ô tô đó hấp dẫn đối với công chúng và giá cả lại phải chăng, mọi người sẽ ký hợp đồng để mua nó. Hãng Ford sẽ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng bằng cách thuê nhân công, mua thép nguyên liệu và lốp thành phẩm, quảng cáo ô tô trên truyền hình, nhượng quyền cho các nhà phân phối ở địa phương bán xe của họ, và như vậy, họ ký kết hàng ngàn các hợp đồng. Hệ thống sản xuất và phân phối phức tạp này không hoạt động theo mệnh lệnh của Ủy ban Sản xuất ô tô Trung ương như ở Liên Xô trước đây mà được tổ chức thông qua sự tương tác giữa các hợp đồng khác nhau.

Các hợp đồng này mang lại lợi ích cho những người giao kết. hãng Ford mong muốn có lãi, các công nhân được trả lương, công ty Goodyear bán được lốp xe cho Ford và thu lời còn người mua thì có được chiếc xe hữu dụng với một mức giá hấp dẫn. Lý thuyết kinh tế học khẳng định rằng tất cả mọi người đều có lợi khi tham gia vào cơ chế thị trường thực hiện bằng các hợp đồng bởi mọi người sẽ nhận được cái họ mong muốn và các nguồn lực thì được sử dụng một cách hữu hiệu nhất. Nếu những người lái xe muốn có chiếc xe tiết kiệm xăng và đỗ xe dễ dàng, Ford sẽ sản xuất và bán nhiều hơn xe hơi loại nhỏ tiết kiệm nhiên liệu; nếu họ muốn những chiếc xe ngốn xăng hơn, Ford sẽ cung cấp những chiếc SUV. Nếu Ford dự đoán sai về nhu cầu của khách hàng, hãng Toyota sẽ lấy mất thị phần của họ. Tất cả những hiệu ứng kinh tế này sẽ phát sinh thông qua điều phối sự lựa chọn của các cá nhân bằng con đường hợp đồng.

Quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng không chỉ mang lại các sản phẩm. Mọi người có thể thực hiện ao ước của họ và đạt được điều họ muốn trong cuộc sống thông qua những thỏa thuận được thực hiện. Đi học đại học, lựa chọn công việc này thay vì một công việc khác, xây một ngôi nhà, sưu tầm nghệ thuật cũng như tham gia vào câu lạc bộ sức khỏe đều được thực hiện thông qua các hợp đồng. Nhìn chung, quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng nói về quyền tự do và tự quyết của một cá nhân. Theo quan điểm này, trong xã hội dân chủ và cởi mở như nước Mỹ, các cá nhân được tự do tới mức nào là do họ lựa chọn.

Hợp đồng, do vậy, xác định ý của chúng ta khi đề cập đến một xã hội dựa vào thị trường và các lựa chọn cá nhân. Luật hợp đồng, khi giúp cho xã hội kiểu này trở thành hiện thực, có hai chức năng đặc biệt. Nó cung cấp cơ chế giải quyết tranh chấp cho sự trao đổi mua bán, và nó chứng minh cam kết của xã hội trong việc đảm bảo quyền tự do và quyền tự quyết của cá nhân.

Nếu việc thực hiện hợp đồng có thể xảy ra ngay tại thời điểm hai bên ký kết hợp đồng, luật hợp đồng có thể là không cần thiết. Tuy nhiên, việc thực hiện đồng thời là rất hiếm. Một hợp đồng mua nhà sẽ phải mất vài tuần hoặc vài tháng trước khi vụ mua bán hoàn tất để người mua đủ thời gian nhận được khoản vay thế chấp và để người bán có thể dọn đi. Như vậy, luật hợp đồng cung cấp giải pháp an toàn về pháp lý cho việc trao đổi dự kiến sẽ thực hiện trong tương lai. Trong khoảng thời gian giữa thời điểm ký kết và hành động cuối cùng thực hiện hợp đồng, có thể sẽ có những phát sinh làm ảnh hưởng đến quan hệ này. Người mua có thể sẽ tìm được ngôi nhà tốt hơn, thay đổi sở thích, hoặc không thể thu xếp được khoản vay cầm cố. Bằng việc cung cấp một cơ chế đảm bảo thực hiện hợp đồng dự kiến sẽ được thực hiện trong tương lai, luật hợp đồng đảm bảo cho các bên tham gia hợp đồng có thể đưa ra các kế hoạch hoặc dự kiến đầu tư dựa vào những gì người khác đã hứa hẹn với họ. Người bán nhà có thể sửa soạn cho việc chuyển đi, ý thức được rằng luật hợp đồng sẽ ngăn cản người mua đổi ý và cho phép người bán sử dụng những biện pháp pháp lý nhất định nếu người mua có ý định không thực hiện hợp đồng.

Luật hợp đồng cũng cung cấp cơ chế giải quyết vấn đề nảy sinh trong quá trình hoặc sau khi thực hiện hợp đồng. Người bán nhà và mua nhà có thể không thỏa thuận trong hợp đồng về việc xử lý như thế nào khi ngôi nhà bị cháy trước khi vụ mua bán hoàn tất, nhưng luật sẽ giải quyết một khi điều đó xảy ra.

Khi luật hợp đồng thể hiện vai trò bằng những chức năng này, các luật sư cũng lại có xu hướng đề cao thái quá tầm quan trọng của nó. Luật hợp đồng quan trọng các bên tham gia hợp đồng hỏi ý kiến các luật sư để được trợ giúp về mặt pháp lý khi lên kế hoạch cũng như soạn thảo hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào toàn cảnh các quan hệ hợp đồng trong xã hội, chúng ta sẽ thấy luật hợp đồng chỉ là phần nhỏ của bức tranh.

Phần lớn các hợp đồng được thương lượng và thực hiện mà chẳng phát sinh bất kỳ rắc rối nào. Các sinh viên luật được đào tạo để nhìn tất cả các cuộc mua bán như thể một thảm họa tiềm tàng, và điều đó khiến cho các luật sư thường không nhìn thấy rằng mọi việc thường tự nó vận hành tốt. Chẳng hạn như trong hàng triệu hợp đồng mà Ford, các nhà cung cấp và các nhà phân phối của họ ký mỗi năm, chỉ có một lượng rất nhỏ phát sinh rắc rối. Goodyear gần như lúc nào cũng giao lốp xe đúng hạn và chất lượng đúng như thỏa thuận, những người mua ô tô thì cũng mua xe từ các nhà phân phối mà không có vấn đề phát sinh. Trong một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên các thỏa thuận tư, hầu như mọi thứ đều phải vận hành trơn tru, nếu không thì toàn bộ nền kinh tế sẽ tan rã. Rất may là mọi thứ đều diễn ra khá suôn sẻ, và vì vậy luật hợp đồng chỉ phải can thiệp trong một số tương đối ít các trường hợp.

Thậm chí ngay cả khi có rắc rối phát sinh đối với một hợp đồng thì luật hợp đồng cũng chỉ là phương cách cuối cùng. Khi có tranh chấp giữa Ford và một trong số các nhà cung cấp của hãng, chẳng ai trong số họ tìm đến luật sư ngay cả. Thay vào đó, người phụ trách mua sắm của Ford và giám đốc bán hàng của nhà cung cấp đó sẽ gọi cho nhau và tìm cách giải quyết vấn đề. Nhà cung cấp muốn giữ gìn danh tiếng của mình cũng như viễn cảnh bán được hàng lâu dài cho Ford, và Ford thì muốn toàn bộ dây chuyền lắp ráp phải được duy trì trôi chảy, vì vậy mà một trong hai bên hoặc cả hai sẽ rất sẵn lòng nhượng bộ để giải quyết rắc rối. Người ta ký kết các hợp đồng để giải quyết công việc, chứ không phải để xác định các quyền pháp lý của mình khi có hành vi vi phạm. Nếu có vấn đề phát sinh thì việc thuyết phục bên tham gia ký hợp đồng, kêu gọi những hành vi ứng xử theo đúng chuẩn mực, hay đe dọa dùng các biện pháp trừng phạt về kinh tế sẽ là những biện pháp được ưa thích hơn nhiều so với việc gọi luật sư và tham gia vào quá trình kiện tụng tốn kém. Quy mô tranh chấp cũng khiến người ta cân nhắc đến chuyện có kiện cáo hay không. Một người chủ nhà không hài lòng với người thợ sửa ống nước đến thay vòi nước có thể phàn nàn với chính người thợ đó hoặc với Văn phòng tiếp nhận khiếu nại của khách hàng chứ ít khi trả cả trăm đô-la cho các chi phí ra tòa chỉ để làm cho việc sửa ống nước được tốt hơn.

Chức năng thứ hai và trừu tượng hơn của luật hợp đồng, đó là đề cao quyền tự do và tự định đoạt của cá nhân. Luật hợp đồng là minh chứng cho sự tôn trọng của luật đối với các giá trị đó thông qua việc đảm bảo thực thi các thỏa thuận đã được giao kết và thông qua việc áp đặt các nghĩa vụ đối với con người chỉ khi và ở mức độ mà người ta đã có thỏa thuận chấp nhận các nghĩa vụ đó. Đó là điều mà chúng ta gọi là tự do hợp đồng. Tự do hợp đồng bao gồm quyền tự do được hợp đồng và quyền tự do không hợp đồng. Quyền tự do được hợp đồng là khả năng tham gia vào bất kỳ hợp đồng nào mà bạn muốn. Về mặt lý thuyết, khả năng tham gia vào các hợp đồng không bị hạn chế bởi luật hợp đồng. Còn quyền tự do không hợp đồng là khả năng không tham gia vào bất kỳ hợp đồng nào trừ khi bạn muốn. Nếu bạn không muốn mua chiếc xe Focus, hãng Ford không thể nào kiện ra tòa để yêu cầu bạn làm điều này.

Trong suốt hơn một thế kỷ, quyền tự do hợp đồng đã vừa là trung tâm của các nguyên tắc của luật hợp đồng vừa là trung tâm của lời kêu gọi dựa trên triết lý về chủ nghĩa cá nhân trong tổ chức xã hội. Tuy nhiên, quyền tự do hợp đồng cũng nằm trong số những thứ có tính chất khẩu hiệu to tát nhất của pháp luật và chính trị, ở đó người ta nắm bắt ý tưởng bằng việc bỏ qua những sự tinh tế mà việc thực thi ý tưởng đòi hỏi. Thực tế là quyền tự do hợp đồng phản ánh một khía cạnh quan trọng của sự lựa chọn hay là ưng thuận với ý nghĩa là cơ sở của luật hợp đồng, nhưng nếu nguyên tắc này không được áp dụng một cách thận trọng có thể gây nhầm lẫn.

Để nhìn nhận khía cạnh tinh tế cũng như điểm yếu của quyền tự do hợp đồng, chúng ta hãy xem xét một vụ việc điển hình, vụ Hurley kiện Eddingfield được Tòa án Tối cao bang Indiana xét xử vào năm 1901. George Eddingfield, một bác sĩ ở thị trấn Mace nhỏ bé và là bác sĩ riêng của gia đình Charlotte Burk, đã khám cho Burk trong suốt quá trình cô mang thai. Khi Burk trở dạ, cô cảm thấy tình trạng của mình rất tồi tệ. Gia đình cô báo cho Eddingfield, nhưng ông từ chối đến. Một người đưa tin đã đến gặp Eddingfield nhiều lần, thông báo rằng Burk và đứa con trong bụng cô đang trong tình trạng nguy hiểm và không có bác sĩ nào khác cả, đồng thời cũng hứa trả tiền cho ông. Tuy nhiên, Eddingfield vẫn từ chối mà “không đưa ra bất kỳ lý do hợp lý” nào theo nhận định của Tòa án. Burk và đứa con của cô đã chết do không được can thiệp kịp thời và gia đình cô khởi kiện bác sĩ Eddingfield.

Tòa án tối cao bang Indiana cho rằng Eddingfield, với tư cách là một bác sĩ được cấp phép, không có nghĩa vụ phải đến để cứu chữa cho Burk. Tòa án thậm chí cũng không xét đến việc Eddingfield, với tư cách là bác sĩ gia đình của Burk, có trách nhiệm theo luật hợp đồng để đến cứu chữa cho bệnh nhân của mình. Nguyên tắc tự do không hợp đồng được áp dụng trực tiếp trong trường hợp này. Với lý do luật hợp đồng dựa trên sự ưng thuận, không ai bị bắt buộc phải giao kết một hợp đồng mà người đó không mong muốn, thậm chí ngay cả khi đó là người bác sĩ duy nhất có thể có mặt để điều trị cho một bệnh nhân đang nguy kịch mà trước đó ông ta đã từng điều trị.

Vụ việc Hurley kiện Eddingfield thể hiện một số phức tạp trong áp dụng nguyên tắc tự do hợp đồng và trong ý tưởng về sự lựa chọn hay ưng thuận là cơ sở của luật hợp đồng. Trước hết, tự do không hợp đồng không phải là một nguyên tắc tuyệt đối. Do quan niệm của xã hội đã thay đổi so với năm 1901, giờ đây luật pháp liên bang đã có quy định yêu cầu các bệnh viện phải chữa chạy cho bệnh nhân trong một số trường hợp nhất định. Một số ngành luật khác cũng đòi hỏi mọi người phải tham gia vào một số hợp đồng cho dù họ muốn hay không, qua đó làm hạn chế nguyên tắc tự do không hợp đồng. Một ông chủ có thành kiến sẽ không muốn thuê một người da đen, người theo đạo Hồi hay phụ nữ làm việc, nhưng luật về quyền dân sự yêu cầu ông ta phải làm điều này. Một người lái xe phải tham gia hợp đồng với một công ty bảo hiểm để có được bảo hiểm ô tô bắt buộc một điều kiện để được lái xe.

Thứ hai, ngay cả khi quyền tự do hợp đồng được áp dụng thì quyền tự do được hợp đồng của một người cũng vẫn bị ảnh hưởng rất lớn bởi những tình huống thực tế trong hoàn cảnh của họ. Ví dụ như trong vụ Hurley, việc bệnh nhân lựa chọn bác sĩ bị chi phối bởi hệ thống cung cấp dịch vụ y tế. Vào đầu thế kỷ XX, các bác sĩ đã yêu cầu nghề của mình là nghề phải được cấp phép, hạn chế triệt để sự tham gia vào lĩnh vực nghề nghiệp này và tham gia vào một chiến dịch loại trừ các hình thức hành nghề y tế khác. Tất cả những điều này đã khiến cho Burk không có chỗ chăm sóc y tế nào khác ngoại trừ một bác sĩ duy nhất trong một thị trấn nhỏ của bang Indiana. Sự lựa chọn của gia đình cô đã có thể khác đi nếu như có nhiều bác sĩ hơn hoặc nếu việc chăm sóc y tế được xem như một dịch vụ công cộng mà mọi người đều có thể được sử dụng thông qua chương trình của Chính phủ.

