Quá trình tranh tụng
Kiện tụng là phần hệ thống pháp luật mà mọi người nghĩ đến trước tiên. Hãy tưởng tượng bạn đang ở tòa án. Đừng có mà làm to chuyện. Tôi sẽ đưa vụ việc ra Tòa án Tối cao. Đó cũng là phần phức tạp nhất trong hệ thống pháp luật. Trong vụ kiện xung quanh việc vỡ nợ trái phiếu của Washington Public Power System, rất nhiều luật sư đã chào mức phí tư vấn pháp lý là 300 triệu đô-la trong thời hạn mười ba năm – và còn những vụ kiện không bao giờ được đưa ra xét xử trên thực tế. Làm thế nào các luật sư có thể trình một vụ việc tưởng chừng hết sức đơn giản và làm cho vụ việc đó trở nên phức tạp? Kiện tụng có phải theo cách như vậy không? Câu trả lời nằm trong môn học mà các sinh viên luật thấy khác xa với kinh nghiệm của họ thủ tục tố tụng dân sự.
Thủ tục tố tụng dân sự là gì?
Tranh tụng là một trình tự của hệ thống pháp luật để giải quyết tranh chấp giữa các bên riêng rẽ; thủ tục tố tụng dân sự là phần chính yếu của luật cơ cấu nên bộ máy này.
Tranh tụng bắt đầu bằng một tranh chấp giữa hai hoặc nhiều người, công ty, hoặc tổ chức. Bất kỳ loại tranh chấp nào đều có thể dẫn đến kiện tụng: một tai nạn xe hơi, một vi phạm hợp đồng, một khiếu nại về hành vi quấy rồi tình dục của nhân viên, một khiếu nại về các quyền dân sự đối với chính phủ. Nếu những người trong vụ tranh chấp không thể tự giải quyết được vấn đề của mình, họ có thể thuê luật sư đàm phán, đe dọa, hoặc cố gắng giải quyết tranh chấp bằng cách nào đó. Nếu phương cách trên không có tác dụng, họ sẽ đưa ra tòa.
Thời xưa, hoàng đế nước Anh sẽ ngồi và “tổ chức buổi thiết triều” lưu động. Cụ thể, ngài ngồi tại một quảng trường, một sân công cộng hay một địa điểm ngoài trời và thực hiện việc xét xử, ngoài các phần việc khác trong triều đình. John Doe, một trong những thần dân, đến khiếu nại rằng người hàng xóm Richard Roe đã làm con bò của anh ta bị thương phải đi tập tễnh. Đức Vua triệu tập Roe, nghe mỗi người trình bày, và phán quyết liệu Roe có phải trả tiền bồi thường vì làm con bò bị thương. (Doe và Roe là hai cái tên thông tục hay đặt cho những người ưa kiện tụng được hư cấu hoặc dấu tên. Nguyên đơn trong vụ kiện về nạo phá thai nổi tiếng là vụ Roe kiện Wade đã tuân thủ quy ước này bằng cách tự đặt tên mình là Jane Roe nhằm che dấu danh tính thật). Qua thời gian, đức vua phải ra các tuyên cáo của triều đình, tìm cách kiềm chế các quý tộc đầy tham vọng, chống lại các cuộc chiến tranh, và thực hiện các công việc khác, vì vậy ngài trở nên quá bận để có thể xét xử trực tiếp toàn bộ các tranh chấp cá nhân của thần dân. Vì vậy vua trao quyền thực hiện công việc này cho một số quan lại trong triều đình. Thêm nhiều thời gian trôi qua, các vị này đã thể chế hóa chức năng của mình và trở thành thẩm phán xét xử các vụ kiện tụng ở tòa.
Câu chuyện nhỏ này đã cho chúng ta biết nhiều điều về vấn đề tranh tụng. Tranh tụng là một quá trình giải quyết tranh chấp có căn cứ xác đáng của chính phủ. Những người có vấn đề kiện tụng trình bày lập luận của mình với các quan chức được chính phủ ủy quyền để nghe những lập luận của đương sự và ra phán quyết về tranh chấp. Bằng cách lợi dụng một số chi tiết và hàm ý của câu chuyện, chúng ta có thể hiểu đầy đủ hơn về thủ tục tố tụng dân sự và quá trình tranh tụng.
Trước tiên, Doe không phải đến triều đình, và trong hầu hết các trường hợp, những người như Doe sẽ không đến triều đình. Có thể con bò không phải bị thương nặng và Doe không muốn bị cho là người hay kiện tụng, vì vậy anh quyết định bỏ qua sự việc. Hoặc giả anh đàm phán với Roe và họ sẽ đạt được thỏa thuận trên tinh thần thiện chí rằng Roe sẽ cho Doe mượn con bò của mình khi anh ta cần. Có thể anh cũng muốn kiện nhưng anh không thể mất thời gian đi đến triều đình và sao nhãng công việc đồng áng.
Thậm chí ngày nay, tranh tụng cũng là một sự kiện ít xảy ra. Nhiều người bị tổn hại và xúc phạm trong cuộc sống hàng ngày, nhưng khá ít người đưa vụ việc ra kiện tụng. Kiện tụng là một quá trình tốn nhiều thời gian, tiền bạc, hao tổn tinh thần và thường chỉ áp dụng với các vụ việc có ý nghĩa thực sự quan trọng về mặt xã hội và tiền bạc. Các vụ kiện thảo luận trong chương này và các chương khác trong cuốn sách chỉ là đỉnh chóp của núi băng chìm về những vấn đề xã hội mà quá trình kiện tụng có thể giải quyết được.
Thứ hai, tại các quốc gia chịu sự ảnh hưởng của luật Anh, bao gồm Hoa Kỳ, tranh tụng là một quá trình đối chất. Các bên theo kiện sẽ chịu sự chi phối của phương pháp này. Doe quyết định liệu có nên trình vụ kiện lên đức vua và anh sẽ phải nói gì khi ở đó. Roe có cơ hội trình bày các sự việc và lập luận của mình. Phần đức vua, ngài sẽ lắng nghe cả hai bên và sau đó ra phán quyết.
Ngày nay, trình tự này phức tạp hơn nhiều, nhưng về cơ bản vẫn là đối chất. Kiện tụng dân sự là việc tranh luận giữa các bên, và luật sư đại diện cho các bên có vai trò chính trong việc định hình một vụ kiện. Luật sư quyết định ai bị kiện, địa điểm, và thời gian khởi kiện, các vấn đề pháp lý sẽ nêu, cách thức điều tra sự việc, chứng cứ là gì và các bằng chứng nào sẽ được đưa ra. Thẩm phán là trọng tài để đảm bảo rằng luật sư tuân thủ các quy tắc của trò chơi và đưa ra phán quyết cuối cùng của vụ kiện, hoặc giám sát bồi thẩm đoàn về phán quyết vụ kiện. Tuy nhiên, kiểu hệ thống đối chất thuần túy không bao giờ được hoàn toàn giám sát trên thực tế. Đặc biệt trong những năm gần đây, khi khối lượng vụ kiện đã tăng lên và các tòa án trở nên quá tải, các thẩm phán ngày càng có xu hướng kiểm soát các vụ kiện trong thẩm quyền của họ bằng cách cố gắng thu hẹp vấn đề, khuyến khích hòa giải, và nói chung giúp cho mọi việc tiến triển.
Thứ ba, kiện tụng luôn liên quan đến việc tìm hiểu sự việc và đưa ra hoặc áp dụng các chế định pháp luật. Khi vua nghe Doe trình bày rằng Roe đã làm con bò bị thương, đó chưa phải là phần kết của câu chuyện. Roe đáp lại rằng con bò lúc anh mượn của Doe dường như đã đi hơi tập tễnh, dù vết thương có lẽ bị nặng hơn khi nó bước hụt xuống cái hố trên cánh đồng của Roe. Đức vua sẽ phải phán quyết thời điểm con bò bị què và, nếu quả thực Roe là người đã gây ra hậu quả đó, liệu người mượn bò có trách nhiệm đối với thương tật của con vật đã mượn. Tình huống này cũng đúng trong mọi vụ kiện ngày nay.
Thứ tư, tranh tụng dân sự không phải là hình thức giải quyết tranh chấp duy nhất của chính phủ. Nếu Roe mượn con bò của Doe và không trả lại, Doe có thể yêu cầu nhà vua bắt Roe phải trả lại con bò hoặc trả tiền đền cho con bò đó; chúng ta coi đó là một vụ kiện dân sự. Nhưng khi vua nghe câu chuyện, có thể vua đã hiểu hành vi theo khía cạnh khác và tống Roe vào tù; khi đó lại trở thành một vụ kiện hình sự. Một tranh chấp giữa hai người, khi vai trò duy nhất của chính phủ là cung cấp hệ thống giải quyết tranh chấp (các tòa án), đó là tranh tụng dân sự. Biện pháp chế tài điển hình trong các vụ kiện dân sự là các phán quyết về bồi thường tiền bạc hoặc ra lệnh thực hiện một công việc nào đó (chẳng hạn trả lại con bò). Khi chính phủ theo đuổi vụ kiện và có khả năng áp dụng hình phạt bao gồm phạt tiền, bỏ tù, hoặc thậm chí tử hình, đó là tranh tụng hình sự.
Cuối cùng, khi vua nước Anh tổ chức buổi thiết triều riêng và tự đưa ra phán quyết về các tranh chấp của thần dân, thì ít cần đến các quy tắc về người có thể thưa kiện hoặc quy trình nào họ phải tuân thủ. Vua chính là nguồn xét xử công minh và nhân vật có thẩm quyền phán quyết trong lĩnh vực này, vì vậy nếu các thần dân có vấn đề, đơn giản họ có thể đến gặp nhà vua và trình bày. Khi tòa án đã dần thể chế hóa, các vấn đề ngày càng trở nên phức tạp. Ngày nay, các tòa án sẽ quá tải nếu mọi người đơn giản chỉ bước vào và lên tiếng than phiền. Để đối phó với tình huống này, các cơ quan lập pháp và tòa án đã đặt ra các quy tắc để chi phối quá trình tranh tụng. Phần chính của các quy tắc này được biết đến là luật tố tụng dân sự trong đó quy định từng bước quá trình tranh tụng dân sự từ đầu đến cuối.