Chúng ta cũng có thể nhìn thấy những ảnh hưởng tương tự trong các tình huống hiện nay. Quảng cáo định hình sở thích của người tiêu dùng. Nhiều cộng đồng không có đủ phương tiện giao thông công cộng khiến mọi người bắt buộc phải mua xe. Khi suy thoái kinh tế, người công nhân thường phải chấp nhận bất kỳ công việc nào họ có được với bất kỳ điều kiện nào. Do vậy, quyền tự do hợp đồng lý tưởng luôn bị đặt vào thực tế phải đối mặt với nền tảng xã hội cũng như những khó khăn về kinh tế. Pháp luật, khi định hình mức độ phát triển của quyền tự do hợp đồng, phải xác định xem nền tảng đó cần được cân nhắc ở mức độ nào.

Thứ ba, luật hợp đồng chỉ là một phần của sự lựa chọn. Giả sử chúng ta lấy lý do rằng Eddingfield đã nhiều lần chữa trị cho Burk và gia đình cô, trong một thời gian dài họ đã coi nhau như là “bác sĩ của tôi” và “bệnh nhân của tôi”, và như vậy, chúng ta suy ra rằng ở đây có mối liên hệ giữa người bác sĩ gia đình với bệnh nhân. Liệu chúng ta có thể suy luận là Eddingfield đã đồng ý sẽ đến khi cần cấp cứu? Theo cách này, chúng ta đang đi xa dần sự ưng thuận với tư cách là cơ sở của hợp đồng. Các bên trong hợp đồng có thể bị ràng buộc bởi các điều khoản nhất định cung cấp dịch vụ trong tình huống khẩn cấp thậm chí ngay cả khi họ không thực sự đồng ý với nó hoặc không nghĩ đến điều đó. Chúng ta có thể nói rằng bệnh nhân có quyền trông đợi bác sĩ của cô phải đến chữa cho cô trong tình huống cấp cứu theo các điều khoản thông thường trong mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Và nếu như vậy thì cơ sở của trách nhiệm hợp đồng đang bảo vệ mong muốn của bệnh nhân xuất phát từ mối quan hệ với bác sĩ gia đình hơn là ý định của con người đằng sau quan hệ đó. Nhưng chính điều này cũng không hoàn toàn đúng. Eddingfield có thể đã không có ý định cung cấp dịch vụ cấp cứu, nhưng chính Burk có thể cũng đã không tính trước đến điều này. Trong trường hợp đó, sự trông đợi thực sự về việc cần được bảo vệ là không có. Mặc dù vậy, khi xuất hiện tình huống khẩn cấp, chúng ta vẫn có thể yêu cầu bác sĩ phải chịu trách nhiệm vì đã không có hành động cứu chữa. Cơ sở của trách nhiệm khi đó dựa trên nhận thức của chúng ta về chính mối quan hệ. Và rời xa hơn một chút nữa sự ưng thuận, nhận thức của chúng ta về việc những nghĩa vụ đó là gì không phải được thu nhận từ những khảo sát thực tế đơn giản về việc các bác sĩ và bệnh nhân nghĩ gì và họ thường hành động như thế nào. Mỗi chúng ta vẫn cho rằng cái mà chúng ta cho là câu trả lời phải dựa trên những bằng chứng về mối quan hệ điển hình giữa bác sĩ với bệnh nhân, kinh nghiệm đi bác sĩ của chính chúng ta và ý thức của chúng ta về trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với những người khác.

Quyết định như vậy về phạm vi của trách nhiệm pháp lý trong vụ việc giống như trường hợp Hurley kiện Eddingfield, cũng như trong các vụ việc về hợp đồng khác, là một loại quyết định về việc coi chính sách xã hội nào là tốt nhất. Sự ưng thuận của các bên không có tính chất quyết định đối với quyền tự do được hợp đồng và tự do không hợp đồng. Hệ thống pháp luật cần phải đưa ra quyết định này. Khi một tòa án cho rằng một bác sĩ phải hay không phải chăm sóc cho bệnh nhân trong tình huống cấp cứu, tòa án đang hành xử giống như cơ quan lập pháp đưa ra quy định, chẳng hạn như về việc người lái xe ô tô phải có bảo hiểm hoặc một ông chủ không được có hành vi phân biệt chủng tộc. Mỗi một quyết định này đều dựa trên việc đánh giá xem điều gì là tốt nhất cho lợi ích chung của xã hội. Do vậy, lựa chọn trong vấn đề hợp đồng luôn có sự đối kháng với các bối cảnh cụ thể của việc hoạch định chính sách pháp lý.

Bạn giao kết một hợp đồng bằng cách nào?

Bạn có thể giao kết một hợp đồng gần như là bằng bất kỳ cách nào bạn muốn.

Các nguyên tắc cơ bản của hợp đồng chi phối cái cần có để tạo ra một hợp đồng. Khi giả thiết một người đã đưa ra một lời hứa, chúng ta đi tìm xem liệu có thể coi đó là một người có suy nghĩ thích hợp khi lựa chọn cam kết thực hiện một hành vi trong tương lai. Hai yếu tố của một lời hứa có cam kết và thời gian là trong tương lai chính là chìa khóa cho việc giao kết hợp đồng và luật hợp đồng. Khi bạn hứa làm một điều gì đó tức là bạn nói rằng bạn thực sự sẽ thực hiện nó, chứ không phải bạn sẽ làm nó khi bạn cảm thấy thích làm tại thời điểm tương lai đó, hay bạn sẽ làm trừ khi bạn đổi ý.

Cách thích hợp nhất để xác định liệu có phải ai đó đã đưa ra lời hứa hay không là căn cứ vào ngôn từ cam kết. Khi có người nói: “Tôi hứa trả 5.000 đô-la cho chiếc xe của anh”, việc cho rằng người đó đã cam kết mua chiếc xe là hợp lý. Nhưng đó không phải là cách duy nhất để xác định một cam kết hợp đồng. Việc giao kết một hợp đồng có thể bằng những cách nói ngụ ý hoặc là không dùng lời nào cả. Tại một buổi bán đấu giá, người tổ chức đấu giá tuyên bố: “Chúng tôi có bức tranh Picasso tuyệt vời ở đây”. Và trong vô số những tình huống có thể là hài hước, nếu như bạn giơ tay của mình, gật đầu, hay gãi mũi, rất có thể bạn đã buộc mình phải trả 20 triệu đô-la cho bức tranh.

Khía cạnh này của pháp luật được gọi là luật về hình thức hợp đồng tức là một hợp đồng được hình thành theo cách nào. Có hai câu hỏi đối với hình thức hợp đồng: Chúng ta đang tìm kiếm cái gì? Chúng ta phải nhìn vào đâu để tìm thấy nó? Phát triển từ ý tưởng rằng luật hợp đồng nói về sự ưng thuận được thể hiện ra bên ngoài, chúng ta sẽ đi tìm xem liệu các bên đã bày tỏ sự ưng thuận tham gia vào hợp đồng hay chưa. Để xác định được điều đó, chúng ta phải nhìn vào các ngôn từ và hành vi của các bên.

Hãy xem xét một nhóm các sự việc minh họa cho một hợp đồng được hình thành một cách hoàn hảo. Một nhân viên làm việc theo một hợp đồng lao động sẽ hết hạn vào ngày 15 tháng 12. Đầu tháng 12, chủ tịch công ty đề nghị gia hạn hợp đồng cho nhân viên đó một năm nữa. Vị chủ tịch và người nhân viên đó cùng nhau thảo luận các chi tiết về trách nhiệm của người nhân viên, mức lương, chăm sóc y tế, nghỉ ngơi, nghỉ ốm và thể hiện tất cả những điều đó trong một văn bản viết khá dài. Trong một nghi lễ trịnh trọng, cả hai đã ký vào hợp đồng, bắt tay và nổ sâm-panh để đánh dấu sự tiếp tục mối quan hệ của họ.

Trong giả thiết này, cả hai câu hỏi về hình thức của hợp đồng đều được trả lời một cách dễ dàng. Bằng việc ký một văn bản viết có nhan đề “Hợp đồng lao động” có chứa các điều khoản mà chúng ta thường nhìn thấy trong những văn bản tương tự, vị chủ tịch và người nhân viên đã thể hiện rằng họ có ý định tham gia vào một mối quan hệ pháp lý mà người ta gọi là hợp đồng lao động; cái bắt tay giữa họ cũng như việc nâng ly sâm-panh, mặc dù không cần thiết, nhưng cũng thể hiện được ý muốn của họ. Văn bản thì rất chi tiết và cụ thể về các nội dung cần có của một hợp đồng; đó là một bằng chứng nữa về ý định của họ bởi những người viết ra các hợp đồng với độ dài như vậy thường có ý định để các điều khoản đó ràng buộc mình, và nó tạo cho tòa án căn cứ để tìm được các điều khoản của thỏa thuận trong trường hợp có tranh chấp phát sinh.

Giả thiết này minh họa cho một hợp đồng được hình thành một cách hoàn hảo bởi bằng chứng của ý định giao kết hợp đồng là rất thuyết phục cũng như thỏa thuận ban đầu là rất rõ ràng và đầy đủ. Và ở đây, hợp đồng đã được hình thành vào thời điểm cả hai bên ký vào văn bản, nhưng quá trình giao kết hợp đồng còn có những hình thức khác nữa. Thường thì hợp đồng được hình thành thông qua đề nghị hợp đồng và chấp nhận đề nghị, trong đó một bên khởi động quá trình giao kết và bên kia hoàn tất nó. Một lá thư viết rằng : “Tôi sẽ bán cho anh chiếc ô tô cũ với giá 1.500 đô-la” là một đề nghị giao kết mà bạn có thể chấp nhận nó bằng cách viết lại : “Tôi sẽ mua nó”.

Không may cho luật hợp đồng, các hợp đồng được hình thành một cách hoàn hảo rất ít có trên thực tế. Nhiều hợp đồng không được thể hiện với mức độ chính xác hay rõ ràng ở mức cần thiết. Hãy xem vụ kiện làm cơ sở để người ta xây dựng giả thiết trên đây, vụ Embry kiện McKittrick, Công ty hàng khô Hargadine (1907).

Embry là người phụ trách bộ phận mẫu của công ty hàng khô. Mặc dù hợp đồng làm việc của Embry kết thúc vào ngày 15 tháng 12, McKittrick, Chủ tịch công ty thường thoái thác mỗi khi anh ta tìm cách đề cập đến việc gia hạn hợp đồng. Cuối cùng, vào ngày 23 tháng 12, Embry đến gặp McKittrick và tuyên bố anh sẽ đi ngay trừ khi họ thỏa thuận gia hạn hợp đồng thêm một năm nữa. McKittrick hỏi Embry là phòng anh ta đang hoạt động thế nào, và Embry trả lời họ đang rất bận vì bây giờ là mùa cao điểm trong năm, các nhân viên bán hàng phải đi ra ngoài gặp gỡ các khách hàng. Khi đó McKittrick trả lời : “Vậy hãy tiếp tục đi, không có vấn đề gì với anh cả. Cứ cử các nhân viên của anh đi gặp khách hàng và đừng để điều đó làm anh bận tâm”. Embry, cho rằng mình đã có một hợp đồng mới, tiếp tục làm việc cho đến khi bị thông báo cho thôi việc vào ngày 15 tháng 2.

Liệu có hợp đồng nào được thiết lập trong tình huống này không? Embry cho rằng có, còn McKittrick thì nói rằng ông ta đã quá bận và bị phân tâm vào các công việc khác, vì thế quên chưa tống khứ Embry đi chứ không hề có ý định ràng buộc công ty vào một hợp đồng mới với anh ta. Ở đây chúng ta lại gặp lại vấn đề liệu sự ưng thuận có phải là căn cứ cao nhất để xác định trách nhiệm hợp đồng hay không. Nếu đúng là như vậy thì Embry đã không gặp may. Thực tế, luật đã cho rằng nếu suy nghĩ của Embry là hợp lý khi suy luận rằng McKittrick đang đưa ra một lời hứa, chúng ta sẽ bảo vệ sự trông đợi hợp lý của anh ta. Việc kiểm tra xem liệu một hợp đồng đã được hình thành hay chưa không phải ở việc liệu người đó có thực sự có ý định đưa ra một hứa hẹn hay không mà ở việc liệu những ngôn từ và cử chỉ của người đó có thể được người mà nó hướng tới suy luận một cách hợp lý rằng đã đủ để hàm nghĩa một lời hứa hẹn hay chưa. (Chúng tôi gọi người đưa ra lời hứa là người hứa và người mà lời hứa hướng tới là người được hứa). Thuật ngữ chuyên ngành luật cho trường hợp này là biểu hiện của sự đồng ý, hướng chúng ta đến thuyết khách quan về hình thức hợp đồng, tập trung vào những yếu tố khách quan và có thể quan sát được là ngôn từ và cử chỉ, thay vì thuyết chủ quan, tập trung vào trạng thái tâm lý thực tế của người đưa ra lời hứa.

Mục đích của việc nhìn vào các ngôn từ chứ không nhìn vào ý định thực sự là để bảo vệ sự trông đợi hợp lý của người mà lời hứa hướng tới. Như một câu châm ngôn luật thông dụng đã nói, “đến quỷ cũng chẳng biết được con người ta nghĩ gì”. Cho dù là ai, người nghe được lời hứa hay tòa án đang phân xử vụ việc thì cũng chẳng có cách nào để biết được ý nghĩ chủ quan của người khác mà không phải dựa vào những lời anh ta nói ra hay những hành động anh ta thực hiện. Khi Embry nghe thấy McKittrick nói thì những gì vang lên trong tình huống đó giống như một lời hứa, và anh ta có quyền cho rằng một lời hứa đã được đưa ra. Embry đã hợp lý khi cho rằng anh ta đã có được hợp đồng, dựa trên biểu hiện của sự đồng ý của McKittrick và tiếp tục làm việc. Sẽ là không công bằng nếu bác bỏ sự tin tưởng của Embry, và vì vậy McKittrick phải chấp nhận hợp đồng cho dù ông ta có thể chưa bao giờ có ý định giao kết nó.

Các luật gia thường phân biệt luật hợp đồng với luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn bằng cách cho rằng trách nhiệm hợp đồng dựa vào việc các bên đưa ra lựa chọn trong khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn do pháp luật quy định mà không cần có sự ưng thuận. Thuyết khách quan khiến cho luật hợp đồng gần hơn với luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn. Sử dụng các ngôn từ có rất nhiều điểm giống với việc lái xe; nếu không cẩn thận, bạn sẽ làm cho một người nào đó bị thương. Những gì McKittrick nói ra (và những cử chỉ đi cùng với nó như xua tay, mỉm cười, nhún vai) có thể tạo ra sự trông đợi trong suy nghĩ của Embry và giữ anh ta tiếp tục làm việc cho công ty thay vì đi tìm kiếm một công việc khác. Cho dù McKittrick có ý định hay không có ý định bị ràng buộc bởi những gì mình nói, ông ta vẫn cần phải thận trọng khi cân nhắc tác động của những lời nói đó đối với Embry. Nếu ông ta bất cẩn, ông ta hoàn toàn có thể phải chịu trách nhiệm về “sự lơ đễnh khi hứa hẹn”, giống như việc chịu trách nhiệm khi ông ta làm cho Embry bị thương do lái xe ẩu.