Thủ tục tố tụng dân sự thường là môn học khó nhất đối với các sinh viên luật bởi vì nó rất xa lạ với họ. Mọi người biết một ít về các cam kết, tai nạn, và quyền sở hữu, vì vậy họ có thể bắt đầu hiểu những vấn đề cơ bản của luật hợp đồng, luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn và luật sở hữu. Nhưng dường như thủ tục tố tụng dân sự là luật duy nhất dành riêng cho các luật sư. Chương này cố gắng giải thích phần khác biệt của thủ tục tố tụng dân sự trong phạm vi cụ thể các mục tiêu, giá trị của các hệ thống tranh tụng và quy tắc của thủ tục tố tụng. Có một bức tranh lớn ở đây liên quan đến các giá trị cơ bản mà chúng ta muốn các hệ thống này cung cấp. Nếu bạn hình dung bức tranh trong đầu bắt đầu bằng một giả thuyết đơn giản về Doe và Roe các chi tiết sẽ dễ hiểu hơn.
Tại sao chúng ta cần tranh tụng dân sự và thủ tục tố tụng dân sự?
Những vụ kiện tụng thường thấy nhan nhản trên các tờ báo, những buổi trao đổi trên đài phát thanh, và trong các cuộc vận động chính trị: Quá nhiều kiện tụng. Quá nhiều luật sư. Mọi người kiện tụng về mọi thứ. Nhưng bất kể bạn thắng hay thua kiện, bạn vẫn sẽ hao tốn một khoản tiền.
Hầu hết các kiện cáo là về luật nội dung, chứ không phải thủ tục tố tụng dân sự hoặc hệ thống tranh tụng. Chẳng hạn, nhiều nhà bình luận lo ngại rằng luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn nằm ngoài tầm kiểm soát. Nhưng phần lớn các chỉ trích nhằm vào luật tố tụng, các luật sư và thẩm phán đã thực hiện thủ tục đó. Thực sự thủ tục đó cồng kềnh, tốn kém, và mất quá nhiều thời gian. Liệu có nhất thiết phải tuân thủ đúng theo phương thức này?
Hãy trở lại vấn đề ban đầu: Các vấn đề nảy sinh giữa người với người; và chính họ đã đẩy nhiều vấn đề đi quá xa. Nhiều vấn đề được giải quyết thông qua đàm phán, gây áp lực kinh tế, hoặc các phương tiện không chính thức khác. Nhưng vẫn còn các vụ tranh chấp mà các bên không thể tự giải quyết được. Và quá trình tranh tụng cung cấp một bộ máy để giải quyết những tranh chấp này.
Hãy xem điều gì xảy ra với các nền văn hóa không có tranh tụng. Chẳng hạn, trong các vụ buôn bán thuốc phiện, tranh chấp và khiếu nại về quyền lợi có thể được giải quyết bằng các vụ nổ súng. Nhưng ngoài sự đe dọa bằng vũ lực, việc xuất hiện các mối bất hòa không giải quyết được đã làm xói mòn ý thức của dân chúng về trật tự xã hội và tinh thần. Trong một xã hội công bằng, trật tự và yên bình, các vấn đề sẽ được giải quyết và sự bất công sẽ được điều chỉnh.
Tuy nhiên, chúng ta không cần một hệ thống tranh tụng đối chất phức tạp để giải quyết những tranh chấp này. Chúng ta có thể thông qua một thủ tục ít tốn kém và đơn giản hơn nhiều một thẩm phán đơn giản có thể tung một đồng tiền xu quyết định người nào thắng kiện. Hoặc thẩm phán có thể phán quyết có lợi cho bên đã hối lộ ông ta một khoản lớn. Các tòa án và cảnh sát lúc đó đơn giản chỉ là thực thi các phán quyết. Hệ thống đó có thể giải quyết nhiều vấn đề với chi phí thấp hơn nhiều. Nhưng một hệ thống xét xử dựa trên tính cơ hội hoặc tham nhũng đã vi phạm hai trong những tín điều căn bản về sự công bằng: Các tòa án nên đưa ra phán quyết dựa trên nguyên tắc khá công bằng của luật nội dung, và họ sẽ thực hiện như vậy sau khi tuân thủ nguyên tắc công bằng.
Nhiệm vụ đầu tiên của thủ tục tố tụng dân sự lúc đó là thực hiện các quy tắc cơ bản của luật và các giá trị, chính sách mà các quy tắc dựa vào. Khi một cơ quan lập pháp hoặc tòa án công bố một quy tắc luật, quy tắc đó đơn giản phải có hiệu lực về mặt pháp lý. Mọi người tôn trọng pháp luật và thường tuân thủ pháp luật mà không cần phải đe dọa trừng phạt. Nhưng việc tranh tụng cung cấp một bộ máy hỗ trợ cho những vụ kiện trong đó nhiều người có những hành vi không phù hợp với các quy định của pháp luật, và một diễn đàn mà các giá trị và chính sách căn bản của pháp luật có thể được nêu rõ ràng, soạn thảo và thực thi trong những tình huống mới. Mặc dù hệ thống tố tụng thực hiện việc này một cách không hoàn hảo nhưng một hệ thống công bằng sẽ giảm bớt tình trạng sai sót bằng cách dỡ bỏ các rào cản đối với quá trình đưa ra phán quyết chính.
Thủ tục tố tụng dân sự còn có nhiệm vụ thứ hai. Chúng ta khó chịu bởi một hệ thống giải quyết tranh chấp dựa trên sự cơ hội hoặc tham nhũng vì nó xâm phạm niềm tin của chúng ta về nguyên tắc công bằng, hơn nữa có lẽ nó cũng không đem lại kết quả theo các nguyên tắc công bằng của luật nội dung. Thủ tục tố tụng dân sự có giá trị độc lập trong việc hình thành quá trình tranh tụng phù hợp với các khái niệm của chúng ta về tính công bằng. Một hệ thống tố tụng công bằng khẳng định niềm tin của công chúng vào việc xét xử theo pháp luật. Nó cũng khẳng định nhân phẩm của cá nhân thưa kiện và những người như họ. Kiện tụng, giống như các vấn đề chính trị tranh cử, là một đấu trường mà các cá nhân có thể khẳng định giá trị và tầm quan trọng về quyền lợi của họ. “Quyền được xét xử trước tòa” là một truyền thống lâu đời của người Mỹ. Vai trò của thủ tục tố tụng dân sự là để bảo đảm rằng quyền được xét xử trước tòa thực sự có ý nghĩa.
Theo một hệ thống đối chất như được phát triển ở Hoa Kỳ, quy trình xét xử công bằng có một số yếu tố cấu thành quan trọng. Các bên kiện tụng phải có cơ hội phát triển thỏa đáng các sự việc và viện dẫn luật để chứng minh cho vụ kiện của mình và trình bày các sự việc liên quan và các lập luận pháp lý với người đưa ra phán quyết. Trong một vụ kiện điển hình, các bên phải có quyền có một hội thẩm đoàn để xác định các tình tiết của vụ kiện. Hội thẩm đoàn và thẩm phán phải trung lập với hai bên, phải xem xét các bằng chứng và lắng nghe lập luận của họ, và phải tự đưa ra phán quyết về vụ việc dựa trên các bằng chứng và lập luận được trình bày. Các bên có thể được tòa án phúc thẩm xét xử để xem xét lại các sai phạm và khắc phục những sai phạm nghiêm trọng. Sau khi xem xét, phán quyết sẽ là chung thẩm, vì vậy các bên không thể cứ mãi kiện đi kiện lại cùng vụ việc.
Cuối cùng, thủ tục tố tụng dân sự có nhiệm vụ thứ ba. Để công bằng, thủ tục tố tụng dân sự phải có hiệu lực. Quá nhiều quy trình xét xử công bằng, giống như bất kỳ thứ gì dù có tốt đến mấy nhưng quá nhiều, đều phản tác dụng. Nếu những người đi kiện không bị hạn chế cơ hội trình bày vụ kiện, việc kiện tụng sẽ trở nên kéo dài, tốn nhiều thời gian và tiền của. Hơn nữa, hệ thống kiện tụng là một dịch vụ xã hội mà chính phủ cung cấp cho từng công dân. Lợi ích là không thể phủ nhận đối với các cá nhân và xã hội nói chung từ quá trình kiện tụng hiệu quả và công bằng, nhưng chúng ta có thể được hưởng công bằng ở mức nào? Để đáp ứng được điều đó các quy tắc tố tụng phải cân bằng giữa những lợi ích của một quá trình tố tụng hiệu quả hơn với gánh nặng chi phí và sự trì hoãn.
Hãy đưa ra một vụ kiện và theo dõi suốt quá trình kiện tụng. Kiện tụng đa dạng đến nỗi không có vụ nào thực sự điển hình, nhưng các tình tiết của vụ kiện này khá thông thường. (Tuy nhiên, kết quả thì lại không thế; vì về sau chúng ta sẽ thấy, vụ kiện này kết thúc tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ).
Harry, Kay Robinson và hai con, Eva và George, rời New York chuyển đến ngôi nhà mới của họ ở bang Arizona. Khi đang lái chiếc Audi100 LS, mới chạy được một năm, dọc theo Đường liên bang 44 ở bang Oklahoma hướng đường đi tới Arizona, chiếc xe bị một chiếc Ford Torino đâm từ đằng sau, do người lái xe say rượu đi với tốc độ khoảng 90 100 dặm/giờ. Tác động của vụ va chạm này khiến phần đuôi của chiếc Audi bị bẹp, cửa xe kẹt đóng sập lại, và thủng bình ga. Chiếc xe bốc cháy, Kay Robinson cùng hai đứa con bị bỏng nặng.
Điều ngạc nhiên là vợ chồng Robinson không kiện người lái xe say rượu đã đâm vào xe của mình. Thay vì vậy, họ kiện hãng Audi AG, một công ty của Đức đã sản xuất chiếc xe; kiện Volkswagen của American, Inc., một công ty của Mỹ đã nhập khẩu những chiếc Audi; kiện Seaway Volkswagen, Inc., một công ty kinh doanh xe hơi tại New York bán lẻ cho những người mua xe; và kiện World-Wide Volkswage Corp, nhà phân phối khu vực đã bán chiếc xe cho Seaway. Diễn biến các sự kiện này giúp chúng ta hiểu cách thức mà các tranh chấp được đệ trình lên hệ thống tòa án.
Bước đầu tiên trong việc khởi kiện là công nhận sự tồn tại một vấn đề và vấn đề đó có khả năng phải được giải quyết theo pháp luật. Trong trường hợp vợ chồng Robinson có thể kiện người lái xe say rượu, việc áp dụng các bước này quả là dễ dàng. Vợ chồng Robinson đã bị thương tích nặng. Họ biết, và như tất cả chúng ta đều biết, có một biện pháp chế tài của pháp luật về việc gây thương tích cho người khác do lái xe cẩu thả.
Vụ kiện của vợ chồng Robinson đối với bị đơn Audi là không rõ ràng. Nó đòi hòi một chút kiến thức về luật và tình huống thừa nhận rằng họ có thể kiện nhà sản xuất và những người bán chiếc xe vì lỗi sản phẩm đã làm thương tích của họ trầm trọng hơn. Có lẽ những vấn đề này chỉ phát sinh khi họ hỏi ý kiến luật sư, những người có kinh nghiệm về kiện tụng tai nạn xe hơi.
Ở đây có một điểm rất chung. Như Giáo sư Marc Galanter, một trong những học giả am hiểu sâu sắc về quá trình kiện tụng đã nói, có “một biển rộng lớn các sự việc, những đụng độ, va chạm, ganh đua, thất vọng, lo lắng và tổn thương” trên thế giới, nhưng chỉ khi nạn nhân thừa nhận khả năng giải quyết theo pháp luật thì sự việc mới thực sự trở thành một vụ kiện tiềm tàng.
Việc nạn nhân thừa nhận một tranh chấp pháp lý tiềm tàng tồn tại chỉ là bước đầu tiên. Nó đáng phải chịu các chi phí cho thủ tục pháp lý hơn là sử dụng các phương tiện giải quyết tranh chấp khác hoặc bỏ qua toàn bộ. Trong trường hợp của vợ chồng Robinson, rõ ràng, việc kiện người lái xe say rượu có thể không mấy hấp dẫn bởi vì anh ta có thể không có tiền bảo hiểm hoặc tài sản để trả theo phán quyết. Mọi người hiếm khi kiện tụng chỉ nhằm thiết lập nên một nguyên tắc; trừ khi đạt được một thứ gì đó, họ sẽ không dành thời gian và sẽ không thể tìm được một luật sư dành nhiều thời gian vào những việc kiện tụng như vậy.
Ngay cả khi có thể đòi được khoản đền bù, thì các phương thức giải quyết vấn đề khác có lẽ vẫn tốt hơn. Đặc biệt, nếu tai nạn ô tô khá nhỏ, bên bị thương sẽ chọn giải quyết với công ty bảo hiểm của mình hoặc của người lái xe kia hơn là kiện tụng. Thậm chí khi họ có lý do để kiện và nhiều khả năng được phán quyết bồi hoàn tiền bạc, thì chủ sở hữu nhà cũng thường không kiện những người hàng xóm và cơ sở kinh doanh cũng không kiện những nhà cung cấp. Những đồng đô-la được đền bù sẽ chẳng đáng kể gì so với ấn tượng không tốt nảy sinh khi làm xấu đi một mối quan hệ.
Một yếu tố quan trọng trong việc quyết định theo đuổi việc kiện là khả năng của nạn nhân để duy trì luật sư theo đuổi vụ việc. Theo cách này hoặc cách khác, các bên phải trả phí cho luật sư. Trong các trường hợp thương tích cá nhân nghiêm trọng giống như trường hợp của vợ chồng Robinson, thậm chí nạn nhân với khả năng tài chính trung bình cũng có thể thuê luật sư tốt nhất, vì luật sư thường thực hiện vụ kiện trên cơ sở phí phát sinh, và họ sẽ được thanh toán một tỷ lệ phần trăm trên khoản đền bù cuối cùng theo phán quyết. Trong những trường hợp khác, nhiều khiếu nại mặc dù đáng kiện hơn nhưng không bao giờ được đưa ra tòa vì khoản đền bù tiềm năng cho luật sư là quá nhỏ, và bản thân khách hàng không thể có khả năng thanh toán trực tiếp cho luật sư.
Một nghiên cứu trên phạm vi lớn về tranh tụng dân sự đã thử tổng kết quá trình chọn lọc các vụ kiện tiềm năng. Các con số khác nhau phần lớn phụ thuộc vào hình thức của vụ kiện và những người liên quan, nhưng đây là những kết quả sơ bộ. Trước tiên hãy điểm qua một chút, 10.000 sự việc xấu xảy ra với đủ các hình thức trượt chân trên vỉa hè phủ đầy băng của một người hàng xóm, chiếc lò nướng bánh mới bị hỏng, chủ nhà không cung cấp đủ nước nóng cho người thuê nhà. Bên bị thương tích trong 1.000 sự việc như thế này sẽ nhận ra mình là nạn nhân của một hành động sai trái do người khác gây ra (người hàng xóm, nhà sản xuất chiếc lò nướng, chủ nhà). Trong số những người này, 700 nạn nhân sẽ kiện người có hành động sai trái về vấn đề đó; 300 còn lại sẽ bỏ qua. Người có hành động sai trái sẽ bác bỏ đơn kiện trong 450 vụ kiện, và nạn nhân sẽ tìm đến luật sư trong khoảng 100 vụ kiện. Luật sư sẽ nộp đơn lên tòa án 50 vụ. Các bên sẽ tự giải quyết từ 25 35 vụ, tòa án sẽ hủy bỏ hầu hết số vụ còn lại mà không cần xét xử, và có lẽ chỉ có 2 hoặc 3 vụ sẽ đưa ra xét xử, và chỉ nửa con số trên sẽ được xét xử bởi một hội thẩm đoàn.
Vợ chồng Robinson thực hiện theo phương thức chọn lọc nêu trên. Họ tìm một luật sư sẵn sàng đảm nhận vụ kiện, luật sư này đã chọn các điều khoản pháp lý tiềm năng, xác định các bị đơn có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý và có khả năng thanh toán nếu họ bị thua kiện. Có lẽ luật sư đã nhận thấy người lái xe đâm vào họ không có hoặc có quá ít tiền bảo hiểm hoặc tài sản để bồi thường cho thương tích của gia đình Robinson, và anh ta đã liên hệ với Audi nhưng hãng này đã từ chối giải quyết vụ kiện với một số tiền tương xứng, lúc này vụ việc bắt đầu được đưa ra tòa.
Một vụ kiện có thể được đệ trình lên tòa án nào?
Hai vấn đề liên quan cần phải xem xét khi một luật sư quyết định nơi đệ trình vụ kiện. Thứ nhất là vấn đề pháp lý: Tòa án nào có thẩm quyền xét xử vụ kiện? Thứ hai là vấn đề chiến thuật: Tòa án đó có phải là nơi thuận lợi nhất để kiện tụng? Chúng tôi sẽ đề cập những vấn đề này trong các phần tiếp theo.
Về vấn đề thứ nhất, luật thủ tục tố tụng dân sự liên quan đến thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền xét xử, dịch từ tiếng Latinh, có nghĩa là “nói luật”. Ai cũng có thể nói được luật áp dụng cho một tình huống, nhưng chỉ tòa án có thẩm quyền xét xử mới có thể nói luật với đầy đủ hiệu lực thi hành. Nếu tòa án không có thẩm quyền xét xử hoặc thẩm quyền pháp lý đối với các bên và vụ kiện, tòa án không thể xét xử vụ kiện đúng luật, và bất kỳ phán quyết nào mà tòa án đưa ra đều không có hiệu lực hoặc ràng buộc các bên.
Để xét xử một vụ kiện đúng luật, tòa án phải có thẩm quyền xét xử vấn đề và thẩm quyền cá nhân đôi bên. Vấn đề thẩm quyền xét xử trao quyền cho tòa án xét xử loại vụ kiện đang tranh cãi, và thẩm quyền cá nhân đôi bên cho phép tòa án thực thi quyền đối với các bên tranh chấp. Vì tòa án xét xử vụ kiện của Robinson, do vậy, tòa án phải có quyền đối với các khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn phát sinh từ những tai nạn ô tô (thẩm quyền xét xử vấn đề) và quyền buộc các bị đơn hầu kiện trước tòa, và nếu vợ chồng Robinson thắng kiện, buộc bị đơn phải bồi thường theo phán quyết (thẩm quyền cá nhân đôi bên).
Ba tiểu bang có mối quan hệ logic với vụ tai nạn và các bên nhận thấy ba tiểu bang này là nơi hiển nhiên để khởi kiện. Tai nạn xảy ra tại Oklahoma. Vợ chồng Robinson đã mua chiếc Audi tại New York của Seaway Volkswagen, một trong những bị đơn, và họ vẫn là cư dân hợp pháp của New York tại thời điểm tai nạn xảy ra. Và họ đang xây dựng một ngôi nhà mới hợp pháp tại Arizona. Vì vậy, về mặt logic học, họ có thể đệ đơn kiện lên các tòa án của Oklahoma, New York, hoặc Arizona. (Chúng tôi sẽ hạn chế chỉ phân tích về các tòa án Mỹ; vợ chồng Robinson có thể nhưng không chắc sẽ đệ trình đơn kiện tại Đức, nước sản xuất xe Audi.)
Mỗi tiểu bang có một loạt tòa án gọi là các tòa án có thẩm quyền xét xử chung có quyền xét xử phần lớn các loại vụ kiện dân sự, bao gồm các khiếu nại về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn, khiếu nại về hợp đồng, và khiếu nại về tài sản. Đây là những tòa án xét xử ở cấp cơ sở một số lượng lớn vụ việc của tòa án ở tiểu bang. Thông thường, thẩm quyền xét xử vấn đề của các tòa án có thẩm quyền xét xử chung không bị hạn chế; điều khoản hiến pháp hoặc đạo luật của tiểu bang trao thẩm quyền cho các tòa án này sẽ được diễn đạt bằng từ ngữ có nghĩa rộng. Ví dụ hiến pháp tiểu bang Colorado đã quy định: việc trao cho các tòa án này “thẩm quyền xét xử ban đầu trong mọi vụ kiện dân sự, vụ kiện về thừa kế tài sản và vụ kiện hình sự, ngoại trừ được quy định khác”. Theo truyền thống, các tòa án có thẩm quyền xét xử chung của các tiểu bang khác nhau có tên khác nhau. Ở Arizona, Tòa án Tối cao tiểu bang là tòa án có thẩm quyền xét xử chung; ở Oklahoma, đó là Tòa án Quận; và, thật ngạc nhiên, tại New York, tòa án có thẩm quyền xét xử chung được coi là Tòa án Tối cao. (Tại New York, tòa án cấp cao nhất ở tiểu bang, thực tế ở nơi khác được coi là tòa án tối cao tiểu bang, được gọi là Tòa Phúc thẩm.) Mọi tiểu bang cũng có các tòa án có thẩm quyền xét xử hạn chế, chẳng hạn như tòa án giải quyết các vấn đề về gia đình có thẩm quyền xét xử vấn đề hạn chế đối với án ly hôn và chăm sóc con cái, tòa án giải quyết về tài sản thừa kế có thẩm quyền xét xử hạn chế đối với các vấn đề thừa kế, và tòa án giải quyết các khiếu nại nhỏ chỉ có thẩm quyền xét xử các vụ kiện liên quan đến các khoản tiền có giá trị tương đối nhỏ.