Có một vấn đề phổ biến liên quan đến việc hình thành hợp đồng đối với các hợp đồng không xác định rõ ràng. Chẳng hạn như một bản thỏa thuận viết về việc bán một ngôi nhà không đề cập gì đến khi nào việc mua bán sẽ phải được thực hiện (tức là không nói rõ khi nào thì người mua sẽ giao tiền để nhận được bản công chứng hợp đồng). Hoặc giả sử là nó có tất cả các điều khoản trừ quy định về giá tiền bởi các bên chưa nhất trí được mức giá cuối cùng. Nếu người bán muốn từ bỏ hợp đồng, trong cả hai trường hợp, anh ta đều có thể đưa ra lý lẽ là hợp đồng này chưa rõ ràng nên không thể thực hiện được.

Sự rõ ràng là rất quan trọng cho việc hình thành hợp đồng bởi hai lý do. Thứ nhất, sự rõ ràng chính là bằng chứng của sự ưng thuận; chúng ta thường cho rằng một hợp đồng tỉ mỉ đến từng chi tiết sẽ là bằng chứng cho một mong muốn giao kết hợp đồng tốt hơn nhiều so với một hợp đồng vẫn còn có một số vấn đề bị bỏ lại. Thứ hai, một hợp đồng rõ ràng sẽ là cơ sở pháp lý rất tốt cho tòa khi phải giải quyết các trường hợp có vi phạm hợp đồng. Nếu hợp đồng không nói khi nào thì các bên sẽ phải thực hiện nghĩa vụ, tòa án không thể nào xác định khi nào họ bị coi là vi phạm; nếu hợp đồng không chỉ rõ giá cả, tòa án sẽ rất khó có căn cứ để đưa ra biện pháp bảo vệ quyền lợi.

Quay trở lại với việc xem xét các yếu tố khách quan, chúng ta có thể thấy sự khác nhau giữa hai trường hợp., Căn cứ vào sự trông đợi hợp lý của các bên, liệu chúng ta có thể điền vào chỗ trống những gì chưa được nêu trong hợp đồng? Khi người ta không ấn định một ngày cụ thể để thực hiện hợp đồng, chúng ta có thể tuyên bố rằng các bên có một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện nó. Chúng ta có thể xác định thời gian hợp lý bằng cách xem xét các giao dịch bất động sản tương tự và xem các bên phải chuẩn bị những gì để thực hiện hợp đồng với trường hợp này là người mua cần thời gian để làm các thủ tục thế chấp hoặc lo nguồn tiền thanh toán. Dựa trên tất cả các thông tin này, chúng ta có thể đi đến kết luận 60 ngày hay 90 ngày là thời gian hợp lý. Nhưng mức giá nào là hợp lý đối với trường hợp các bên không xác định mức giá cụ thể? Mặc dù chúng ta hoàn toàn có khả năng tìm được giá bán của một loại bất động sản tương đương nhưng mọi người vẫn ý thức được rằng mỗi bất động sản đều có sự khác biệt và người bán và người mua khi thương lượng đều dựa vào các yếu tố cá biệt trong từng trường hợp. Do vậy, việc áp đặt các điều khoản về giá sẽ bị miễn cưỡng hơn nhiều so với áp đặt điều khoản về thời hạn thực hiện, cũng có nghĩa là nếu không có điều khoản về giá thì cũng không có hợp đồng.

Liệu một hợp đồng có nhất thiết phải bằng văn bản thì mới có hiệu lực không?

Thông thường, một hợp đồng không nhất thiết phải bằng văn bản. Chỉ cần các bên thể hiện một cách đầy đủ mong muốn giao kết hợp đồng của họ, những lời hứa miệng cũng sẽ có hiệu lực.

Tuy nhiên, cũng có một số loại hợp đồng phải bằng văn bản thì mới có hiệu lực. Có rất nhiều loại lời hứa được Đạo luật chống gian lận điều chỉnh. Luật chống gian lận được ban hành đầu tiên ở nước Anh vào năm 1677 và chủ ý của người làm ra nó là hạn chế sự gian lận và bội ước đang rất phổ biến vào thời điểm nổ ra Cách mạng Anh. Đạo luật này liệt kê một loạt những loại hợp đồng mà trong đó các vấn đề gian lận được xem là đặc biệt nghiêm trọng và yêu cầu phải có bằng chứng bằng văn bản về việc có các thỏa thuận thuộc loại đó thì hợp đồng mới được coi là có hiệu lực. 

Đạo luật về chống gian lận đã được tất cả các nước trong hệ thống thông luật học tập. (Điều kỳ quặc là Quốc hội Anh lại bãi bỏ phần lớn các đạo luật của nước này vào năm 1954). Có thể có sự khác nhau giữa luật của các nước ngay trong việc liệt kê các hợp đồng đòi hỏi phải bằng văn bản, song nhìn chung đều có các hợp đồng sau đây: 

• Hợp đồng về việc trả nợ. 

• Hợp đồng về hôn nhân. 

• Hợp đồng mua bán lợi ích liên quan đến đất đai. 

• Hợp đồng không được thực hiện trong thời gian một năm sau khi giao kết. 

• Hợp đồng mua bán một tài sản có giá trị từ 500 đô-la trở lên. 

Để đảm bảo các hợp đồng này được thực thi, nguyên đơn phải xuất trình được văn bản được bên kia ký trong đó có bằng chứng về việc có giao kết hợp đồng. 

Đạo luật chống gian lận cho thấy sự thiên về thể thức giao kết các thỏa thuận của luật hợp đồng. Khi các bên giao kết tuân thủ các thể thức đã được quy định, chẳng hạn như ký vào một văn bản để xác nhận tham gia vào hợp đồng, họ thể hiện sự nghiêm túc trong hành động, giống như những đứa trẻ khi đưa ra lời thề thốt rằng “Xin thề thật lòng” . Sự tuân thủ các thể thức cũng mang lại cho tòa án những chứng cứ chắc chắn về chủ ý giao kết hợp đồng cũng như về những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận.

Trong các lĩnh vực khác, thể thức cũng được quan tâm vì những lý do tương tự. Chúng ta cho rằng một số hành vi có tầm quan trọng và vì vậy đặt ra những thể thức nhất định trước khi luật pháp có thể công nhận những hành vi đó. Một di chúc phải được viết ra, ký và có người làm chứng. Một chứng thư về chuyển nhượng bất động sản phải được ký, đóng dấu và công bố. Một cuộc hôn nhân phải được thể thức hóa bằng việc trao nhau những lời thề trước một linh mục hay một công chức nhà nước.

Tuy nhiên, vấn đề đối với các thể thức mà pháp luật đặt ra là đôi khi người ta không tuân thủ chúng. Một cụ già ốm yếu sẽ nguệch ngoạc vài dòng về việc mình muốn tài sản sẽ được chia cho ai sau khi chết. Một người chủ đất sẽ có thể tự chia đất của mình cho những đứa cháu mà chẳng đưa cho chúng tài liệu chứng thực nào. Một cặp đôi cũng có thể sẽ sống cùng nhau như vợ chồng mà chẳng có đăng ký hôn thú hay nghi thức gì cả. Trong mỗi trường hợp đó, nếu chúng ta can thiệp vào giao dịch chỉ vì lý do thể thức không được tuân thủ, có thể chúng ta sẽ làm hỏng một mối quan hệ đang tốt đẹp hoặc chống lại những mong muốn rất rõ ràng của các bên. Nhưng một mặc khác, công nhận một giao dịch không tuân thủ các thể thức lại làm hỏng các quy định pháp luật về các thể thức này. Khi phải giải quyết những việc như vậy, chúng ta rơi vào tình huống khó xử, nhưng thường xảy ra, là chính sách (mà ở đây là về các thể thức) được tạo ra để ngăn ngừa sự bất công, nhưng lại phải thừa nhận rằng nếu áp dụng nó một cách thực sự nghiêm ngặt thì cũng lại tạo ra bất công. 

Cách giải thích của tòa án đối với Đạo luật chống gian lận phản ánh những xung đột giữa việc đề cao các thể thức với việc nhận thức được nhu cầu phải giảm bớt yêu cầu đối với các thể thức nhằm thực thi công lý trong một số tình huống cụ thể. Khi xác định một hợp đồng cụ thể có thuộc diện điều chỉnh của đạo luật này, tòa án thường nghiêm khắc hơn trong các lĩnh vực mà họ cho rằng ở đó thể thức là quan trọng và nương nhẹ hơn đối với những lĩnh vực mà họ cho rằng thể thức không quan trọng lắm. Ví dụ như mua bán đất đai thường là những giao dịch có ý nghĩa về mặt kinh tế và khi ký hợp đồng mua bán đất đai thì cần phải có văn bản mới thiết lập được quyền sở hữu. Do vậy, tòa án thường giải thích phạm vi của Đạo luật này áp dụng đối với hầu hết các hợp đồng quyền chọn, hợp đồng mua bán và các thỏa thuận khác liên quan đến chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp đất đai. Lý do để các hợp đồng không được thực hiện trong vòng một năm phải thuộc diện điều chỉnh của đạo luật này thì lại không được rõ như vậy, vì vậy tòa án cũng thường đưa ra khỏi phạm vi điều chỉnh đối với những hợp đồng không được thực hiện trong một năm, chủ yếu bằng việc diễn giải quy định “một hợp đồng sẽ không được thực hiện trong vòng một năm” thành “một hợp đồng không thể thực hiện trong vòng một năm”. Vì vậy, một hợp đồng xây một tòa nhà chọc trời không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo luật này vì về mặt lý thuyết có thể (mà thực tế thì không thể) xây một tòa nhà chọc trời trong vòng một năm; nếu có người nào đó ngớ ngẩn đồng ý xây một tòa nhà chọc trời mà không có thỏa thuận bằng văn bản thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực. 

Tòa án cũng nhận thấy nhu cầu áp dụng một cách linh hoạt Đạo luật về chống gian lận thông qua giải thích một cách không quá cứng nhắc quy định rằng một hợp đồng phải bằng hình thức viết. Như vẫn thường được giải thích, Đạo luật này không đòi hỏi một văn bản đơn lẻ được cả hai bên cùng ký phải được xuất trình để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng. Hợp đồng có thể được hình thành bởi thư từ, mẫu biểu, hóa đơn tính tiền hay biên lai do các bên lập ra. Việc có đủ bằng chứng về các điều khoản cơ bản có thể được chấp nhận và không nhất thiết đòi hỏi phải viết ra tất cả các điều khoản. Và văn bản không nhất thiết phải được ký; các chữ cái đầu, con dấu, giấy in sẵn tiêu đề được xem là đủ để xác nhận văn bản. Các đạo luật gần đây, để phù hợp với sự gia tăng của các giao dịch điện tử, đã xác định rằng quy định về thể thức trong Đạo luật về chống gian lận và các quy định tương tự về việc phải bằng hình thức viết được xem là đã được tuân thủ giống như văn bản thể hiện trên giấy, nếu được ghi nhận bằng các bản ghi điện tử, chẳng hạn như email.

Có phải ai cũng có thể tạo lập hợp đồng? 

Gần như ai cũng có thể tạo lập quan hệ hợp đồng, nhưng có hai nhóm người được luật bảo vệ theo cơ chế đặc biệt hơn, đó là trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành (thường là 18 tuổi) và những người bị bệnh tâm thần. Nếu một đứa trẻ hay một người không đủ năng lực về mặt nhận thức đưa ra một thỏa thuận thì nó bị vô hiệu về phía người đó. Những người như vậy được gọi là không đủ năng lực giao kết hợp đồng. 

Thoạt đầu thì điều này có vẻ như là đi theo nguyên tắc cơ bản chi phối luật hợp đồng. Hợp đồng dựa trên sự tự do lựa chọn, nhưng một số người không có khả năng lựa chọn. Một đứa trẻ không đủ chín chắn ở mức độ cần thiết để đưa ra một sự lựa chọn thực sự. Một số người đã trưởng thành nhưng bị bệnh và mất khả năng nhận thức cần thiết để có thể có được một sự lựa chọn có ý nghĩa, hoặc có thể họ cố gắng đưa ra thỏa thuận trong khi đang bị ảnh hưởng bởi rượu hay thuốc và bị mất khả năng nhận thức tại thời điểm thỏa thuận. 

Cho dù như vậy, nên nhớ nguyên tắc ngược lại lại dựa trên mức độ hợp lý của sự trông đợi từ phía người mà lời hứa hướng tới. Điều gì xảy ra khi một người giao kết với người trông giống như người đã 19 tuổi nhưng thực ra lại mới 17, hoặc với một người hành động có vẻ như người bình thường nhưng hóa ra lại đang bị say rượu hay loạn thần? Một lần nữa, chúng ta lại phải đối mặt với sự xung đột của các nguyên tắc. Chúng ta muốn bảo vệ người không đủ năng lực để giao kết hợp đồng, nhưng lại cũng muốn bảo vệ người mà người đó giao kết cùng khi mà người cùng giao kết đó hành động một cách hợp lý. 

Pháp luật giải quyết sự xung đột này bằng việc cố gắng đưa ra một căn cứ trung dung và đôi khi là du di giữa các nguyên tắc này. Ví dụ đối với trường hợp một người bị tâm thần, tòa án thường tuyên bố rằng việc người đó không đủ năng lực chỉ giải thoát cho người đó khỏi quan hệ hợp đồng nếu bên kia biết hoặc có lý do để biết về sự không có năng lực đó. Nếu như bề ngoài cũng như hành động của một người khiến cho người khác nghĩ rằng anh ta có đủ năng lực giao kết hợp đồng thì sẽ là hợp lý nếu dựa vào việc thể hiện bên ngoài đó; mặt khác, khi bên cùng giao kết hợp đồng biết bên kia có tiền sử bị bệnh tâm thần và đang lựa chọn một cách thiếu tỉnh táo thì trong giao dịch đó đối tác không thể nói rằng anh ta sẽ bị thiệt hại nếu người kia không bị ràng buộc bởi hợp đồng. Trong trường hợp đối với người vị thành niên, tòa án thường áp dụng quy định rằng người nào chưa đủ tuổi trưởng thành thì sẽ không bị ràng buộc bởi hợp đồng; một người chưa thành niên dù trông bề ngoài cũng như hành động giống như một người trưởng thành thì cũng vẫn là người chưa thành niên. Tuy nhiên, tòa án cũng đã tạo ra rất nhiều ngoại lệ. Một người chưa thành niên có thể chấp nhận hợp đồng của mình sau khi đã đạt độ tuổi trưởng thành bằng việc xác nhận bằng ngôn ngữ hoặc chấp nhận việc bên kia thực hiện hợp đồng, và khi đó, hợp đồng sẽ có hiệu lực ràng buộc. Người chưa thành niên cũng có trách nhiệm thanh toán theo hợp đồng khi mua những thứ “vật dụng cần thiết”. Thuật ngữ không mới này trong thông luật trước đây được hiểu là đồ ăn, thức uống và những thứ lặt vặt khác, nhưng ngày nay thì nó bao gồm cả dịch vụ y tế, giáo dục, hay ô tô. Ở một vài bang, người chưa thành niên còn phải chịu trách nhiệm thanh toán đối với cả những thứ mình mua nếu nói dối tuổi; người vị thành niên dù chưa đủ độ chín chắn để giao kết hợp đồng vẫn chịu trách nhiệm nói sự thật, giống như những người trưởng thành.