Một sự phân chia truyền thống khác của các tòa án là phân chia thành luật chung và luật công bằng. Khi các triều đình trở nên khắt khe và quan liêu hơn ở thế kỷ thứ XIII, những người đi kiện nản chí đã trông chờ nhà vua như một nguồn xét xử công bằng. Vua sai người giúp việc đắc lực của mình, quan chưởng ấn, đưa ra xét xử linh hoạt hơn trong các vụ kiện mà tòa án giải quyết luật chung không xét xử. Qua thời gian, việc thực hiện quyền phán quyết của quan chưởng ấn đã được thể chế hóa trong tòa Đại pháp chuyên về luật công bằng, vì mục tiêu của nó là tính công bằng.
Việc tồn tại hai hệ thống tòa án cạnh tranh trở thành một điểm mâu thuẫn trong các cuộc đấu tranh giữa quyền lực của và Quốc hội và, sau này, giữa vương quyền mẫu quốc và những người Mỹ đi tìm đất mới, những người mà đối với họ tòa án công bằng là biểu tượng của quyền lực hoàng gia. Đầu thế kỷ XIX, mâu thuẫn giảm dần khi luật chung và luật công bằng nhập thành một hệ thống duy nhất. Ngày nay, luật công bằng vẫn quan trọng vì một loạt các biện pháp chế tài và thủ tục đặc biệt. Ví dụ, khi một người thưa kiện yêu cầu biện pháp khẩn cấp tạm thời (lệnh của tòa án buộc một người phải thực hiện hoặc không thực hiện việc gì) ngoài tiền bồi thường, đó là vấn đề công bằng. Biện pháp khẩn cấp tạm thời được đưa ra trong một vài vụ kiện riêng lẻ khi biện pháp khắc phục thiệt hại theo pháp luật là không tương xứng, ví như khi một doanh nghiệp yêu cầu một lệnh cấm sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu của doanh nghiệp. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng được sử dụng trong các vụ kiện về quyền dân sự hoặc kiện tụng công khai tương tự; các tòa án liên bang thực thi các quyền công bằng đã ra lệnh xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong các trường học ở phía Nam suốt những năm 1950 và 1960. Hệ quả cuối cùng và quan trọng của sự khác biệt này là, đối với luật công bằng, thẩm phán đưa ra phán quyết về vụ kiện mà không cần một hội thẩm đoàn.
Vợ chồng Robinson cũng phải đệ đơn kiện lên một tòa án có thẩm quyền cá nhân đôi bên đối với những công ty có khả năng là bị đơn. Trong hầu hết các vụ kiện, thẩm quyền cá nhân đôi bên là dễ xác định. Giả sử trước tiên họ muốn kiện người lái chiếc xe Ford đã đâm vào xe của họ. Chắc chắn, họ có thể kiện như vậy tại Oklahoma, tiểu bang nơi tai nạn đã xảy ra, vì việc vi phạm tại một tiểu bang sẽ xác lập cơ sở về thẩm quyền xét xử. Nếu người lái chiếc xe Ford sống ở Texas, vợ chồng Robinson có thể kiện anh ta ở đó, vì một người lúc nào cũng có thể bị kiện ở tiểu bang, nơi người đó cư trú hợp pháp. Nhưng vấn đề thẩm quyền cá nhân đôi bên đòi hỏi phải tế nhị hơn khi các bị đơn có mối quan hệ không rõ ràng đối với tiểu bang, nơi vụ kiện được đệ trình và khi các bị đơn là các tổ chức, chứ không phải cá nhân thì khó có thể trói buộc được nơi họ ở và hành động. Trong trường hợp này, những tòa án nào có thẩm quyền cá nhân đôi bên đối với Audi, Volkswagen, World-Wide, và Seaway?
Vấn đề này đã được giải quyết trong một loạt các vụ kiện rắc rối của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ từ hơn một thế kỷ nay cho gần đây, điển hình là vụ World-Wide Volkswagen Corp. kiện Woodson, giống với tên vụ kiện của vợ chồng Robinson khi nó được trình lên Tòa án Tối cao năm 1980. Để đơn giản hơn, hãy suy nghĩ tại sao chúng ta cảm thấy yên tâm nếu vợ chồng Robinson đệ đơn kiện người lái chiếc xe Ford ở Oklahoma hoặc ở Texas, tiểu bang nơi người lái xe đang sống. Một trong hai trường hợp này, người lái xe thực sự không thể kêu rằng việc tòa án thực thi thẩm quyền xét xử đối với anh ta là không công bằng. Sẽ là công bằng khi yêu cầu khởi kiện một người nào đó tại tiểu bang nơi anh ta gây tai nạn, và chắc chắn sẽ là công bằng khi yêu cầu khởi kiện anh ta tại tiểu bang nơi anh ta cư trú. Trong mỗi trường hợp, có đầy đủ mối liên hệ giữa người lái xe và tiểu bang, nơi vụ kiện được đệ trình, có quyền lợi hợp pháp để xét xử tranh chấp. Bang Oklahoma phải xét xử các vụ kiện liên quan đến tai nạn xảy ra trên đường cao tốc của tiểu bang, và bang Texas nên có quyền quyết định các hành động đối với cư dân của mình.
Tòa án Tối cao đã chắt lọc nghĩa của sự công bằng này thành một quy định hiến pháp trong vụ International Shoe Company kiện bang Washington (1945). Điều khoản về quy trình xét xử công bằng của Hiến pháp hạn chế khả năng của một tiểu bang thực hiện quyền xét xử cá nhân đôi bên bằng cách quy định rằng bị đơn có “các mối liên hệ tối thiểu” với tiểu bang nơi tòa án thụ lý vụ việc, vì vậy việc yêu cầu bị đơn bào chữa ở đó không vi phạm “các khái niệm truyền thống về cuộc chơi công bằng và nền công lý chính yếu”. (Điều này thực sự đã làm cho các sinh viên luật năm thứ nhất đau đầu; tòa án tạo nên một số lượng các đạo luật cực kỳ phức tạp và có vẻ truyền đạt các đạo luật đó trong một khái niệm kiểu như “cuộc chơi công bằng” mà mọi người khó có thể hiểu được).
Vợ chồng Robinson đã cố gắng kiện bốn bị đơn của Volkswagen tại tòa án bang Oklahoma, nhưng Tòa án Tối cao cho biết một tòa án của bang Oklahoma chỉ có thể đòi thẩm quyền xét xử hợp lý với nhà sản xuất, Audi, chứ không phải nhà phân phối hoặc công ty kinh doanh World-Wide và Seaway. Audi bán những chiếc xe của mình trên thị trường trong nước, vì vậy hãng này có các mối liên hệ với mọi tiểu bang và sẽ phải theo kiện một cách hợp lý khi một trong những chiếc xe của hãng gặp sự cố tại bất kỳ tiểu bang nào. Audi thu lợi nhuận kinh doanh ở mọi nơi, vì vậy hãng phải chịu trách nhiệm về kiện tụng ở bất kỳ nơi nào. Tuy nhiên, World-Wide và Seaway chỉ bán xe ở khu vực New York. Mặc dù họ có thể biết trước được là một số khách hàng của mình sẽ lái xe đến Oklahoma nhưng yêu cầu họ đến đó để biện hộ trong các vụ kiện mà không có bất kỳ mối liên hệ nào khác giữa họ và tiểu bang đó thì quả là không công bằng theo hiến pháp.
Khi nào bạn có thể đệ trình vụ kiện lên Tòa án Liên bang?
Vợ chồng Robinson đã đệ trình vụ kiện lên Tòa án Quận ở Hạt Creek, Oklahoma, một phần trong hệ thống tòa án của tiểu bang Oklahoma, nhưng họ có lẽ phải “làm to chuyện” bằng cách đưa vụ kiện ra các tòa án liên bang. Hoa Kỳ có một hệ thống tòa án song song với các hệ thống tòa án của tiểu bang. Giống như hầu hết các hệ thống của tiểu bang, hệ thống tòa án liên bang có các tòa sơ thẩm (gọi là các Tòa án Quận Hoa Kỳ), các tòa trung thẩm (gọi là các Tòa phúc thẩm, hoặc đôi khi là Tòa thượng thẩm, khái niệm này hình thành từ những ngày khi các thẩm phán của Tòa án Tối cao “đi khắp nơi” để chủ trì phiên tòa ở những địa điểm khác nhau), và một tòa án cấp cao nhất (Tòa án Tối cao Hoa Kỳ). Hệ thống này được tổ chức theo ví trí địa lý, chẳng hạn, Tòa án Quận Hoa Kỳ cho Quận phía Bắc của Oklahoma và Tòa Phúc thẩm của Hoa Kỳ cho Hạt thứ Mười, xét xử các vụ kiện từ các bang Oklahoma, Colorado, Kansas, New Mexico, Utah, và Wyoming.
Mặc dù hệ thống tòa án liên bang có vẻ giống với các hệ thống tòa án tiểu bang nhưng về vấn đề thẩm quyền xét xử, các hệ thống này khác nhau cơ bản. Trong các tòa án tiểu bang, thẩm quyền xét xử đối với kiểu vụ kiện (thẩm quyền xét xử vấn đề) thường dễ hơn bởi vì các tòa sơ thẩm có thẩm quyền xét xử chung đối với hầu hết các vụ khiếu kiện, nhưng thẩm quyền đối với bị đơn (thẩm quyền cá nhân đôi bên) phải tùy thuộc vào những hạn chế của hiến pháp về các mối liên hệ đầy đủ với tiểu bang sao cho việc khẳng định thẩm quyền đối với bị đơn là công bằng. Trong các tòa án liên bang thì ngược lại. Thẩm quyền xét xử cá nhân đôi bên bị hạn chế bởi các quy định của quy trình xét xử công bằng theo hiến pháp; ngay cả khi các tòa án quận ở ngay tại địa phương nhưng vẫn là một phần của hệ thống quốc gia và có thể có thẩm quyền xét xử đối với bị đơn. (Tuy nhiên, thông qua quy tắc của tòa án, tòa án quận liên bang có thẩm quyền xét xử cá nhân đôi bên đối với các bị đơn chỉ trong phạm vi giống như tòa án của các tiểu bang, nơi đặt trụ sở của tòa án đó.) Các tòa án liên bang là các tòa án có thẩm quyền xét xử hạn chế; họ chỉ có thẩm quyền trong phạm vi mà Hiến pháp và Quốc hội đã trao cho mặc dù họ có thẩm quyền xét xử vấn đề. Vì vậy, không giống như các tòa án tiểu bang, các tòa án liên bang chỉ xét xử các vụ kiện được xếp vào loại đặc biệt.
Nếu mỗi tiểu bang có một hệ thống tòa án, tại sao chúng ta cần một loạt tòa án liên bang? Các nhà soạn thảo Hiến pháp và Quốc hội ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực đưa ra hai lý do để thành lập tòa án liên bang. Thứ nhất, một số vụ kiện liên quan đến các vấn đề quan trọng có tính quốc gia nên được quyết định bởi các thẩm phán của Chính phủ Hoa Kỳ chứ không phải thẩm phán của một tiểu bang đặc biệt nào. Thứ hai, người Mỹ thường có tính hơi địa phương cục bộ, vì vậy các nhà soạn thảo Hiến pháp muốn tạo một diễn đàn trung lập, chẳng hạn, cho những người New York phải kiện ở Oklahoma. Mỗi trong những lý do nêu trên đã làm phát sinh một loại thẩm quyền đặc biệt đối với các tòa án liên bang, được gọi là thẩm quyền xét xử các vấn đề liên bang và thẩm quyền xét xử đối với công dân của các tiểu ban. (Ngoài ra, còn một vài kiểu vụ kiện khác được đệ trình lên tòa án liên bang như các vụ kiện về chủ quyền trên mặt biển liên quan đến các vấn đề biển, và các vụ kiện trong đó chính phủ là một bên liên quan).
Loại thẩm quyền xét xử vấn đề thứ nhất là thẩm quyền xét xử các vấn đề liên bang. Theo Hiến pháp và các đạo luật, quyền của các tòa án liên bang mở rộng trong các vụ kiện phát sinh theo Hiến pháp, các đạo luật liên bang, và các quy tắc hành chính liên bang. Tòa án liên bang xét xử các vụ kiện liên quan đến toàn bộ các đạo luật liên bang, bao gồm các đạo luật về Môi trường, An sinh Xã hội, quy định của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm, và vi phạm về các quyền hợp hiến. Tại một thời điểm nào đó, cùng với các quyền dân sự, tiểu bang cũng có thẩm quyền xét xử các vấn đề này; khiếu nại về một trung tâm thương mại vi phạm quyền tự do ngôn luận vì không cho phát các tờ rơi có thể được trình lên tòa án liên bang hoặc tiểu bang. Trong những vụ kiện khác, tòa án liên bang có thẩm quyền xét xử riêng biệt; ví dụ, chỉ tòa án liên bang mới có thể xét xử vụ kiện về phá sản hoặc khiếu nại về bằng sáng chế. Tòa án liên bang được cho là có vị thế tốt hơn tòa án tiểu bang để chuyên môn hóa, tạo cho luật tính thống nhất, và xem xét các quyền lợi quốc gia trong việc diễn giải và áp dụng luật liên bang. Hơn nữa, phần lớn các đạo luật liên bang không được nhiều người biết đến khi áp dụng trong các cuộc tranh cãi ở tiểu bang, và việc trao cho tòa án liên bang thẩm quyền xét xử các vấn đề nêu trên có khả năng làm cho các đạo luật sẽ được thực thi mà không gặp phải sự định kiến hoặc cản trở chính trị nào ở tiểu bang. Chẳng hạn, suốt những năm 1950 và 1960, tòa án liên bang chịu trách nhiệm chính trong việc thực thi các đạo luật về quyền dân sự ở các tiểu bang hay chống đối.
Thẩm quyền xét xử đối với các công dân của các tiểu bang được xác lập nhằm ngăn chặn sự định kiến đối với những người thưa kiện cư trú ngoài tiểu bang. Những nhà soạn thảo pháp luật muốn tránh sự định kiến của các thẩm phán địa phương và hội thẩm đoàn đối với những người thưa kiện từ các tiểu bang khác nhau, hoặc ít nhất làm cho những người ở các tiểu bang khác bớt lo lắng về khả năng định kiến. Thẩm quyền xét xử đối với các công dân của các tiểu bang cũng cho phép nhiều vụ kiện kinh tế quan trọng ví dụ, những vụ kiện liên quan đến các giao dịch thương mại lớn giữa các công ty từ các tiểu bang khác nhau được xét xử tại các tòa án liên bang.
Ban đầu, nguyên đơn có quyền lựa chọn tòa án để đệ trình vụ kiện, nhưng về khía cạnh lịch sử, mối lo ngại định kiến với tiểu bang theo thẩm quyền xét xử đối với các công dân của các tiểu bang lớn đến mức các bị đơn cũng có quyền lựa chọn tương tự thông qua một học thuyết được gọi là chuyển lên tòa án cao hơn. Nếu nguyên đơn đệ trình vụ kiện lên tòa án tiểu bang, bị đơn cư trú ngoài tiểu bang có thể chuyển lên tòa án liên bang, với điều kiện là tòa án tiểu bang có thẩm quyền xét xử cao nhất. Ví dụ, theo cách đó, một bị đơn ở New York có thể tránh được sự định kiến có thể xảy ra bằng cách chuyển vụ kiện lên Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Oklahoma nếu bị một người ở tiểu bang Oklahoma kiện lên một tòa án của tiểu bang Oklahoma.
Theo truyền thống, có hai yêu cầu về thẩm quyền xét xử đối với các công dân của các tiểu bang là: phải cược một khoản tiền đủ cho chi phí vụ kiện; và vụ kiện phải là tranh chấp giữa các bên ở các tiểu bang khác nhau. Khoản tiền được yêu cầu đặt trước cho một cuộc tranh cãi chỉ là một số tiền nhỏ; khiếu nại của nguyên đơn phải có giá trị cao hơn nhiều so với số tiền tối thiểu được Quốc hội yêu cầu nộp cho tòa án liên bang. Yêu cầu về vụ kiện giữa các công dân ở các tiểu bang khác nhau thì thú vị hơn nhiều. Trong hầu hết các vụ kiện, để thiết lập thẩm quyền xét xử liên bang thì tranh chấp phải hoàn toàn giữa các tiểu bang; cụ thể, nguyên đơn và bị đơn phải từ các tiểu bang khác nhau, và nếu có nhiều hơn một nguyên đơn hoặc bị đơn, toàn bộ các nguyên đơn phải từ các tiểu bang khác nhau chứ không phải toàn bộ các bị đơn.
Và đây là yếu tố chính trong vụ kiện của vợ chồng Robinson. Vợ chồng Robinson cho rằng bình xăng của chiếc Audi bị lỗi dẫn đến cháy và làm cho họ bị thương, vì vậy họ kiện Audi và Volkswagen của Mỹ, nhà sản xuất và nhà nhập khẩu chiếc xe này. Nếu bình xăng bị lỗi, Audi và Volkswagen cũng phải chịu trách nhiệm, và chắc chắn họ có tài sản để đáp ứng bất kỳ phán quyết nào đối với họ. Vậy tại sao vợ chồng Robinson lại kiện cả World-Wide Volkswagen, nhà phân phối khu vực của Audi, và Seaway Volkswagen, công ty kinh doanh chiếc xe mà họ đã mua? Câu trả lời rất rõ ràng: đó là một lựa chọn chiến lược được luật sư của vợ chồng Robinson đưa ra, viện dẫn luật về thẩm quyền xét xử các vụ việc tranh chấp giữa các tiểu bang. Vợ chồng Robinson vẫn chưa hoàn tất việc di chuyển từ New York đến Arizona, vì vậy họ vẫn là công dân tại nơi ở trước đây của mình, New York, đáp ứng yêu cầu liên quan đến nhiều tiểu bang. Audi là một công ty của Đức và Volkswagen của Mỹ là một doanh nghiệp ở New Jersey, nhưng World-Wide và Seaway là các doanh nghiệp ở New York. Việc kiện các công ty trên ra tòa đã hủy hoàn toàn thẩm quyền xét xử vụ kiện giữa các công dân ở những tiểu bang khác nhau, và điều này có nghĩa là vụ kiện không thể được xét xử tại tòa án liên bang. Tất nhiên, tại tất cả các tòa có thẩm quyền các tòa án tiểu bang và liên bang tại New York, Oklahoma, và có thể là tại Arizona luật sư của vợ chồng Robinson đã quyết định nơi tốt nhất để trình vụ kiện là tòa án tiểu bang ở Hạt Creek, Oklahoma, sau đó xem xét một trong những nơi xét xử có lợi nhất đối với các nguyên đơn bị thương tích cá nhân tại Mỹ. Với World-Wide và Seaway trong vụ kiện, các bị đơn có thể không chuyển vụ kiện lên tòa án liên bang ở Tulsa vì theo quan điểm của vợ chồng Robison là ít hấp dẫn hơn nhiều.
Mặc dù luật sư của vợ chồng Robinson đã tính toán đúng việc hủy thẩm quyền xét xử đối với các công dân của các tiểu bang thẩm quyền xét xử vấn đề ông đã tăng tình tiết đối với luật về thẩm quyền xét xử cá nhân đôi bên. Seaway và World-Wide đã thách thức khả năng của tòa án tiểu bang Oklahoma để đòi thẩm quyền xét xử đối với họ, và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã đồng ý, cho rằng việc buộc nhà phân phối và công ty kinh doanh ở New York theo kiện ở Oklahoma là không công bằng. Với các bị đơn ở New York không thuộc vụ kiện thì đây hoàn toàn là vụ kiện giữa các công dân ở những tiểu bang khác nhau, vì vậy Audi và Volkswagen có thể và đã chuyển vụ kiện lên tòa án liên bang, nơi bồi thẩm đoàn xét thấy tốc độ của chiếc xe đâm vào chiếc xe Audi của vợ chồng Robinson, chứ không phải lỗi ở bình xăng, là nguyên nhân gây cháy.