Hợp đồng đã giao kết có phải lúc nào cũng có giá trị thực thi?

Không phải lúc nào cũng vậy. (Bạn đã nhận ra cái âm điệu quen thuộc chưa? Sinh viên luật thường rất thất vọng bởi câu trả lời “Còn tùy” hơn là “Có” hay “Không”). 

Trong một thời gian dài, câu hỏi lớn đối với luật hợp đồng chính là “Pháp luật sẽ công nhận giá trị thực thi đối với những lời hứa hẹn nào?” Đối với học thuyết hợp đồng thì lĩnh vực này được biết đến với khái niệm hiệu lực của sự hứa hẹn, và học thuyết chính được áp dụng ở đây là sự đánh đổi. Câu chuyện về sự đánh đổi kỳ quặc nhưng cũng kích thích sự tò mò. Trong khoảng 100 năm, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, sự đánh đổi được coi là học thuyết trung tâm của luật hợp đồng. Tuy nhiên, nó không có ý nghĩa lắm trong việc áp dụng vì tòa án thường lảng tránh nó và giờ đây đã vứt bỏ đi một phần đáng kể học thuyết này. Ngày nay, học thuyết về sự đánh đổi chỉ áp dụng để giải quyết vấn đề phát sinh trong một số ít vụ việc, nhưng những nghiên cứu về nó vẫn mang lại những hiểu biết thú vị về cách mà các luật sư suy nghĩ và về việc luật hợp đồng đã phát triển như thế nào. 

Hãy xem xét hai giả thuyết đơn giản dựa vào một vụ việc mà các giảng viên dạy luật hợp đồng yêu thích: (1) Người chú đồng ý bán và người cháu đồng ý mua chiếc ô tô của chú với giá 5.000 đô-la. (2) Người chú hứa cho cháu chiếc ô tô vào ngày sinh nhật tới của cháu. Trong từng trường hợp này, nếu người chú đổi ý thì liệu lời hứa có giá trị thực thi hay không?

Giả thuyết đầu tiên khá đơn giản. Cả người chú và người cháu đều đã tự mình thực hiện quyền tự do hợp đồng và sự chấp thuận đó được thể hiện một cách rõ ràng, vì vậy chúng ta nghiêng về quan điểm là lời hứa phải được thực thi. Bản chất của sự có đi có lại trong trường hợp này là khái niệm trao đổi. Bất kỳ sự trao đổi nào cũng là một hợp đồng có giá trị thực thi, bởi vì các bên trong hợp đồng mới là người đánh giá được cái gì là giá trị thực sự đối với mình. Một chiếc ô tô, một năm làm việc, một cây đàn violon Strad, và một ngôi nhà được định giá theo mức mà người khác sẵn lòng trả cho nó. Khi nào mà người ta thể hiện ra bên ngoài ý định về việc tham gia vào sự trao đổi thì ở đó có hợp đồng. Phạm vi của học thuyết về sự đánh đổi được có thể được thể hiện một phần trong thuyết về khoản tiền danh nghĩa. Nếu ai đó muốn bán ngôi nhà của mình chỉ để lấy một khoản tiền danh nghĩa, người đó hoàn toàn có quyền làm như vậy, và việc trao đổi tạo thành một hợp đồng có giá trị thực thi. Nếu người này sau đó đổi ý, tòa án cũng sẽ không chấp nhận lập luận rằng ngôi nhà giá trị hơn khoản tiền danh nghĩa đó. Phép đo duy nhất của sự công bằng trong nền kinh tế thị trường là mức giá đạt được bởi một người mua tự nguyện và người bán tự nguyện, vì vậy tòa án không có cơ sở nào để có thể đưa ra suy đoán thứ cấp đối với sự định đoạt của các bên. 

Giờ chúng ta xem xét giả thuyết thứ hai, người chú hứa cho cháu chiếc ô tô. Ở đây, chúng ta cũng có sự ưng thuận được thể hiện ra bên ngoài. Như vậy đã đủ chưa? Mặc dù đã có một lời hứa, nhưng đó là lời hứa tặng một món quà, không phải là lời hứa tham gia vào một sự trao đổi. Hứa tặng quà, đặc biệt giữa các thành viên gia đình, thường ràng buộc lỏng lẻo hơn, ít chủ ý hơn so với lời hứa về một sự trao đổi có đi có lại. Điều này cho thấy vấn đề ở chỗ đôi khi, rất khó để xác định liệu đó là một lời hứa nghiêm túc và phải được hiểu một cách nghiêm túc hay không, và bởi vì chúng ta không muốn khuyến khích mọi người hứa hẹn tặng quà một cách dễ dàng. Và quà tặng cũng không phải là một giao dịch có mục đích kinh tế. Nếu mục đích của hợp đồng là thúc đẩy các giao dịch để các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả nhất thì tặng quà lại không hướng đến mục đích này. Có lẽ nguồn lực có giới hạn của pháp luật hợp đồng cần được để dành cho việc đảm bảo thực thi những lời hứa trong kinh doanh.

Đây chính là cách tiếp cận của học thuyết về sự đánh đổi. Hệ quả tất yếu của nguyên tắc rằng tất cả các lời hứa được cân nhắc cẩn thận đều có giá trị thực thi chính là quy tắc rằng bất kỳ lời hứa nào không thể hiện sự xem xét cẩn thận đều không có giá trị thực thi. Lời hứa tặng quà được đưa ra một cách tự nguyện và nghiêm túc, nhưng bởi vì người chú không nhận gì về phía mình khi hứa hẹn nên nó cũng không bị ràng buộc về mặt pháp lý. Chúng ta có thể lập luận ngược lại, rằng người chú có nhận được gì đó sự hài lòng về mặt tinh thần mà ông ta có được khi tặng quà cho cháu chẳng hạn. Nhưng pháp luật phản đối ý tưởng này, bởi trọng tâm của nó là sự trao đổi; thậm chí nếu người chú cảm thấy hài lòng khi đã giúp được cháu mình thì người cháu cũng không phải là người mang lại được cho ông ta cảm giác đó để có thể coi nó như sự trao đổi. (Tuy nhiên, cũng phải lưu ý là khi người chú trên thực tế đã giao ô tô cho cháu thì ông ta sẽ không thể đòi lại được); mặc dù lời hứa tặng quà không có giá trị thực thi theo luật hợp đồng nhưng hành động tặng quà đã được thực hiện lại là một giao dịch có giá trị pháp lý theo luật tài sản). 

Mặc khác, chúng ta lại xem xét một vụ việc được các giáo sư luật yêu thích, vụ Hamer kiện Sidway (1891). Trong vụ việc này, người chú hứa với cháu sẽ cho cháu 5.000 đô-la nếu người cháu chịu nhịn không thuốc lá và rượu cho đến khi tròn 21 tuổi. Người chú không nhận được giá trị kinh tế nào từ việc người cháu thực hiện nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận, nhưng điều đó không quan trọng. Nếu người chú thấy việc thỏa thuận như vậy là đáng để làm, có thể bởi vì ông ta quan tâm đến sức khỏe hoặc đạo đức của đứa cháu, thì tòa án cũng có lý do đủ để yêu cầu thực thi lời hứa. Không quan trọng là người cháu có thể có lợi hay ít nhất là cũng không bị hại về mặt sức khỏe khi thực hiện nghĩa vụ; bởi vì anh ta đã phải từ bỏ một cái gì đó, và sự trao đổi theo đó phải được thực thi. 

Hãy xem xét một số trường hợp điển hình có áp dụng học thuyết đánh đổi. Hai bên đã giao kết một hợp đồng thỏa thuận lại về điều khoản của hợp đồng trong quá trình thực hiện. Theo các quy tắc truyền thống về sự đánh đổi, sự sửa đổi có thể không có giá trị thực thi. Nếu một người chủ tăng lương cho nhân viên hay người cho vay đồng ý từ bỏ một phần khoản nợ, lời hứa này không có giá trị thực thi bởi vì nó không phải là một phần của sự trao đổi. Người chủ hay chủ nợ ở đây không nhận được gì cả khi đưa ra lời hứa mới này, bởi vì nhân viên của ông ta đã có nghĩa vụ pháp lý phải làm việc và con nợ thì có nghĩa vụ phải trả toàn bộ khoản nợ. Quy tắc này được gọi là nghĩa vụ đã tồn tại từ trước: việc thực hiện một nghĩa vụ đã tồn tại từ trước không phải là yếu tố để xem xét một lời hứa mới. 

Hoặc giả sử ban giám đốc của một công ty thông báo trước một thời gian dài rằng, ghi nhận sự làm việc tận tụy của người nhân viên, công ty sẽ trả cho cô một khoản trợ cấp suốt đời bất kỳ khi nào cô nghỉ hưu. Người nhân viên, khi đã có được sự hứa hẹn đảm bảo cho mình về tài chính này đã xin nghỉ hưu chỉ sau một thời gian ngắn. Công ty đó, như một việc làm tất yếu, đã phải nuốt lời. Nếu lời hứa được đưa ra theo một cách khác (“Khi nào cô nghỉ hưu, chúng tôi sẽ trả trợ cấp”), ở đó sẽ có sự trao đổi, nhưng như đã nói, lời hứa của công ty về căn bản là một lời hứa tặng quà. Bởi vì người nhân viên về phía mình cũng không đưa ra hứa hẹn hay bất kỳ cái gì để trao đổi, lời hứa hẹn sẽ được coi là không có giá trị pháp lý do thiếu yếu tố trao đổi. 

Học thuyết về sự đánh đổi thể hiện một cách nhìn khá thực dụng về bản chất con người và thực tiễn giao kết hợp đồng. Mọi người đều mưu cầu cho bản thân; chẳng có ai cho không cái gì cả; chỉ có những sự trao đổi có cân nhắc về mặt kinh tế mới có hiệu lực. Hạn chế của quan điểm này khiến cho kết quả giải quyết các vụ việc đã nói đến ở trên không được êm thấm. Các vụ việc liên quan đến nghĩa vụ đã tồn tại từ trước và vụ người nhân viên nghỉ hưu làm vô hiệu những giao dịch thương mại thông thường và vẫn được thừa nhận. 

Tòa án đáp lại những băn khoăn này đối với những vụ việc liên quan đến sự đánh đổi bằng việc phát triển các quy tắc loại trừ bớt sự khắc nghiệt của nó. Vào giai đoạn đầu hình thành, các quy tắc này thường thể hiện dưới dạng giải thích hoặc làm lệch đi một chút học thuyết về sự đánh đổi để đạt được kết quả ngược lại. Chẳng hạn nếu một con nợ thực hiện một số nghĩa vụ bên cạnh việc trả một phần khoản nợ, ví dụ như anh ta đưa cho chủ nợ 1.000 đô-la và chiếc khăn tay để thanh toán khoản nợ 2.000 đô-la thì quy tắc về nghĩa vụ tồn tại từ trước coi như được đáp ứng bởi vì con nợ đã thực hiện nhiều hơn nghĩa vụ mà anh ta đã bị ràng buộc.

Gần đây thì tòa án đã bác thẳng yêu cầu về sự đánh đổi với ý nghĩa là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Trong một số trường hợp, sự bác bỏ này dựa trên sự công bằng và chính sách công cộng. Một lời hứa tặng quà cho một tổ chức từ thiện được coi là có hiệu lực cho dù người hứa tặng không nhận được gì về phần mình. Một vài trường hợp bác bỏ khác chủ yếu dựa trên thực tế hoạt động thương mại. Quy tắc về nghĩa vụ tồn tại từ trước được thay thế bởi các quy tắc cho phép các sửa đổi hợp đồng có hiệu lực nếu như những sửa đổi này được thực hiện một cách có thiện chí và trong những tình huống mà các bên đã không thể dự liệu được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Giờ đây đã có một quy tắc cơ bản trái ngược với quy tắc đánh đổi, đó là quy tắc về sự đáng tin cậy. Một lời hứa không thể hiện sự đánh đổi vẫn có hiệu lực nếu người được hứa đó có thể suy luận một cách hợp lý là lời hứa đáng tin cậy. Khi một nhân viên làm việc lâu năm nghỉ hưu do tin vào lời hứa của ban giám đốc là trả trợ cấp cho mình, việc tin tưởng đó sẽ thay cho sự đánh đổi và làm cho lời hứa có hiệu lực.

Nếu một hợp đồng thiếu công bằng, liệu tòa án có thể không cho thực thi?

Đó là một câu hỏi khó đối với luật hợp đồng. Lý thuyết khoản tiền danh nghĩa của học thuyết đánh đổi không cho phép tòa án can thiệp vào sự thương lượng của các bên, bất kể nó thiếu công bằng như thế nào; các bên đã tự thỏa thuận với nhau theo cách mà họ muốn và sau đó thì họ bị ràng buộc với nó. Nhưng đúng là một số hợp đồng có những điều khoản rất tệ. Trong những vụ việc quá bất công, tòa án có một số công cụ khác để hợp đồng thiếu công bằng không được thực thi. 

Trong ngữ cảnh này, không dễ dàng gì để định rõ khái niệm “thiếu công bằng” cũng như để có thể đưa cho tòa án một công thức chính xác nhằm xác định khi nào một hợp đồng là thiếu công bằng. Tòa án được xem là có vai trò xác định trong mỗi vụ việc căn cứ vào các nguyên tắc chung điều chỉnh những vụ việc đó, vì vậy không thể cứ chỉ bám vào cảm nhận căn bản là một bên đã đưa ra những điều khoản không tốt. Tòa án đã hình thành nên hai loại chỉ dẫn, gợi ý rằng một hợp đồng cần phải được xem xét theo một cách đặc biệt. Trước hết, cần xem có gì đó đáng nghi ngờ trong quá trình mà các bên thỏa thuận để đạt đến nội dung cuối cùng của hợp đồng hay không. Mô hình của thuyết tự do hợp đồng giả định rằng hai bên được thông tin đầy đủ và tự mình độc lập thương lượng trên cơ sở lợi ích lớn nhất của mình, nhưng quá trình thương lượng trong từng trường hợp cụ thể lại không đạt được đến mức lý tưởng như vậy ở một số khía cạnh quan trọng. Thứ hai, hợp đồng mà các bên đạt đến là quá thiên lệch cho một bên. Một bên thường là bên có lợi thế trong quá trình thương lượng thường đạt được thỏa thuận nhiều hơn mức được xem là công bằng trong những trường hợp này. 