Các vụ kiện giống như vụ kiện của vợ chồng Robinson đã làm cho một số người hay chỉ trích đặt ra câu hỏi là liệu thẩm quyền xét xử đối với vụ kiện giữa các công dân ở những tiểu bang khác nhau vẫn còn cần thiết hoặc hữu ích. Ngày nay, những người hay chỉ trích lập luận rằng, việc xét xử vụ kiện giữa các công dân ở các tiểu bang khác nhau thường được sử dụng như là một sách lược của luật sư hơn là biện pháp bảo vệ đối với các bị đơn ngoài tiểu bang. Định kiến của người cư trú trong tiểu bang đối với những người cư trú ngoài tiểu bang đã giảm đến một mức độ đáng kể, vì vậy giá trị của nguyên tắc công bằng không cần một tòa có thẩm quyền liên bang trung lập nữa. Hơn nữa, các tòa án liên bang áp dụng luật nội dung giống như các tòa án tiểu bang và thu hút các thẩm phán và bồi thẩm đoàn của mình từ các nơi giống như tòa án tiểu bang, vì vậy những khác biệt giữa hai diễn đàn đã được thu hẹp lại. Chẳng hạn, chúng ta có thể loại bỏ thẩm quyền xét xử đối với vụ kiện giữa các công dân ở những tiểu bang khác nhau và giảm khối lượng công việc của tòa án liên bang mặc dù tất nhiên, điều này sẽ làm tăng gánh nặng lên các tòa án tiểu bang.
Như chúng ta có thể nhận thấy từ vụ kiện của vợ chồng Robinson, nơi nguyên đơn có thể đệ trình đơn kiện và nơi nguyên đơn phải đệ trình đơn kiện là hai vấn đề khác nhau. Theo quy tắc về thẩm quyền xét xử, một nguyên đơn có thể chọn tòa án: tiểu bang hoặc liên bang, New York hoặc Oklahoma. Việc lựa chọn này là vấn đề chiến thuật đối với luật sư của nguyên đơn. Một luật sư đơn giản có thể chọn kiện tại nơi thân chủ của mình ở, tại lãnh thổ nơi nguyên đơn sinh sống và luật sư hành nghề, và phán quyết duy nhất sẽ được đưa ra bởi tòa án liên bang hoặc tòa án tiểu bang. Hệ thống tòa án này có thể giải quyết nhanh hơn hệ thống tòa án khác; một số khu vực nội thành, thời gian chờ đợi đến phiên xét xử có thể là sáu năm tại một tòa án tiểu bang và hai năm tại một tòa án liên bang, hoặc khác biệt về thẩm quyền xét xử của các tiểu bang lân cận có thể là lớn. Với vợ chồng Robinson, thành phần hội thẩm đoàn của tòa án này có thể khác với tòa án khác. Các quy tắc của thủ tục tố tụng dân sự có thể hấp dẫn hơn vì lý do này hoặc lý do khác; thông thường, các quy tắc tìm hiểu liên bang rộng hơn và hiệu quả hơn các quy tắc tiểu bang. Trình độ thẩm phán cũng có thể khác; theo truyền thống, mọi người cho rằng các thẩm phán liên bang có trình độ cao hơn các thẩm phán tiểu bang, ít nhất trong một số lĩnh vực, và các thẩm phán hành nghề lâu dài tại một lãnh thổ có thể tốt hơn so với những thẩm phán lưu động nay đây mai đó.
Nếu bạn đệ trình vụ kiện lên các tòa án khác nhau, luật nào sẽ được chọn áp dụng tại mỗi tòa án?
Một hệ quả nảy sinh từ việc tồn tại các hệ thống tòa án tiểu bang khác nhau và hệ thống liên bang song hành là một vụ kiện đơn lẻ có thể áp dụng các bộ luật khác nhau. Vợ chồng Robinson đã đệ trình vụ kiện lên tòa án tiểu bang Oklahoma. Nếu họ đến tòa án liên bang thay cho tòa án tiểu bang, tòa án liên bang sẽ áp dụng luật khác để xác định liệu bình xăng của chiếc xe Audi có bị lỗi? Hoặc nếu họ đệ trình vụ kiện tại New York, liệu luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn của New York có áp dụng với vụ kiện thay cho luật của Oklahoma? Vì luật ở tiểu bang này khác với luật ở tiểu bang khác, những vấn đề như thế này thường dùng để xác định kết quả của vụ kiện, vì vậy thủ tục tố tụng dân sự là yếu tố quan trọng để giải quyết những vấn đề đó.
Hai loại xung đột pháp luật tại các lãnh thổ khác nhau được giải quyết một cách dễ dàng. Nói chung, một tòa án áp dụng các quy tắc về thủ tục tố tụng của mình, bất kể luật nội dung nào áp dụng với vụ kiện. Tương tự, khi một tòa án tiểu bang có vụ kiện liên quan đến luật tiểu bang, tòa án tiểu bang áp dụng đến luật tiểu bang, bao gồm cả các quyết định của tòa án liên bang giải thích luật, vì Hiến pháp biến luật liên bang trở thành “luật tối cao của quốc gia”.
Hai loại xung đột khác phức tạp hơn nhiều. Loại thứ nhất liên quan đến việc tòa án liên bang xét xử vụ kiện giữa các công dân ở những tiểu bang khác nhau, giống như khi Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Oklahoma xét xử vụ kiện của vợ chồng Robinson với Audi. Liệu tòa án liên bang có bị ràng buộc bởi luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn của Oklahoma, hoặc tòa án liên bang có thể xây dựng quy tắc riêng của mình về việc khi nào một sản phẩm được coi là bị lỗi nghiêm trọng? Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng các tòa án liên bang phải theo luật tiểu bang về mọi vấn đề quan trọng. Vì vậy, một tòa án liên bang trong vụ kiện giữa các công dân ở những tiểu bang khác nhau áp dụng các nguyên tắc của luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn, luật hợp đồng, và v.v… giống như được áp dụng trong trường hợp vụ kiện ở tòa án tiểu bang.
Loại xung đột phức tạp thứ hai giữa các lãnh thổ là hai bộ luật tiểu bang. Giả sử Oklahoma cho rằng các nhà sản xuất phải hoàn toàn chịu trách nhiệm pháp lý về các sai sót trong sản phẩm của họ nhưng New York cho rằng họ chỉ chịu trách nhiệm pháp lý khi họ bất cẩn trong việc sản xuất các sản phẩm của mình. (Để biết thêm về trách nhiệm đối với các sản phẩm, đề nghị xem Chương 5). Liệu vợ chồng Robinson có thể tránh được quy tắc của New York bằng cách đệ trình vụ kiện ở Oklahoma? Vấn đề này thuộc phạm vi luật và được gọi là xung đột pháp luật, và yêu cầu phải lựa chọn pháp luật của các lãnh thổ cạnh tranh.
Luật giải quyết các xung đột pháp luật là lĩnh vực rắc rối nhất trong hệ thống pháp luật. Tình trạng không rõ ràng của luật này làm cho các sinh viên hay hiểu sai nghĩa và tính phức tạp của nó thường gây khó khăn cho các tòa án. Lý do về sự nhầm lẫn này cho thấy bản chất phức tạp của luật xung đột.
Cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, đạo luật về các xung đột pháp luật được soạn thảo bao gồm những quy tắc được cho là khá rõ ràng dựa trên khái niệm của lãnh thổ về quyền tối cao và việc xét xử. Chẳng hạn, một vụ kiện về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn có thể được điều chỉnh bởi luật của lãnh thổ xảy ra tai nạn; một tai nạn ở Oklahoma sẽ được điều chỉnh theo luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn của Oklahoma cho dù vụ kiện có được xét xử ở đó hoặc ở New York. Tương tự, một tranh chấp hợp đồng sẽ được điều chỉnh theo đạo luật tiểu bang mà hợp đồng được lập. Thật đáng tiếc, nhiều giao dịch thường có đặc điểm của nhiều tiểu bang. Đạo luật nào sẽ điều chỉnh vụ kiện của vợ chồng Robinson, người đã mua chiếc xe tại New York và được sản xuất tại Đức nhưng liên quan đến tai nạn tại Oklahoma? Có hành động sai trái nào liên quan khi chiếc xe được sản xuất, bán, hoặc bị cháy hay không? Liệu có hành động bất hợp pháp nào liên quan xảy ra khi Audi phải tuân thủ các quy tắc về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn của 50 tiểu bang khác nhau, bao gồm một số tiểu bang mà Audi có thể không bán xe ở đó? Hơn nữa, các tòa án không dễ dàng khi áp dụng đạo luật của tiểu bang khác có xung đột với các quy tắc của họ. Khi tòa án đã nắm bắt được những vấn đề này, họ xác lập các quy tắc đối kháng và trường hợp ngoại lệ đối với các quy tắc hay gây nhầm lẫn và cuối cùng bị nhiều chỉ trích.
Các thẩm phán và học giả đã rất thành công trong việc chỉ trích các quy tắc cũ nhưng lại không mấy thành công trong việc thiết lập các quy tắc mới. Kết quả các vụ kiện đặc biệt trở nên khó tiên đoán tại nhiều tiểu bang, vì tòa án đã loại bỏ các quy tắc cũ, thiên về các tiêu chuẩn linh hoạt mà buộc tòa án phải cân nhắc cẩn thận và cân bằng vô số các yếu tố. Và nhiều lãnh thổ chưa bao giờ áp dụng, rõ ràng hoặc ngụ ý tuân thủ các quy tắc cũ này. Kết quả là, mọi việc trở nên khác biệt nhưng không phải là tốt hơn.
Bài học trên hết là các quy tắc luật rõ ràng, cứng nhắc thường không phải là những điều chúng biểu hiện bên ngoài. Chúng tạo ra sự bất công khi áp dụng đối với các tình huống thực tế khác nhau, hoặc chúng đòi hỏi các cách diễn giải hoặc ngoại lệ nhưng các cách diễn giải và ngoại lệ đã gây nên tình trạng phức tạp và không rõ ràng. Mặt khác, các quy tắc luật linh hoạt đã trao cho tòa án quyền quyết định lớn hơn, và quyền quyết định lại làm phát sinh các phán quyết xung đột và hình thành các quy tắc không rõ ràng, một hình thái phức tạp và bất công khác.
Một vụ kiện bắt đầu như thế nào?