Cả hai hướng dẫn này đều cực kỳ có vấn đề. Nếu áp dụng tràn lan, chúng có thể phá hủy các nguyên tắc căn bản của luật hợp đồng. Trong nhiều hợp đồng, một bên hoặc bên kia có những lợi thế khi thương lượng và đạt được thỏa thuận có lợi hơn do có hiểu biết tốt hơn, kỹ năng nhiều hơn hoặc vị thế kinh tế lớn hơn; giao kết hợp đồng cơ bản là việc đạt được những thỏa thuận tốt nhất có thể. Vấn đề nan giải là ở chỗ khi nào người ta có thể vạch ra ranh giới rõ ràng giữa những lợi ích công bằng và không công bằng. Chúng ta có thể nhìn thấy được những khó khăn này thông qua việc khái quát hai học thuyết: bị cưỡng ép hoặc không đủ khả năng nhận thức.

Thuyết về bị cưỡng ép cho phép một bên không bị ràng buộc bởi quan hệ hợp đồng khi anh ta bị buộc phải giao kết hợp đồng dưới sự đe dọa của bên kia. Khi nạn nhân của một vụ cướp chấp nhận đưa ví của mình cho bọn cướp hay bố mẹ của một em bé đồng ý trả tiền chuộc cho bọn bắt cóc để con của mình có thể trở về an toàn, thì hợp đồng đó không có giá trị thực thi bởi nó được giao kết trên cơ sở sự đe dọa. Logic tương tự cũng được áp dụng trong các giao dịch trao đổi có đi có lại mà ở đó, một bên ép bên kia phải chấp thuận các điều khoản của hợp đồng. Trong một vụ việc khá nổi tiếng, một người chủ nợ chỉ cho vay một lần và đã hết quyền đòi nợ xin được trát của tòa để bắt giữ một toa tàu chở nước đá vừa mới được xếp đầy nước đá của con nợ. Con nợ buộc phải thanh toán cho khoản nợ vô hiệu kia hoặc là nhìn vụ làm ăn của mình tan thành nước, và việc thanh toán rõ ràng là do bị ép buộc. (Vụ Chandler kiện Sanger, 1874). 

Tất nhiên việc vạch ra một ranh giới giữa sự cưỡng đoạt và những áp lực kinh tế có thể chấp nhận được là vô cùng khó khăn. Khi Walmart sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để đạt được mức giá có lợi nhất từ nhà cung cấp, đó đơn giản là một nỗ lực thương lượng và là một việc làm ăn thành công, không phải là một vụ thỏa thuận không chính đáng, giống như sự cưỡng bức. Thuyết về sự cưỡng bức chỉ dành cho những trường hợp mà bên giao kết hợp đồng không có một sự lựa chọn nào hợp lý ngoài việc chấp nhận các điều kiện đã được bên kia đưa ra và kết quả thương lượng chỉ có lợi cho một bên, như trường hợp nạn nhân của vụ cưỡng đoạt tài sản hay chủ của con tàu chở nước đá đã nêu ở trên. 

Tương tự, thuyết về sự không nhận thức được cho phép tòa án không yêu cầu thực thi một hợp đồng mà trong đó một bên bị hạn chế trong khả năng ra quyết định cũng như khả năng thương lượng và nội dung hợp đồng cơ bản là không công bằng. Trong một vụ việc nổi tiếng của Ora Lee Williams, một người hưởng trợ cấp ở Washington D.C. trong suốt cả giai đoạn năm năm đã mua đồ nội thất và các hàng gia dụng khác theo một chương trình thanh toán định kỳ được cung cấp bởi một cửa hàng nội thất trong thành phố. Mỗi lần như vậy, người phụ nữ này lại ký vào một hợp đồng mẫu trong đó có nội dung liên quan đến tiền nợ như sau:

Khoản tiền thanh toán định kỳ mà người mua phải trả cho công ty theo hợp đồng thuê mua này nằm trong và không phải là khoản bổ sung cho khoản tiền thanh toán định kỳ mà người mua phải trả theo các hợp đồng thuê mua trước đó, dù là bằng hóa đơn hay ghi nợ tài khoản; và tất cả các khoản thanh toán mà người mua thực hiện ở hiện tại và sau thời điểm hiện tại đều sẽ được tính theo tỉ lệ cho tất cả các hợp đồng thuê mua mà người mua còn chưa thanh toán hết cho Công ty, dù là bằng hóa đơn hay ghi nợ tài khoản tại thời điểm mà người mua thực hiện việc thanh toán. 

Tác dụng của điều khoản rối rắm này là để cho tất cả các mặt hàng đã mua đều có dư nợ cho đến khi toàn bộ dư nợ của tất cả các mặt hàng đều đã được thanh toán hết. Khi Williams không trả nợ đúng hạn cho mặt hàng mua sau cùng, một bộ giàn âm thanh nổi giá 515 đô-la, cửa hàng áp dụng theo điều khoản hợp đồng để thu lại bộ giàn này và tất cả các hàng hóa đã mua trong năm năm. Tổng giá cả của tất cả các hàng hóa này là 1.800 đô-la và bà Williams đã trả được 1.400 đô-la. 

Trong vụ Williams kiện Công ty đồ nội thất Walker-Thomas, (1965), Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ tuyên bố rằng điều khoản về nợ này không có giá trị bắt buộc thi hành đối với Williams vì nó là điều khoản mà người ta không nhận thức được. Do khả năng có thể nhận thức được phụ thuộc vào tình huống cụ thể trong mỗi vụ việc, tòa phúc thẩm hướng dẫn tòa sơ thẩm quay trở lại xem xét thực tế trường hợp cụ thể này có phải Williams đã thực sự không có được một quyết định đầy đủ khi tham gia vào hợp đồng do hoàn cảnh kinh tế và do sự khó hiểu của các ngôn ngữ pháp lý không ? và liệu thỏa thuận mà các bên đạt được có mang lại “lợi thế không hợp lý” cho cửa hàng hay không ? 

Đây là một trường hợp rất nhạy cảm đối với học thuyết về sự không có khả năng nhận thức: một doanh nghiệp lợi dụng bán được hàng cho một người sống bằng trợ cấp những thứ mà người đó có thể không có khả năng chi trả và sau đó sử dụng một hợp đồng đầy những ngôn từ pháp lý khó hiểu để lấy lại toàn bộ những món hàng đã mua chỉ vì người đó vi phạm nghĩa vụ thanh toán có một lần. Nhưng áp dụng thuyết về không đủ khả năng nhận thức vào trường hợp này cũng cho thấy có vấn đề, và luật sư có thể phản bác lại rằng nếu chúng ta phán quyết về một vụ việc theo cách này thì có thể cánh cửa thoát lũ sẽ mở và gây ra những tác động ghê gớm. Nếu tòa án cho rằng hợp đồng này thuộc trường hợp không đủ khả năng nhận thức thì trong các vụ việc tương tự, tòa cũng phải ra quyết định tương tự sau đó, và sau đó nữa, cho đến khi toàn bộ các nền tảng của pháp luật hợp đồng đã bị phá vỡ. Phải chọn một trong số những khả năng ít ỏi và đều không tối ưu là bản chất của quan hệ hợp đồng trong kinh tế thị trường. Nếu một người sống bằng trợ cấp không đủ khả năng chi trả tiền mặt, liệu có phải là thiếu công bằng khi có một trong số ít các cửa hàng đồng ý cho người đó nợ yêu cầu người đó phải chấp nhận những điều khoản quá nặng nề nhằm bảo vệ lợi ích của cửa hàng ? Nếu chúng ta đi quá xa trong việc can thiệp vào các hợp đồng như vậy, tòa án sẽ nhận được nhiều khiếu kiện về việc hợp đồng không thể hiện khả năng nhận thức đầy đủ, và chúng ta có thể phải quẳng đi cái khái niệm cơ bản rằng thỏa thuận là thỏa thuận. Vì lý do này, tòa án cũng khá cẩn trọng để không đưa khái niệm về sự không đủ khả năng nhận thức đi quá xa. 

Pháp luật nhìn nhận thế nào về hợp đồng mẫu?

Một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến việc hình thành, tính có hiệu lực và sự công bằng của hợp đồng đang nổi lên trong hình thức hợp đồng thông dụng nhất hiện nay, hợp đồng mẫu, thường được gọi là hợp đồng có sẵn. Một hợp đồng mẫu là một loại thỏa thuận đã được chuẩn hóa do bên có vị thế chi phối trong giao dịch soạn sẵn cho giao dịch đó và các giao dịch tương tự khác, chứa đựng trong đó những điều khoản chuẩn và thường được đưa ra cho bên kia trong hợp đồng với ngầm ý là chấp nhận hoặc không giao kết. Hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng làm thẻ tín dụng, hợp đồng lao động, hợp đồng dịch vụ Internet, hợp đồng mua phần mềm và các hợp đồng mua bán chỉ là một vài ví dụ của các hợp đồng mẫu mà chúng ta vẫn biết đến hiện nay. Hợp đồng mẫu hết sức quan trọng đối với một nền kinh tế hiện đại bởi nó cho phép các công ty lớn hoạt động hiệu quả và giảm chi phí giao dịch cho tất cả mọi người. Nhưng nó cũng có những nguy cơ nhất định bởi nó cho phép bên có vị thế cao hơn áp đặt ý chí của mình, khi mà các điều khoản của hợp đồng được đưa ra theo cách khó có thể đọc và hiểu được vào thời điểm giao kết hợp đồng và không có cơ hội dành cho thương lượng. Do hợp đồng mẫu xuất phát từ lý tưởng của luật hợp đồng là hai bên đều có hiểu biết đầy đủ cùng nhau giao dịch nên pháp luật đã gặp những khó khăn nhất định khi phải điều chỉnh các hợp đồng này. 

Áp dụng thuyết khách quan của việc hình thành hợp đồng, tòa án nhìn chung thường bắt đầu bằng quan niệm các hợp đồng mẫu là có hiệu lực. Nếu một người mua ký vào một mẫu, đưa thẻ tín dụng ra, hay nhấp chuột vào mục “Chấp nhận” trong một hộp thoại trực tuyến, người bán có quyền hoặc là cho rằng người mua đó đã đọc và đồng ý với các điều khoản được đưa ra trong hợp đồng mẫu hoặc là đã đồng ý với nó mà chẳng đọc gì cả. Tuy nhiên, vì giả định như vậy là không thực tế, đôi khi tòa án cũng tìm cách điều chỉnh nó. Một người lái xe nhận được một thẻ gửi xe trong khu đậu xe có thể không buộc phải biết rằng đằng sau thẻ gửi xe đó có những điều khoản về loại trừ trách nhiệm, và vì vậy chẳng có hợp đồng nào cả. Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng khi mà các điều khoản được thể hiện ở những vị trí khó nhận biết, trong các tài liệu bổ sung, nằm cuối phần điều khoản về dịch vụ trên trang web hoặc chỉ xuất hiện chốc lát. Một số đạo luật đặt ra các chuẩn mực cụ thể về việc thông tin giúp cho khách hàng có nhiều cơ hội hơn để có thể hiểu được nội dung của hợp đồng; chẳng hạn Bộ luật Thương mại Thống nhất quy định điều khoản miễn trừ đối với trách nhiệm bảo đảm tính thương mại (nghĩa là một lời cam kết ngầm định của người bán rằng hàng hóa mà họ bán ra là loại hàng đúng như tên gọi của nó và sẽ có tác dụng đúng như chức năng thông thường của nó) phải là điều khoản “dễ nhận biết”.

Một trong những vấn đề đặc biệt khó khăn phát sinh từ những hợp đồng mua hàng từ xa, trong đó các điều khoản của hợp đồng chỉ được chuyển cho người mua sau khi đã mua bán xong. Chẳng hạn trong vụ Hill kiện Gateway 2000 (I997), Rich và Enza Hill gọi đến Gateway và đặt hàng một hệ máy tính, cung cấp số thẻ tín dụng để thanh toán. Hàng sau đó được chuyển đến trong một chiếc hộp có cả chiếc máy tính mới của họ, bộ dây cáp tương thích và hướng dẫn sử dụng cùng với một bộ giấy tờ trong đó có một loạt các điều khoản theo kiểu công thức, bao gồm một câu rằng ông bà Hill chấp nhận các điều khoản này nếu như họ không trả lại máy tính trong vòng ba mươi ngày. Vài tháng sau, khi máy tính không chạy được và Gateway không chịu sửa, họ đã khởi kiện. Gateway biện hộ bằng việc chỉ ra một điều khoản cũng có tính công thức quy định các khách hàng đã từ bỏ quyền khởi kiện Gateway ra tòa và vì vậy, thay vì kiện ra tòa thì họ phải đưa sự việc đến trọng tài. Mặc dù điều khoản trọng tài không được đưa ra khi ông bà Hill đặt hàng và Gateway chấp nhận đặt hàng, tòa án vẫn tuyên bố rằng nó vẫn là một phần của hợp đồng khi mà ông bà Hill không đóng gói chiếc máy tính và trả nó lại (bằng chi phí của mình), đúng như nội dung đã được yêu cầu trong điều khoản mà Gateway đưa ra. Các tòa án khác thì lại giải quyết theo hướng ngược lại, cho rằng người tiêu dùng không bị ràng buộc bởi các điều khoản đưa ra sau khi hợp đồng đã được giao kết. 

Từ vụ việc của Hill, chúng ta thấy rằng một trong những vấn đề của hợp đồng mẫu là thường có những điều khoản gây ngạc nhiên hoặc những điều khoản mà người ta sẽ không đồng ý nếu có thể lựa chọn. Khi các học thuyết về hình thành hợp đồng cho phép một điều khoản như vậy trở thành một phần của hợp đồng, có một cách để các tòa án bảo vệ người tiêu dùng, đó là giải thích điều khoản đó theo cách có lợi cho người tiêu dùng, khi mà họ có cơ hội để giải thích. Chẳng hạn để giải thích hợp đồng bảo hiểm, vị thẩm phán liên bang Robert Keeton, người trước đó là Giáo sư Luật ở Harvard đã tổng hợp cách tiếp cận của một số tòa án để đi đến kết luận rằng “sự trông đợi hợp lý của [bên được bảo hiểm] sẽ được chấp thuận cho dù việc phân tích kỹ các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm có thể phủ nhận sự trông đợi này”. Trong một vụ việc nổi tiếng, một nội dung in sẵn nằm lẫn trong các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm nói rằng tiền bảo hiểm sẽ chỉ được trả trong trường hợp trộm đột nhập vào nhà nếu có dấu hiệu có thể nhìn thấy được về việc có sự đột nhập bằng sức mạnh từ bên ngoài cửa, tuy nhiên, tòa án vẫn cho rằng mong muốn hợp lý của bên ký hợp đồng bảo hiểm về việc họ cần được bảo hiểm đối với bất kỳ dấu hiệu rõ ràng nào của việc đột nhập phải được chấp nhận. 

Căn cứ cuối cùng để tòa án có thể tuyên một điều khoản trong hợp đồng mẫu không công bằng chính là bằng cách tuyên bố điều khoản đó khó nhận biết. Sự nguy hiểm của việc lạm dụng học thuyết về không có khả năng nhận biết khiến cho tòa án không muốn đẩy nó đi quá xa. Một điều khoản trọng tài bắt buộc trong đó yêu cầu người tiêu dùng phải từ bỏ quyền khởi kiện ra tòa có lẽ là loại điều khoản phổ biến nhất loại này. Trong thủ tục trọng tài, một người hoặc là một hội đồng trọng tài, không phải thẩm phán và thậm chí có thể không phải luật sư có quyền quyết định vụ việc. Mặc dù các trọng tài viên được xem là phải tuân thủ các quy định của pháp luật, giống như các thẩm phán và hội thẩm nhưng quyết định của họ, nhìn chung sẽ không được tòa án xem xét lại, ngay cả khi họ xem xét không đúng thực tế khách quan hoặc không đúng luật. Các doanh nghiệp thích lựa chọn trọng tài bởi nó giảm chi phí kiện tụng và giúp chuyển các vụ việc từ tòa án và ban hội thẩm sang một cơ quan giải quyết tranh chấp khác do chính họ lựa chọn và họ trông đợi rằng sẽ dễ thông cảm với họ hơn. Các điều khoản trọng tài giờ đây trở thành thông dụng trong các hợp đồng phát hành thẻ tín dụng, hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng và nhiều loại hợp đồng khác. Mặc dù chúng thường nằm ở một vị trí lẩn khuất trong các văn bản được in sẵn hoặc nằm ở phần văn bản xuất hiện trước mục “Tôi chấp nhận”, Tòa án tối cao vẫn công bố rộng rãi cách giải thích Đạo luật Trọng tài liên bang theo hướng tách các điều khoản trọng tài ra khỏi các học thuyết về hợp đồng khác có thể hạn chế hiệu lực của nó. Tuy nhiên, ví dụ về một vụ tranh chấp được nhiều người biết giữa nhà hàng Hooters và một nhân viên phục vụ đã từng làm ở đó về việc có quấy rối tình dục, tòa án vẫn bác bỏ điều khoản trọng tài bên cạnh các điều khoản bất bình đẳng khác, trong đó cho phép Hooters lựa chọn các trọng tài trong số những người quản lý của chính mình.

Một khi đã giao kết hợp đồng, liệu bạn có thể không bị nó ràng buộc? 

Cách dễ dàng nhất để thoát khỏi sự ràng buộc của một hợp đồng là phải làm sao để bên kia đồng ý cho bạn từ bỏ hợp đồng. Bên kia trong hợp đồng có thể không nhất thiết phải bắt bạn thực hiện hợp đồng, cho dù người đó có thể có quyền như vậy về mặt pháp lý. Phần lớn những người tham gia vào các quan hệ làm ăn đều là những người hiểu biết và hành động hợp lý. Họ muốn làm những gì cần thiết, và điều đó không phải lúc nào cũng có nghĩa là phải thực hiện tất cả các quyền mà pháp luật trao cho họ. Trong nhiều tình huống, người ta có thể cho rằng sẽ là không hay nếu bắt người khác phải làm cái việc mà người ta không muốn làm. Thêm vào đó, phần lớn các hợp đồng đều xuất phát từ những mối quan hệ lâu dài, và có lẽ việc giữ gìn quan hệ quan trọng hơn là lợi ích từ một lần hợp đồng mang lại. Phần lớn các trường hợp, sẽ chẳng đáng nếu đem một hợp đồng nhỏ kiện ra tòa án liên bang. 

Người đã giao kết hợp đồng cũng có thể có một số công cụ mà pháp luật cho phép để từ bỏ quan hệ hợp đồng. Chúng ta đã thấy nhiều hợp đồng không có hiệu lực thực thi do có những khiếm khuyết nhất định trong quá trình thỏa thuận hoặc do ảnh hưởng của học thuyết cưỡng bức hoặc không đủ khả năng nhận thức. Thêm vào đó, một bên có thể được phép không thực hiện hợp đồng do lỗi trong quá trình thành hợp đồng, hay do nghĩa vụ trong hợp đồng là không thực hiện được, hay do điều kiện để thực thi nghĩa vụ trong hợp đồng không được thỏa mãn. 

Nhiều hợp đồng có những dự đoán trong tương lai, nhưng dự đoán đó sau đó lại bị sai. Một nhà đầu tư hợp đồng mua cổ phiếu của một công ty với hy vọng là việc kinh doanh của công ty sẽ được mở mang và giá cổ phiếu sẽ tăng. Nếu nhà đầu tư đó nhầm và giá cổ phiếu bị sụt giảm, người này sẽ khó có thể từ bỏ hợp đồng (hoặc đưa nó trở lại như ban đầu, nếu như giao dịch đã được thực hiện) do sự sai lầm của mình. Khả năng cổ phiếu giảm giá là một trong những rủi ro mà người này đã chấp nhận khi ký hợp đồng và pháp luật không cho phép từ bỏ rủi ro do lỗi của người đó. 

Mặc dù vậy, có những lúc sai lầm không liên quan gì đến rủi ro trong nội dung thương lượng của các bên. Giả sử một nhà thầu khi chuẩn bị một hồ sơ thầu cho một công trình xây dựng đã tính nhầm chi phí nguyên vật liệu và đưa ra mức 1.000 đô-la trong khi đáng lẽ phải là 11.000 đô-la. Nhà thầu nộp hồ sơ thầu với mức giá thầu là 15.000 đô-la chứ không phải mức cần có là 25.000 đô-la và người chủ chấp nhận gói thầu này. Nếu nhà thầu phát hiện ngay ra sai sót, tòa án có thể chấp thuận để anh ta từ bỏ hợp đồng. Người chủ sẽ không bị thiệt hại nhiều khi cho phép nhà thầu từ bỏ hợp đồng nếu việc nhầm lẫn được phát hiện ngay lập tức, khi so nó với gánh nặng chi phí mà nhà thầu phải chịu vì đưa ra mức giá thấp như vậy. Nhưng mặt khác, nếu nhà thầu tính toán sai lầm dự đoán công việc chỉ làm mất hai tuần trong khi thực ra là mất một tháng thì tòa án sẽ không chấp thuận cho anh ta từ bỏ hợp đồng. Nhà thầu phải chấp nhận rủi ro là công việc sẽ kéo dài hơn thời gian hai tuần khi mà giá thầu dựa trên sự tính toán đó là mức giá ấn định.

Đôi khi sai lầm mà các bên mắc phải liên quan đến tình trạng thực tế tại thời điểm giao kết hợp đồng hơn là những dự đoán về việc thực hiện nó trong tương lai. Điều này đã xảy ra trong một án lệ quan trọng của luật hợp đồng, vụ Sherwood kiện Walker (1887), vụ “bò không đẻ”. Người mua, trong vụ này muốn mua vài con bò giống Angus, liên hệ với người bán có chủng loại bò đó trong trang trại của ông ta. Người bán cảnh báo người mua rằng có rất nhiều khả năng bò không đẻ được. Người mua chọn một con có tên là Rose và họ thỏa thuận mức giá 5,5 xu một cân Anh, do bò có thể không đẻ nên họ chỉ định giá ở mức bò thịt. Sau khi bò được cân lên, người mua trả số tiền 80 đô-la dựa theo cân nặng nhưng khi đó, người bán từ chối giao bò bởi ông ta phát hiện ra rằng Rose đang mang thai và như vậy, giá trị của nó phải từ 750 đến 1.000 đô-la. Tòa án cũng phán quyết rằng người bán không bị buộc phải thực hiện theo hợp đồng bởi cả hai bên đều có nhầm lẫn về vật mà họ đang mua bán. 

Phán quyết của tòa trong vụ Sherwood kiện Walker dựa trên quan niệm về rủi ro trong quan hệ hợp đồng. Chắc chắn là người mua và người bán đều hiểu họ đang thỏa thuận về một con bò cụ thể, Rose, nhưng thỏa thuận của họ chỉ dựa trên giả định rằng con bò đó chỉ để làm thịt và không đẻ. Sai lầm trong việc nhận định tình trạng của bò như một giả định cơ bản trong hợp đồng ảnh hưởng đáng kể đến mức giá của hợp đồng và không phải là rủi ro mà một trong hai bên phải chấp nhận, bởi (theo nhận định của tòa án), cả hai đều cho rằng bò không đẻ. Khi giả định của hợp đồng không đúng và cũng không nằm trong phạm vi rủi ro, bên bán có thể từ bỏ hợp đồng. Vụ việc có thể đi theo hướng khác nếu một trong những rủi ro của hợp đồng là liệu bò có đẻ được không và người mua thì nghĩ bò đẻ được và người bán thì cho rằng không. Khi đó, cả hai bên sẽ bị ràng buộc bởi hợp đồng này cho dù thực tế đi theo hướng nào. 

Khái niệm về rủi ro trong quan hệ hợp đồng còn mở rộng tới cả các vụ việc cho phép từ bỏ hợp đồng trong các trường hợp khác, liên quan đến việc không có khả năng và không đúng với trông đợi. Đôi khi nghĩa vụ mà một bên cam kết thực hiện lại không có khả năng thực hiện tại thời điểm cần thực hiện. Ví dụ, trong vụ Taylor kiện Caldwell (1863), người chủ thính phòng đồng ý cho một nhà tổ chức trong vùng thuê bốn ngày để tổ chức một số buổi hòa nhạc. Trong khoảng thời gian từ khi thỏa thuận đến khi dự định tổ chức hòa nhạc thì phòng nhạc bị cháy. Người tổ chức chương trình yêu cầu bồi thường thiệt hại vì ông chủ phòng nhạc đã không cung cấp phòng nhạc theo đúng như cam kết. Người chủ phòng nhạc đáp lại rằng ông ta cần phải được giải phóng khỏi nghĩa vụ hợp đồng bởi nghĩa vụ này là không thể thực hiện được, ông ta không thể cho thuê phòng nhạc khi phòng nhạc thực tế không còn nữa.

Đây là một lập luận rất thuyết phục; nếu bạn không thể làm một điều gì thì làm sao có thể phải chịu trách nhiệm vì đã không làm điều đó? Tuy nhiên, phải chú ý là có một vài bước lập luận mà chúng ta phải trải qua để đi đến kết luận đó. Người chủ không thể cho thuê phòng nhạc, nhưng điều đó không có nghĩa rằng ông ta không phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do không thể làm công việc mà ông ta đã cam kết làm. Vấn đề ở đây là liệu ông ta có thể thoát khỏi trách nhiệm chứ không phải là liệu có nên buộc ông ta phải làm điều không thể. 

Các tòa án giải quyết vấn đề này đúng theo cách vẫn thường giải quyết đối với các vấn đề khác của luật hợp đồng. Khi các bên không thể hiện rõ ràng điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp phòng nhạc bị cháy, tòa án buộc phải xác định xem mong muốn của họ là gì, tức là họ có mong muốn nào một cách hợp lý, và điều đó cũng có nghĩa là kết quả như thế nào sẽ là công bằng dựa trên quan điểm của tòa về việc các bên thường làm và mong đợi trong tình huống này. Đi theo phân tích này, tòa án thường kết luận rằng việc không thể thực hiện hợp đồng là một căn cứ cho phép một người không còn bị ràng buộc bởi hợp đồng, vì vậy người chủ phòng nhạc không phải bồi thường do không cung cấp được nó cho người tổ chức chương trình âm nhạc.

Song song với thuyết này còn có một thuyết khác, đi từ một khía cạnh khác của hợp đồng, được biết đến với tên gọi mục đích không đạt được. Vào năm 1902, một cuộc tuần hành lớn dự định tổ chức ở Luân Đôn để chào mừng việc lên ngôi của vua nước Anh, Edward VII. Chủ các căn nhà dọc con đường sẽ diễn ra cuộc tuần hành cho những người muốn xem tuần hành thuê với giá cao hơn rất nhiều so với mức giá cho thuê thông thường. Không may, Edward bị ốm và lễ đăng quang phải hoãn lại. Những người đã thuê phòng với mong muốn được quan sát cuộc diễu hành muốn hủy hợp đồng. Việc thực hiện nghĩa vụ của họ là không khả thi và cũng chẳng còn ý nghĩa. Sẽ là lý tưởng nếu họ có thể trả tiền, ngồi trong phòng được thuê vào ngày đã định. Tuy nhiên, thực tế là mục đích của việc tham gia vào hợp đồng của họ không đạt được; mặc dù họ có thể thuê phòng, họ không thể sử dụng nó vào việc quan sát một cuộc tuần hành sẽ không xảy ra. Trong trường hợp này, tòa án cho phép họ hủy bỏ hợp đồng, cũng với lý do là hợp đồng không thực hiện được. Tòa án xác định là việc trì hoãn buổi đăng quang không phải là rủi ro mà người thuê phải chịu khi mà họ hiểu hợp đồng theo một cách thông thường hợp lý. 

Sẽ thế nào nếu việc thực hiện của một bên phụ thuộc vào một sự kiện và sự kiện đó không xảy ra? 

Cách phổ biến nhất để việc không thực hiện hợp đồng được chấp nhận là vì nghĩa vụ bạn phải thực hiện phụ thuộc vào việc có một điều gì đó xảy ra hoặc một điều gì đó không bao giờ xảy ra. Các luật sư gọi đó là điều kiện của nghĩa vụ. Quay trở lại vụ Hamer kiện Sidway, giả sử người chú hứa cho cháu 5.000 đô-la nếu người cháu nhịn không hút thuốc và uống rượu cho đến khi đủ 21 tuổi. Vào bữa tiệc sinh nhật lần thứ 21 của mình, chàng trai bảo người chú của mình rằng cậu ta vẫn uống rượu và hút một bao thuốc một ngày, nhưng cậu ra vẫn muốn nhận được tiền. Liệu người chú có nghĩa vụ phải tiền đưa cho cháu mình không? Tất nhiên là không. Lời hứa của ông chú cho cháu 5.000 đô-la rõ ràng là có điều kiện: Nếu cháu bỏ thuốc và rượu thì chú sẽ cho cháu số tiền đó. Và bởi vì điều kiện để người chú phải cho cháu tiền chưa bao giờ xảy ra nên người chú cũng không phải ràng buộc bởi nghĩa vụ này. Việc không bị ràng buộc xảy ra ngay cả khi người cháu chưa bao giờ hứa bỏ thuốc và rượu. Vì người cháu chưa bao giờ hứa nên người chú không thể kiện cháu điều kiện không giống như lời hứa nhưng trừ khi điều kiện đó đáp ứng được, còn không thì cháu không bao giờ có quyền đòi chú phải đưa tiền. 

Vụ việc này tương đối đơn giản bởi từ ngữ sử dụng trong việc hứa hẹn thể hiện rất rõ ràng điều kiện của nó. Giả sử một trường hợp khác, người chú đồng ý bán và cháu đồng ý mua chiếc ô tô với giá 5.000 đô-la. Cháu xuất hiện vào đúng thời gian và địa điểm đã định và thông báo với chú rằng cậu ta vẫn muốn lấy chiếc xe nhưng không muốn trả tiền, đòi lấy chìa khóa xe và quyền sở hữu, tuyên bố sẽ kiện chú nếu không giao xe cho cậu ta. Liệu người cháu có thể kiện được không? 