Một luật sư bắt đầu vụ kiện bằng việc soạn thảo và đệ trình lên tòa án một tài liệu được gọi là Đơn kiện, mà như tên của tài liệu đã cho thấy, nguyên đơn (người kiện) khiếu nại rằng bị đơn (người bị kiện) đã vi phạm các quyền hợp pháp của anh ta và yêu cầu tòa án áp dụng một biện pháp chế tài. (Pháp luật không quy định luật sư đệ trình đơn kiện hay đại diện cho nguyên đơn. Ai cũng có thể đại diện cho nguyên đơn thuật ngữ diễn tả hành động này là prose, nghĩa Latinh “đại diện cho chính mình”. Trong thực tiễn, các vụ tranh chấp nhỏ giải quyết ngoài tòa án thì vẫn cần luật sư trợ giúp). Kèm theo đơn kiện là trát tòa, một văn bản của tòa án lệnh cho bị đơn giải trình các cáo buộc. Nguyên đơn phải tống đạt trát tòa đến bị đơn bằng cách gửi bản sao đơn kiện và trát tòa đến bị đơn thông qua quận trưởng, người nhận trát tòa, hoặc bưu điện, tùy thuộc vào các quy tắc của tòa án mà vụ kiện được đệ trình.
Mở đầu đơn kiện phải xác định kiện cái gì. Chẳng hạn, trong vụ kiện của Robinson, đơn kiện nêu rõ:
• Vợ chồng Robinson và các bị đơn thuộc hãng Audi là những ai,
• Vợ chồng Robinson đã mua chiếc Audi từ Seaway Volkswagen,
• Chiếc Audi đã liên quan đến tai nạn như thế nào,
• Chiếc Audi bị lỗi ra sao,
• Lỗi đó đã gây thương tích cho Kay Robinson và những đứa con của anh, và
• Vì những lý do nêu trên, các bị đơn thuộc hãng Audi phải bồi thường cho vợ chồng Robinson.
Thông tin này phục vụ cho một số mục đích. Trước tiên, nó tạo cơ sở để xác định tòa án có thẩm quyền xét xử. Bằng cách nêu rõ vụ kiện này liên quan đến một tai nạn ô tô xảy ra tại Oklahoma, đơn kiện đã làm rõ vụ kiện có thể đệ trình lên Tòa án Quận Oklahoma. Thứ hai, đơn kiện đã thông báo cho các bị đơn biết rằng họ đang bị kiện và tại sao họ lại bị kiện. Thông báo đầy đủ tới các bị đơn cho phép cho họ có thể thuê luật sư và bắt đầu suy luận cơ sở nhằm chống lại các khiếu nại của nguyên đơn. Thứ ba, đơn kiện trình bày các vấn đề của sự việc và đạo luật sẽ liên quan trong vụ kiện, và, ngụ ý cả các vấn đề không liên quan. Bằng cách điểm qua các yếu tố dẫn đến việc kiện cáo tại sao các nguyên đơn cho rằng họ có quyền được trợ giúp với những gì họ cho là bị đơn đã sai đơn kiện cho các bên và thẩm phán biết yếu tố nào sẽ liên quan đến phán quyết cuối cùng trong vụ kiện. Chẳng hạn, dựa trên sự việc thực tế, tốc độ chiếc xe của Robinson và chiếc xe gây tai nạn sẽ có liên quan với nhau, vì việc vượt quá tốc độ chứ không phải lỗi của chiếc xe Audi có thể gây cháy nên cả hai bên có lẽ đều muốn điều tra và, đưa ra bằng chứng về tốc độ của các xe tại tòa. Liệu các bị đơn có lừa vợ chồng Robinson bằng việc quảng cáo chiếc xe có hệ thống âm thanh với độ trung thực cao, nhưng trên thực tế hệ thống đó tồi tệ và rẻ tiền là không liên quan, bởi vì khiếu nại đó chẳng có gì liên quan đến tai nạn. Các bên hiểu có nên điều tra hay đưa ra bằng chứng về hệ thống âm thanh hay không; nếu họ cố gắng thực hiện công việc trên bằng mọi cách, thẩm phán sẽ biết cách ngăn họ lại.
Theo thông lệ, đơn kiện và các bản bào chữa khác là một phương tiện đặc biệt để xác định vấn đề trong vụ kiện đối với các bên và tòa án. Các thẩm phán yêu cầu luật sư bào chữa sự việc chính trong khiếu nại một cách cụ thể và chính xác. Nếu luật sư không làm được như vậy chẳng hạn, nếu luật sư của Robinson không nêu rõ tên công ty của Audi hoặc không mô tả chính xác lỗi xảy ra như thế nào – vụ kiện sẽ bị tòa bác bỏ. Vì các mâu thuẫn có tính chuyên môn cao nhằm mục đích đáp ứng các giá trị của luật nội dung và tạo quy trình xét xử công bằng, các thẩm phán đã nới lỏng các yêu cầu về sự bào chữa và quá trình xác định các vấn đề trong vụ kiện, bắt đầu bằng đơn kiện nhưng tiếp tục trong suốt quá trình tìm hiểu và các giai đoạn trước khi xét xử. Luật sư của vợ chồng Robinson có thể nêu trong đơn kiện rằng chiếc Audi bị lỗi và sau đó cố gắng diễn giải chính xác lỗi đó là gì.
Để minh họa cho tính linh hoạt này, nếu luật sư có sai sót trong bản bào chữa hoặc phát hiện được thông tin mới cho thấy văn bản này là không đầy đủ hoặc không chính xác, tòa án thường cho phép sửa đổi bổ sung để hiệu chỉnh sai sót hoặc ghi thêm thông tin mới. Vợ chồng Robinson ban đầu chỉ kiện Volkswagen của Mỹ, Seaway, và World-Wide, nhưng sau đó họ đã sửa đổi bổ sung đơn kiện để thêm Volkswagen AG, công ty của Đức mà họ đã cho là nhà sản xuất; khi họ chính thức phát hiện ra rằng Audi AG, một công ty của Đức khác, mới thực sự là nhà sản xuất ô tô, họ đã sửa lại lần nữa để điền Audi thay cho Volkswagen. Quả thực, các quy tắc về sửa đổi bổ sung đơn kiện tự do đến nỗi một bên có thể thường xuyên sửa đổi bổ sung vào đúng hoặc sau phiên xét xử, sao cho đơn kiện phù hợp với bằng chứng được trình trước tòa. Cho đến khi bị đơn có thông báo hợp lý về các cơ sở của vụ kiện, thẩm phán sẽ xét xử bằng cách tập trung vào nội dung chứ không phải tuân thủ các quy tắc bào chữa có ý nghĩa chặt chẽ về mặt pháp lý của luật sư.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là đơn bào chữa không có các hạn chế. Mọi sự kiện trong một đơn bào chữa phải có cơ sở thực tế và được nêu một cách trung thực, và, phụ thuộc vào nơi xét xử, một bên có thể phải tuyên thệ về tính trung thực của đơn bào chữa đó hoặc luật sư đệ trình đơn bào chữa phải ký vào đơn. Ví dụ, các Quy tắc Liên bang quy định luật sư phải ký vào đơn bào chữa và sau khi thẩm tra hợp lý, phải chứng nhận sự việc mà luật sư đã kết luận rằng đơn bào chữa là có cơ sở rõ ràng và mình đang hành động trên tinh thần thiện chí, không có động cơ nào không tốt trong việc đệ trình đơn bào chữa. Nếu tuyên bố trong đơn bào chữa là sai hoặc phù phiếm, tòa án có thể áp dụng các hình thức phạt đối với bên đó hoặc luật sư. Việc áp dụng chặt chẽ các quy tắc trên đã tạo động lực lớn cho các luật sư để cẩn thận hơn khi soạn thảo và điều tra tính chính xác của các đơn bào chữa.
Bị đơn có thể làm gì để đối phó với vụ kiện?
Trước tiên, một người nào đó nhận được thông báo chính thức rằng anh ta bị kiện do nhận được đơn kiện của nguyên đơn và kèm theo một trát của tòa án. Trát tòa thường lệnh cho bị đơn trả lời đơn kiện, nhưng trên thực tế, bị đơn có một số cách đối phó khác nhau khi bị kiện.
Thứ nhất, đơn giản là bị đơn có thể hoàn toàn bỏ qua một việc. Nếu bị đơn trong một vụ kiện hình sự không trả lời trát tòa hoặc có mặt tại phiên tòa, cảnh sát có thể đến và bắt giữ đối tượng. Nhưng trong vụ kiện dân sự thì không như vậy. Nếu World-Wide Volkswagen nhận được đơn kiện của vợ chồng Robinson và trát tòa qua bưu điện mà không có bất kỳ động thái nào để trả lời đơn kiện, cảnh sát sẽ không đến và lôi chủ tịch của công ty đến tòa. Nhưng điều này không có nghĩa là ai cũng có thể bỏ qua đơn kiện. Biện pháp trừng phạt vì không trả lời đơn kiện là: nguyên đơn có thể đến tòa để đưa ra sự mặc định đối với bị đơn. Sự mặc định không cho phép bị đơn tham gia biện hộ tình tiết vụ việc, và nguyên đơn có thể tiến hành xin phán quyết mặc định kết luận vụ kiện đối với bị đơn và sau đó cố gắng thực thi phán quyết đó giống như bất kỳ phán quyết nào khác của tòa.
Đôi khi bị đơn có thể lợi dụng cơ hội bỏ qua đơn kiện và bị đưa ra phán quyết mặc định vì bị đơn không nghĩ rằng nguyên đơn sẽ sẵn sàng hoặc có khả năng thực thi phán quyết. Giả sử lỗi của chiếc Audi không gây ra thương tích nghiêm trọng và chỉ yêu cầu một khoản chi phí sửa chữa nhỏ là 200 đô-la. Nếu vì một lý do đặc biệt nào đó, vợ chồng Robinson đã kiện đòi khoản tiền nhỏ này, World-Wide có lẽ đã bỏ qua vụ kiện, cho rằng vụ kiện không đáng thuê luật sư ở Oklahoma để biện hộ vì số tiền nhỏ đó, hoặc vợ chồng Robinson ngại không đến New York để cố gắng lấy số tiền đó. Thông thường, nếu số tiền đó đáng để nguyên đơn kiện, thì nó cũng đáng để bị đơn trả lời, vì vậy bị đơn sẽ thực hiện một hành động nào đó chứ không bỏ qua đơn kiện và có nguy cơ bị phán quyết mặc định.