Thoạt tiên thì vụ việc này cũng đơn giản. Mặc dù trong thỏa thuận không nói rõ là người chú chỉ phải đưa ô tô nếu cháu trả tiền, chúng ta vẫn có thể đảm bảo rằng mọi việc phải đúng như vậy. Vì sao chúng ta biết được điều đó? Ở đây chúng ta cũng làm theo đúng cách thức tạo ra ý nghĩa của lời hứa mà chúng ta sử dụng để xác định liệu có tồn tại một lời hứa hay không, khi nào chúng ta cho rằng một hợp đồng đã được hình thành. Chúng ta không thể biết được ý định chủ quan của các bên, và về cơ bản thì cũng chẳng cần phải biết, nhưng chúng ta có thể xây dựng nên nhận thức về việc những gì được coi là hợp lý trong các tình huống cụ thể. Sẽ không hợp lý khi cho phép cháu lấy chiếc xe và chẳng đưa cho chú đồng nào ngoài việc dọa dẫm về khả năng xảy ra một vụ kiện, do vậy người cháu phải hoàn tất điều kiện ngầm định trong lời hứa của chú mang tiền đến trước khi cậu ta có thể được quyền sở hữu chiếc xe. Trong trường hợp này, lời hứa cũng trở thành điều kiện; nếu cháu không trả tiền, chú có thể từ chối giao xe (bởi vì điều kiện để chú phải thực hiện nghĩa vụ này đã không xảy ra) và kiện cháu vì đã vi phạm (bởi vì cháu đã vi phạm lời hứa là trả tiền cho chiếc xe). 

Mặc dù vậy, sự việc vẫn tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Điều kiện ở đây cũng có thể được giả thiết theo hướng khác. Cháu không buộc phải trả tiền cho chú trừ khi người chú đã giao xe cho cháu; cái mà người cháu mua là chiếc ô tô, không phải là để rước một vụ kiện vào thân. Và chúng ta có thể hình dung ra kết cục của sự việc trong một tình huống rất ngớ ngẩn, đó là chú thì cứ giữ chìa khóa và cháu thì giữ tiền, người này đòi người kia phải thực hiện nghĩa vụ trước rồi mình mới thực hiện. Khi đó cả hai đều bị coi là vi phạm hợp đồng vì đã không thực hiện nghĩa vụ, hay chẳng có người nào vi phạm cả vì điều kiện để người đó thực hiện nghĩa vụ chưa xảy ra? Ở đây, lại một lần nữa, chúng ta phải sử dụng kinh nghiệm và sự phán xét để đưa ra một giải pháp hợp lý. Thực ra người chú không cần phải đưa chìa khóa cho cháu trước khi điều kiện là cháu thực hiện nghĩa vụ trả tiền chưa xảy ra. Nếu chú đưa chìa khóa cho cháu, cháu có thể lái xe đi mà không trả tiền. Thay vì vậy, chú chỉ cần bày tỏ ý định thực hiện nghĩa vụ, bằng việc thể hiện là mình sẵn sàng, thiện chí và có khả năng thực hiện, và cháu cũng phải làm đúng như vậy. 

Nhiều hợp đồng chứa đựng những điều kiện không phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Hợp đồng bảo hiểm là một trong những ví dụ mà chúng ta gặp hàng ngày. Công ty bảo hiểm hứa thanh toán cho người chủ nhà bất kỳ thiệt hại nào xảy ra cho ngôi nhà mà người đó đã mua bảo hiểm, trong trường hợp ngôi nhà bị thiệt hại. Nếu ngôi nhà không bị thiệt hại, điều kiện để công ty bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ không bao giờ xảy ra, và công ty chẳng bao giờ phải thanh toán. 

Khi tòa án ra phán quyết rằng một nghĩa vụ theo hợp đồng là có điều kiện, liệu điều kiện đó có phải được đáp ứng hoàn toàn thì nghĩa vụ đó mới bắt buộc phải thực hiện không? Trong một số trường hợp thì đúng là như vậy; nếu người cháu chỉ có 2.000 đô-la trong tổng số 5.000 đô-la phải trả, cậu ta không thể đòi lấy chìa khóa của chiếc xe. Nhưng trong một số trường hợp khác, các điều kiện có thể được coi là đáp ứng mà không nhất thiết phải được thực hiện một cách hoàn toàn. Chúng ta sẽ cùng xem xét vụ Công ty Jacob & Youngs kiện Ken (1921) với các lập luận của vị thẩm phán vĩ đại Benjamin Cardozo. 

Kent thuê một công ty xây dựng có tên Jacob & Youngs để xây cho mình một dinh thự ở nông thôn được thiết kế theo cung cách riêng. Hợp đồng xây dựng có mô tả chi tiết về việc ngôi nhà phải được xây như thế nào, trong đó bao gồm cả yêu cầu đường ống dẫn nước bằng sắt đúc sẵn phải là “hàng của Reading” (được sản xuất bởi Công ty ống dẫn Reading, một nhà sản xuất rất đáng tin cậy). Khi việc xây dựng gần như đã hoàn tất, Kent biết được rằng Jacob & Youngs đã sử dụng một số ống dẫn của Công ty Cohoes thay vì của Reading. Kiến trúc sư của Kent yêu cầu Jacob & Youngs phải tháo dỡ hết các ống dẫn không đúng theo hợp đồng ra khỏi tường và thay bằng ống dẫn của Reading, mặc dù hai loại này tương đương nhau về chất lượng. 

Phần lớn những người chủ nhà có thể sẽ tha thứ cho Jacob & Youngs về việc không tuân thủ điều kiện do họ không thấy nhất thiết phải bắt tuân thủ hợp đồng một cách quá cứng nhắc. Tuy nhiên, Kent là một người nổi tiếng “chạy khắp thị trấn để đòi bằng được một đô-la”, và ông ta đưa hợp đồng ra, yêu cầu phải thực hiện đúng theo nó, bất kể phí tổn cho việc đó, và cũng không kể đến việc ông ta vẫn chưa trả cho Jacob & Youngs số tiền vẫn còn nợ trong hợp đồng. 

Đây là một vụ việc rất được chú ý. Jacob & Youngs không thực hiện đúng nghĩa vụ; liệu việc không thực hiện đúng nghĩa vụ này có ý nghĩa của việc điều kiện không được tuân thủ, giống như trường hợp người cháu không trả đủ tiền cho chiếc ô tô hay không? Có vẻ như không công bằng khi bắt nhà thầu phải thực hiện một khối lượng công việc vô ích để dỡ các đường ống Cohoes hoàn toàn có thể sử dụng tốt và thay bằng đường ống của Reading. (Và chúng ta có thể ngờ rằng Kent đã dự đoán nhà thầu sẽ không làm điều đó, vì thế Kent có thể giữ lại bất kỳ khoản tiền nào mà ông ta còn phải trả theo hợp đồng và chẳng làm gì về chuyện đường ống cả). Mặt khác, các bên đã xác lập một thỏa thuận trong đó chỉ rõ đường ống phải là của Reading, và thỏa thuận là thỏa thuận. 

Nhưng đó là một thỏa thuận như thế nào? Ở đây tòa án phán quyết rằng thỏa thuận không phải là Jacob & Youngs phải xây một tòa nhà chính xác như được mô tả thì mới được thanh toán, mà chỉ là phải xây về cơ bản là tuân thủ theo đúng thiết kế. Một số chỉnh sửa nhỏ, chẳng hạn như loại đường ống khác không có ảnh hưởng gì đến tính năng của ngôi nhà và không có ý nghĩa đáng kể; người chủ thầu vẫn phải được thanh toán đầy đủ. Nếu Jacob & Youngs để ngôi nhà dở dang, họ có thể sẽ chẳng nhận được đồng nào, nhưng nếu họ đã hoàn thành gần như là xong ngôi nhà thì Kent phải trả tiền. Thẩm phán Cardozo đã lập luận như sau: 

Người nào quan tâm nhiều đến sự cân đối và logic trong việc hình thành các quy tắc pháp lý hơn là làm cho nó thích ứng với thực tế để đạt được một kết quả công bằng sẽ gặp khó khăn với việc phân loại khi mà ranh giới để phân biệt khá mờ nhạt và không phải là bất biến. Có những điều mà, không nghi ngờ gì, có thể phải được đánh giá theo yêu cầu chắc chắc và nhất quán, thiên về các chuẩn mực chặt chẽ. Tòa án phải cân bằng được những yêu cầu này với các yêu cầu về công lý và công bằng, và những yêu cầu sau phải được chú trọng hơn.

Có một vấn đề có liên quan đến sự thỏa mãn điều kiện. Giả sử Kent thuê một người trang trí nội thất để lập ra một bản thiết kế cho ngôi nhà ở nông thôn. Kent là người rất kiểu cách, vì vậy ông ta hứa thanh toán cho nhà thiết kế nội thất này gấp đôi nếu ông ta thích bản thiết kế và nếu không thích thì sẽ chẳng thanh toán đồng nào. Nhà thiết kế làm việc miệt mài và kết quả là có được một bản thiết kế đoạt giải thưởng, được các nhà phê bình nghệ thuật và cả các nhà thiết kế khác tung hô. Không may là Kent lại không thích nó và từ chối thanh toán. Liệu chúng ta có thể cho rằng bản thiết kế cũng giống đường ống nước: rằng bất kỳ ai khác cũng đồng ý nó như vậy là tốt và người chủ phải hài lòng với nó hay không? Trường hợp này không phải như vậy. Sự hài lòng, trong trường hợp của đường ống nước, dựa trên các đặc điểm về chức năng thuần túy, trong khi sự hài lòng đối với một bản thiết kế mang tính nghệ thuật thì lại phụ thuộc vào quan điểm cá nhân. Quyền tự do của Kent trong việc thiết lập một thỏa thuận theo các yêu cầu của mình dẫn tòa án đi đến kết luận rằng nếu Kent không thích bản thiết kế, điều kiện để cho ông ta phải thanh toán đã không xảy ra. (Tuy nhiên, Kent thực sự phải không thích bản thiết kế; ông ta không thể sử dụng sự không hài lòng một cách có chủ ý của mình để từ bỏ các nghĩa vụ trong hợp đồng khi lý do thực chất không phải như vậy). 

Những ví dụ này cho thấy luật về các điều kiện là cực kỳ phức tạp và cũng cực kỳ quan trọng. Xem xét liệu có phải có điều kiện được đặt ra hay không, điều kiện đó là gì và liệu có phải nó đã được thỏa mãn hay không chiếm một phần lớn trong các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. 

Tòa án có bắt buộc ai đó phải thực hiện một hợp đồng hay không? 

Nếu có ai đó không thực hiện điều mình đã hứa tức là người đó đã vi phạm hợp đồng. Một hệ quả thông thường đối với việc vi phạm hợp đồng là bên kia không phải thực hiện nghĩa vụ thuộc về phần của mình. Bên vi phạm hợp đồng trước đã tạo ra một tình huống không thỏa mãn điều kiện để bên kia phải thực hiện nghĩa vụ, giống như trường hợp chú không phải giao chìa khóa xe cho cháu nếu cháu không thanh toán. Không bị yêu cầu phải thực hiện hợp đồng và nếu có thể, có quyền giữ lại một phần nghĩa vụ phải thực hiện đối với bên kia (chẳng hạn như giảm số tiền phải thanh toán) thường là lợi thế lớn nhất mà một bên trong quan hệ hợp đồng có thể có được. 

Hậu quả khác của việc vi phạm hợp đồng là bên bị vi phạm có quyền sử dụng những biện pháp pháp lý đối với hành vi vi phạm. Chúng ta có thể suy luận ra là bên bị vi phạm có thể yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ, chẳng hạn như giao hàng hóa, hay thực hiện công việc đã hứa hẹn. Đưa ra yêu cầu bên vi phạm phải thực hiện hợp đồng sẽ khẳng định được tầm quan trọng của việc giữ lời hứa và đảm bảo rằng bên kia không bị thiệt hại bởi hành vi vi phạm. 

Tuy nhiên, trong luật hợp đồng, yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ (còn được gọi là thực hiện một nghĩa vụ cụ thể) là một biện pháp có tính ngoại lệ, chỉ xảy ra đối với một số vụ việc. Thông thường, bên bị vi phạm chỉ có quyền đòi bồi thường thiệt hại để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ đã giao kết, chứ không phải chính việc thực hiện nghĩa vụ đó. 

Có ba lý do để tòa án coi việc thực hiện một nghĩa vụ cụ thể như một biện pháp ít dùng. Lý do thứ nhất mang tính lịch sử. Bồi thường thiệt hại bằng tiền vốn vẫn thường được tòa án sử dụng. Yêu cầu ai đó phải làm một công việc như là một biện pháp pháp lý thường chỉ có ở các tòa án công lý. Xuất phát từ sự bất đồng về mặt chính trị giữa tòa án áp dụng luật thông thường và tòa án công lý, các biện pháp dựa trên các nguyên tắc của luật công lý, chẳng hạn như thực hiện nghĩa vụ cụ thể, được quan niệm là mang tính ngoại lệ. (Xem thêm Chương 4). 

Lý do thứ hai xuất phát từ thực tế. Trong nhiều vụ việc, tòa án gặp khó khăn trong việc yêu cầu ai đó phải làm một việc rồi lại phải xác định xem liệu người đó có tuân thủ yêu cầu không. Nếu hợp đồng yêu cầu một chủ thầu xây dựng phải xây một ngôi nhà, một số điều khoản trong hợp đồng có thể rất dễ để đánh giá mức độ thực hiện chẳng hạn như ngôi nhà đó có được xây đúng kích thước như trong bản thiết kế không nhưng cũng có những điều khoản khác rất khó để xác định liệu là phần đồ mộc có được thực hiện “theo cách khéo léo” không? Tòa án không muốn phải xem xét một quá trình thực hiện công việc đầy phức tạp và phải nghe các bên hết lần này đến lần khác chạy đến tòa để phàn nàn về khía cạnh này khác của nó.

Lý do thứ ba mang tính quan niệm. Nguyên tắc căn bản của các biện pháp pháp lý trong quan hệ hợp đồng là một hợp đồng điển hình luôn có giá trị tiền tệ. Luật hợp đồng có nhiệm vụ bảo vệ cho những người đang dựa vào lời hứa của người khác, nhưng họ có thể được bảo vệ hoàn toàn thông qua việc đưa cho họ giá trị tiền tệ tương ứng với giá trị mà việc thực hiện lời hứa mang lại cho họ, chứ không nhất thiết cứ phải là thực hiện công việc đó. Bồi thường thiệt hại bằng tiền được coi là có tác dụng giống như thực hiện công việc đã hứa hẹn bởi bên bị thiệt hại có thể sử dụng số tiền để tìm kiếm sự thay thế có sẵn trên thị trường. Nếu hợp đồng liên quan đến xây nhà và bên thầu xây dựng không thực hiện nó, người chủ có thể thuê nhà thầu khác và kiện nhà thầu trước vì giá phải trả cao hơn, nếu có; còn nếu người chủ vi phạm, bên thầu xây dựng có thể yêu cầu nhận được khoản lợi nhuận lẽ ra có thể nhận được do thực hiện công việc này. 

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại bằng tiền như một sự thay thế tương xứng cho việc thực hiện hợp đồng là một nguyên tắc có ảnh hưởng rất mạnh và có rất ít ngoại lệ cho nó. Chỉ khi nào tiền bồi thường thiệt hại không thể thay thế cho việc thực hiện hợp đồng thì khi đó bên bị vi phạm mới có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đã ghi trong hợp đồng. Điều này thường xảy ra chỉ khi thứ đem ra bán là duy nhất và thị trường không có cái thay thế. Chẳng hạn nếu người mua hợp đồng để mua một chiếc Cadillac mới tại một đại lý bán hàng của GM và đại lý bán hàng vi phạm nghĩa vụ, người mua không có quyền yêu cầu thực hiện trách nhiệm bán hàng bởi vì người đó có thể mua được chiếc xe giống hệt như vậy ở chỗ khác. Nếu người mua lại hợp đồng để mua chiếc xe Cadillac cũ đời 1992 và người bán vi phạm nghĩa vụ, sẽ rất khó để người mua có thể tìm được chiếc xe với model giống hệt như vậy và ở trong tình trạng tương tự, nhưng thậm chí ngay cả khi đó, tòa án vẫn có thể cho rằng tiền bồi thường thiệt hại là đủ bởi người mua vẫn có thể mua được một chiếc xe tương tự. Nhưng nếu người mua hợp đồng mua chiếc xe Cadillac vàng đời 1966 của Elvis Presley, người mua sẽ có quyền yêu cầu thực hiện hành vi cụ thể. Chiếc Cadillac của Elvis là duy nhất, vì thế không có khoản bồi thường thiệt hại nào có thể bù đắp lại được thiệt hại.

Nguyên tắc cho rằng tiền bồi thường thiệt hại đủ để thay thế cho việc thực hiện hợp đồng dựa trên một quan điểm về vai trò của luật hợp đồng trong xã hội. Luật hợp đồng thuần túy giải quyết các quan hệ kinh tế trong xã hội và không có vấn đề đạo đức trong đó. Hậu quả duy nhất của việc không giữ lời hứa là bên vi phạm phải bù đắp cho bên bị vi phạm các thiệt hại xảy ra. Không có sự kết án nào về mặt đạo đức đối với hành vi vi phạm hợp đồng, cho nên pháp luật cũng không đòi hỏi bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hay trừng phạt anh ta vì hành vi vi phạm. Trong xã hội hiện đại, quan điểm này còn được phát triển thành một nguyên lý kinh tế có thể khiến nhiều người ngạc nhiên, có tên gọi là sự vi phạm có lợi. Đó là, nếu một bên vi phạm hợp đồng bởi anh ta có thể có được một thỏa thuận khác có lợi hơn thì đó không chỉ không bị coi là xấu mà còn đáng khen. Bởi khi bên vi phạm đã bồi thường thiệt hại thì hiệu quả kinh tế được bảo toàn và tất cả mọi người đều có lợi; bên bị vi phạm có được lợi ích ngang bằng với cái đã được cam kết và bên vi phạm thì đạt được một thỏa thuận có lợi hơn cho mình. 

Nguyên tắc về sự vi phạm có lợi cũng có điểm yếu. Sự bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm nếu có thể thì cũng rất hiếm khi có khả năng bù đắp hết cho những tổn thất của bên bị vi phạm. Một trong số những lý do có thể đưa ra là bên bị vi phạm phải trả phí luật sư và các chi phí khác cho vụ kiện. Hơn nữa, theo nhận thức thông thường, sự vi phạm có lợi chỉ dừng lại ở một nửa sự việc. Chúng ta thường nghĩ đến hệ thống pháp luật như là một trật tự về mặt đạo đức. Một trong những điều mà luật hợp đồng cần làm là chỉ ra cái gì đúng và cái gì sai. Giữ lời hứa là đúng, còn phá bỏ nó là sai, và dù có bồi thường thiệt hại thì cũng không thể làm cho nó trở thành đúng hoàn toàn được. Tuy nhiên, quan điểm này đã bị bác bỏ gần như hoàn toàn trong các giải pháp pháp lý của luật hợp đồng. 

Người không giữ lời sẽ phải bồi thường ở mức nào?

Hợp đồng có giá trị thực thi bởi mọi người đều trông đợi rằng ai đã hứa thì sẽ phải thực hiện lời hứa đó. Khi một lời hứa bị phá bỏ, sự trông đợi của bên bị vi phạm trở thành thước đo phổ biến để đánh giá mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng. 

Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Một nông dân đồng ý bán một xe tải bí ngô cho chủ một cửa hàng nông sản ở ven đường cái với mức giá 100 đô-la. Khi người nông dân đó không giao được số bí này, người chủ cửa hàng mua một xe tải bí từ một nông dân khác với giá 120 đô-la. Người chủ cửa hàng vốn trông đợi rằng mình chỉ phải trả 100 đô-la để lấy xe tải bí, vì vậy yêu cầu người nông dân không thực hiện đúng hợp đồng kia phải bồi thường 20 đô-la là đủ để làm thỏa mãn sự trông đợi của ông ta. Nếu người chủ cửa hàng mua số lượng bí thay thế với mức giá 100 đô-la hay ít hơn thế thì người nông dân vi phạm kia sẽ không phải bồi thường gì, bởi ông chủ cửa hàng vẫn đảm bảo được lợi ích như khi người nông dân kia thực hiện lời hứa của mình, kể cả khi không trả tiền bồi thường thiệt hại. 

Tương tự, nếu người chủ cửa hàng từ chối lấy bí và người nông dân phải bán nó với giá 90 đô-la, người chủ cửa hàng phải trả 10 đô-la tiền bồi thường thiệt hại để đưa người nông dân trở lại vị trí đúng như khi lời hứa được thực hiện: không còn bí trong xe tải và trong túi của ông ta thì có 100 đô-la. Nếu thị trường bí không giảm giá và người nông dân lại bán được nó với mức giá 100 đô-la hay cao hơn, người chủ cửa hàng không phải bồi thường gì cả. 

Trong tất cả các trường hợp này, chúng ta đều giả định là bên bị vi phạm không phải chịu phí tổn gì, kể cả khi mua bí thay thế hay bán bí cho người khác. Nếu như có những khoản phí tổn đó, chúng ta sẽ phải cộng chúng vào tổng thiệt hại. Chẳng hạn, nếu người nông dân kia phải chở bí đi xa hơn để bán lại chúng sau khi người chủ cửa hàng đã vi phạm hợp đồng, người nông dân sẽ phải được nhận chi phí chuyên chở; nếu ông ta không nhận lại được phần chi phí chuyên chở thì tức là trông đợi của ông ta từ hợp đồng đã không được đáp ứng. 

Giả sử khi người nông dân vi phạm, người chủ cửa hàng không mua bí thay thế. Luật pháp quy định rằng ông ta vẫn có quyền được bồi thường thiệt hại, tính toán bằng số tiền mà ông ta phải bỏ thêm khi mua bí thay thế. Nếu giá thị trường tăng lên đến 120 đô-la một xe tải bí, người chủ cửa hàng này có quyền đòi bồi thường 20 đô-la mặc dù thực tế ông ta không phải bỏ số tiền đó ra. Các giải pháp pháp lý của luật hợp đồng dựa trên sự trông đợi vào việc thực hiện hợp đồng chứ không phải vào hành động thực tế thực hiện dựa trên sự trông đợi đó. Lý do cho điều này không được làm rõ lắm, nhưng những khó khăn gặp phải trong những tình huống phải chứng minh được là ai đó thực sự đã dựa vào một hợp đồng cụ thể cần phải được giải quyết. Nếu người mua không phải là chủ của một cửa hàng nhỏ ven đường mà là Libby's  và mua hàng ngàn xe tải bí để chế biến thành món bánh nướng nhân bí, sẽ rất khó để liên hệ một hợp đồng cụ thể bị vi phạm với một sự thay thế cụ thể, nhưng chúng ta có thể hình dung là thế nào cũng có thiệt hại. 

Luật hợp đồng đặt ra những giới hạn nhất định đối với những thiệt hại dựa trên sự trông đợi. Một trong những giới hạn đó là thiệt hại phải được nhìn thấy trước. Giả sử hợp đồng mua bán bí đặt ra ngày giao hàng là 15 tháng 10 và người chủ cửa hàng đã dàn xếp để có thể bán nó với một mức giá nhất định cho một số lớp học để làm lồng đèn bí ngô vào dịp lễ Halloween. Khi người nông dân không giao được bí thì cũng đã quá muộn để người chủ cửa hàng có thể tìm mua được bí từ chỗ khác, vì thế ông ta bị thiệt hại nhiều hơn là mức giá chênh lệch thông thường khi bán bí. Ở đây, trông đợi của người chủ cửa hàng cao hơn thông thường, và vấn đề đặt ra sẽ là bên nào phải gánh chịu thiệt hại này. Người chủ cửa hàng sẽ nêu ra sự trông đợi của mình vào một khoản lợi nhuận cao hơn thông thường, còn người nông dân thì đáp lại rằng ông ta không hề biết gì về dự dịnh đặc biệt của người chủ cửa hàng kia. Pháp luật thì cho rằng chỉ khi người nông dân biết hoặc thông thường là phải biết về thiệt hại cụ thể thì ông ta mới phải chịu trách nhiệm về nó. Do không có sự kết án nào về mặt đạo đức được áp dụng đối với những trường hợp lời hứa không được thực hiện, bên đưa ra lời hứa hẹn chỉ phải hành động một cách hợp lý, trong đó có việc phải bồi thường cho những thiệt hại mà ông ta có thể nhìn thấy trước được. Cách tiếp cận này cho thấy sự tương phản rất thú vị với luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn, trong đó bên gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm đối với tất cả các hậu quả, dù có nhìn thấy trước hay không, do lỗi trong luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn là yếu tố quan trọng hơn so với trong luật hợp đồng. 

Giới hạn thứ hai được đặt ra là bên không vi phạm không thể yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại mà người đó có thể tự tránh được nếu hành động một cách hợp lý. Quy tắc này áp dụng phổ biến nhất trong các hợp đồng lao động. Nếu một giám đốc doanh nghiệp bị thải hồi khi hợp đồng vẫn còn thời hạn 6 tháng, liệu cô ta có thể chỉ ngồi nhà xem phim truyền hình và ăn kẹo rồi vẫn lĩnh lương hay không? Không nhất thiết phải thế. Nếu cô ta tìm kiếm công việc khác hay nhận làm một công việc tương tự nếu có người mời, thiệt hại của cô ta sẽ giảm đi ở mức mà người tuyển dụng cũ của cô ta có thể chứng minh là cô ta có thể kiếm được bằng một công việc khác thay thế. Chuẩn mực ở đây chính là sự hợp lý; cô ta không bị buộc phải đi từ đầu này sang đầu kia đất nước chỉ để kiếm một công việc, và cũng không phải chấp nhận một công việc với mức lương tối thiểu ở McDonald's.

Giới hạn thứ ba là thiệt hại phải chứng minh được ở mức độ rõ ràng cần thiết. Giới hạn này có thể gây ra những khó khăn đặc biệt trong những vụ việc của các doanh nghiệp mới thành lập. Giả sử một doanh nhân có kế hoạch mở một nhà hàng mới vào ngày 1 tháng 3, nhưng việc khai trương bị trì hoãn hai tháng do bên cung cấp thiết bị nhà bếp không giao lò bếp và tủ lạnh đúng hạn. Doanh nhân này có thể sẽ rất khó chứng minh với mức độ chắc chắn hợp lý rằng lợi nhuận của nhà hàng sẽ ở mức nào trong thời gian hai tháng; lượng khách lui tới của một nhà hàng rất có tính suy đoán, và thật khó để suy luận từ thực tiễn kinh doanh của các nhà hàng khác. 

Giả thiết này cho thấy rằng cần có những giải pháp pháp lý khác bổ sung cho các quy tắc về thiệt hại liên quan đến sự trông đợi. Thiệt hại do niềm tin được chấp nhận khi thiệt hại do trông đợi không áp dụng được, để bù đắp cho chi phí mà bên bị vi phạm phải chịu khi dựa vào các cam kết trong hợp đồng. Người chủ nhà hàng có thể không khôi phục lại được những tổn thất là lợi nhuận bị mất, nhưng nếu người đó phải bỏ ra hàng trăm đô-la để mua các trang quảng cáo trên báo chí và in giấy mời đến dự khai trương vào ngày 1 tháng 3., những chi phí đó đã uổng phí và nhà cung cấp phải chịu trách nhiệm vì những chi phí đó như là những thiệt hại do niềm tin. Thiệt hại do phải khôi phục trang thái ban đầu là những chi phí để khôi phục lại những lợi ích đã chuyển cho bên kia. Nếu người chủ hủy bỏ hợp đồng với nhà cung cấp và mua thiết bị ở nơi khác, người chủ nhà hàng đó có quyền lấy lại khoản tiền đã trả. 

Nếu các quy tắc về thiệt hại trong quan hệ hợp đồng được vận dụng tốt, người ta sẽ ít khi vi phạm hợp đồng. Trừ khi ai đó có thể có được một thỏa thuận tốt hơn nhiều khi vi phạm hợp đồng và đi giao kết với người khác, còn nếu không sẽ chẳng đáng để người ta bồi thường thiệt hại cho bên kia. Nhưng những quy tắc về bồi thường thiệt hại lại không vận hành tốt lắm. Ngoài các giới hạn về khả năng có thể nhìn trước được, có thể tránh được và sự chắc chắn đối với các thiệt hại của các lợi ích được trông đợi, người ta còn phải chịu phí tổn để được bồi thường. Bên bị vi phạm còn phải thuê luật sư và trả các chi phí kiện tụng. Các chi phí này cũng là những thiệt hại gây ra do việc vi phạm hợp đồng, nhưng chúng không được bồi thường như những thiệt hại từ hợp đồng. Vì vậy nếu bên bị vi phạm bị mất 10.000 đô-la, người đó có thể phải trả 2.000 đô-la cho luật sư và các chi phí khác để được nhận lại nó, có nghĩa là người đó sẽ bị mất khoản tiền này. Ngoài ra, lại còn mất thời gian và sự khó chịu khi theo đuổi việc kiện tụng, và gánh nặng tài chính cũng như tâm lý là không thể bù đắp được. Do đó, rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng không đáng để theo kiện. 

Tuy nhiên, từ một góc độ khác, nhắc lại các biện pháp đảm bảo của luật hợp đồng, ví dụ các quy tắc về trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hợp đồng, thực ra là thừa. Sự răn đe mà các biện pháp pháp lý này mang lại trong việc ngăn ngừa người ta khỏi thất hứa không quan trọng bằng các yếu tố khác. Mọi người sẽ tránh thất hứa bởi người ta thấy làm như vậy là không đúng đắn. Người khác sẽ nghĩ không tốt về họ, mà danh tiếng thì mới là thứ tài sản đáng quý trong làm ăn. Đối tác làm ăn có thể sẽ từ chối hợp tác với họ trong tương lai nếu họ vi phạm hợp đồng. Vì vậy, các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng, giống như những phần khác của luật hợp đồng, cũng chỉ là một phần của câu chuyện.

Bình luận