Chiến thuật thứ hai mà bị đơn áp dụng là lên tiếng phản đối rằng không liên quan đến các tình tiết vụ kiện. Cách thức phản đối được áp dụng theo mẫu đơn xin bãi bỏ. Đơn này là một yêu cầu chính thức lên tòa án, ở đây là để bác bỏ vụ kiện mà không cần nắm được cốt lõi vấn đề của sự việc đã xảy ra.
Một vài trong số những cách thức phản đối này là thông thường. Một bị đơn có thể nói rằng mẫu trát tòa hoặc biện pháp tống đạt, việc gửi đơn kiện và trát tòa qua bưu điện đã có sai sót kỹ thuật, chẳng hạn, khi dịch vụ cá nhân được yêu cầu. Nếu nguyên đơn có thể khắc phục sai sót đó, trong trường hợp này là gửi cho bị đơn với tư cách cá nhân, thì cách thức phản đối có thể là hoãn vụ kiện chứ không dừng lại ở đó. Nếu nguyên đơn không thể khắc phục sai sót bởi vì bị đơn không được tống đạt, thì chiến lược của bị đơn có thể là ngăn cản vụ kiện tiến xa hơn.
Một cơ sở quan trọng hơn đối với đơn xin bãi bỏ là tòa án không có thẩm quyền xét xử đối với bị đơn hoặc vụ kiện. Hãy nhớ là tòa án chỉ có thể đưa ra phán quyết có tính ràng buộc trong một vụ kiện khi tòa án có thẩm quyền xét xử, hoặc thẩm quyền về vấn đề của vụ kiện và thẩm quyền đối với các bên. Nếu bị đơn chứng tỏ được rằng tòa án không có thẩm quyền xét xử, tòa án sẽ không có quyền tiến hành bất kỳ hành động nào ngoài việc chính thức công nhận mình không có thẩm quyền xét xử bằng cách bãi bỏ vụ kiện. Đây đúng là chiến lược mà World-Wide Volkswagen và Seaway Volkswagen phát hiện trong vụ kiện của vợ chồng Robinsons. Cho rằng tòa án tiểu bang Oklahoma không có thẩm quyền xét xử cá nhân đôi bên đối với họ bởi vì họ không có mối liên hệ với tiểu bang ngoài sự việc vợ chồng Robinson tình cờ lái chiếc xe của họ đến đó, World-Wide và Seaway đã xin đứng ngoài vụ kiện mà không cần phải biện hộ theo phán quyết.
Động thái thứ ba mà bị đơn có thể thực hiện là phản đối hồ sơ pháp lý của nguyên đơn. Thủ tục này đã được biết từ lâu là việc bác bỏ, và ngày nay được gọi thông thường hơn là đơn xin bãi bỏ do thiếu yếu tố pháp lý hoặc thiếu nguyên nhân tố quyền. Trong một đơn xin bãi bỏ nêu trên, bị đơn lập luận rằng ngay cả khi toàn bộ sự việc được nguyên đơn cho là đúng thì cũng không có cơ sở pháp lý để cho rằng bị đơn phải chịu trách nhiệm pháp lý trước nguyên đơn. Vì vậy, đơn này đã kiểm tra tính thuyết phục trong lập luận pháp lý của nguyên đơn mà không cần tìm hiểu sự việc chính trong vụ tranh chấp.
Chẳng hạn, giả sử luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn của tiểu bang Oklahoma nêu rõ rằng nhà sản xuất sản phẩm bị lỗi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với người tiêu dùng bị thương tích do sản phẩm đó gây nên, nhưng nhà phân phối sản phẩm chứ không sản xuất thì không có trách nhiệm với người tiêu dùng. Seaway Volkswagen có thể xin bãi bỏ vụ kiện của vợ chồng Robinson đối với mình vì thiếu yếu tố pháp lý cấu thành hành vi vi phạm. Thậm chí chiếc Audi bị lỗi và lỗi đó đã góp phần gây nên thương tích cho gia đình Robinson, theo luật pháp thì Seaway, một công ty bán lẻ, không có trách nhiệm với vợ chồng Robinson. Seaway sẽcó cùng vị thế như thể vợ chồng Robinson kiện Ford, GM, hoặc IBM; bất kể sự việc nào trong vụ kiện, pháp luật đều không có biện pháp chế tài đối với bị đơn này.
Nếu bị đơn không có cơ sở đưa đơn xin bãi bỏ đơn kiện, hoặc nếu không có bất kỳ đơn bãi bỏ nào, cuối cùng bị đơn phải đáp ứng đơn kiện theo tình tiết của vụ kiện. Bị đơn có thể thực hiện việc này bằng cách đệ trình một đơn bào chữa gọi là đơn trả lời trong đó trả lời rõ ràng các lập luận được đưa ra trong đơn kiện của nguyên đơn. Bị đơn có thể đáp ứng các lập luận của nguyên đơn bằng ba cách, chẳng hạn, trả lời là “không” (không chấp nhận các lập luận là đúng), “tôi không biết” (không thừa nhận đã biết lập luận đó), hoặc “có, nhưng… ” (thừa nhận lập luận đó nhưng nêu rõ sẽ biện hộ chống lại khiếu nại của nguyên đơn).
Cách lý tưởng là bị đơn có thể phủ nhận mọi sự việc mà nguyên đơn nêu trong đơn kiện, do đó, dấu toàn bộ thông tin mà bị đơn có về vụ kiện và đẩy nguyên đơn vào tình thế rắc rối khi phải chứng minh mọi thông tin mà nguyên đơn cần để xác lập đơn kiện. Trong các thời đại trước đây và trong một vài lãnh thổ ngày nay, bị đơn có thể thực hiện việc này thông qua hành động được gọi là sự phủ nhận chung, có nghĩa là bất đồng với mọi luận điểm trong đơn kiện. Ngày nay, phần lớn tòa án không còn cho phép sự phủ nhận chung nữa vì trong hầu hết các vụ kiện, sự phủ nhận chung đi ngược lại với mục đích của các đơn bào chữa và mục tiêu của hệ thống tố tụng. Quá trình biện hộ nhằm giúp xác minh và thu hẹp các vấn đề đang tranh chấp. Nếu bị đơn, bằng cách phủ nhận chung, phủ nhận luận điệu mà bị đơn đã nhận biết là đúng thì vấn đề có thể được loại trừ không cần thiết phải nêu lên. Theo quan điểm của hệ thống, việc này không hiệu quả và cho thấy sự thiếu trung thực.
Đôi khi, bị đơn sẽ thừa nhận rằng các yếu tố cần thiết trong đơn kiện của nguyên đơn có thể là đúng, nhưng bị đơn sẽ lập luận rằng đơn kiện không nêu hết toàn bộ câu chuyện. Nếu trong trường hợp trên, trong bản trả lời của mình, bị đơn có thể đưa ra đơn bào chữa bác bỏ lý lẽ của nguyên đơn. Đơn bào chữa có đưa vào một nhân tố mới miễn trừ hoặc giảm trách nhiệm của bị đơn ngay cả khi toàn bộ các yếu tố trong khiếu nại của nguyên đơn đã được xác lập. Chẳng hạn, nếu tai nạn của vợ chồng Robinson đã xảy ra cách đây mười năm, Audi có thể nêu lên quy tắc về thời hạn truy tố như là đơn bào chữa bác bỏ lý lẽ của nguyên đơn, quy tắc này đòi hỏi các vụ kiện phải được đệ trình trong một thời hạn quy định.
Thông thường, bị đơn không biết liệu một số khiếu nại của nguyên đơn có đúng hay không. Khi vợ chồng Robinson viện lý rằng họ bị thương tích nghiêm trọng trong vụ đâm xe và phải chịu một khoản tiền chi phí thuốc men lớn, Audi có thể không thừa nhận hoặc không phủ nhận khiếu nại vì Audi chưa nhìn thấy bản ghi nhận chi phí thuốc men của gia đình Robinson. Trong trường hợp đó, các quy tắc tố tụng dân sự thực sự đã cho phép bị đơn nói “tôi không biết”. Điều này đã đẩy vấn đề đi đến tranh chấp và nguyên đơn phải thu thập được bằng chứng. Tất nhiên, mong muốn khuyến khích tính trung thực và xác định các vấn đề tranh chấp thông qua các đơn bào chữa đòi hỏi bị đơn phải thực sự không biết liệu lập luận của nguyên đơn có đúng hay không, và tòa án thường đưa ra yêu cầu đó để buộc bị đơn phải tiến hành một mức độ điều tra hợp lý để khẳng định tính chính xác. Ví dụ, nếu lập luận liên quan đến một số sự việc mà chính bị đơn đã thực hiện, bị đơn không thể tuyên bố là không biết; nếu vợ chồng Robinson viện lý rằng cuốn sách quảng cáo của Audi mô tả 100 LS là “chiếc xe an toàn nhất trên đường”, Audi không thể phủ nhận là không biết những gì trong cuốn sách đó trong khi chỉ cần kiểm tra sơ qua bản lưu cuốn sách đó cũng có thể hé lộ sự thực. Thêm nữa, mục đích của quá trình này là để xác định một cách hiệu quả vấn đề các bên thực sự đang tranh chấp và vấn đề mà họ có thể đồng thuận.
Vụ kiện sẽ như thế nào nếu có từ hai bên trở lên?
Thông thường, chúng ta cho rằng một vụ kiện liên quan đến hai người, nguyên đơn và bị đơn. Nhưng như chúng ta nhận thấy từ vụ kiện của vợ chồng Robinson, thậm chí một vụ kiện bình thường cũng có thể liên quan đến nhiều bên trong vụ kiện đặc biệt đó là bốn nguyên đơn (Kay, Harry Robinson và những đứa con của họ) và bốn bị đơn (Audi, Volkswagen của Mỹ, World-Wide Volkswagen, và Seaway Volkswagen). Việc chuyển từ nguyên mẫu của một vụ kiện hai thái cực giữa hai bên kiện về một vấn đề duy nhất thành một vụ kiện phức tạp hơn liên quan đến một số bên và một số vấn đề đặt ra thách thức đối với hệ thống tố tụng. Nhưng cách thức mà hệ thống giải quyết những vụ kiện phức tạp hơn đã cho chúng ta biết nhiều về thủ tục tố tụng dân sự hiện đại.
Một nguyên tắc không rõ ràng nhưng hiệu quả đã chi phối khả năng của tòa án trong việc xét xử các vụ kiện liên quan đến nhiều bên và nhiều khiếu nại. Một tòa án có toàn quyền quyết định thực hiện hành động phù hợp nhất với luật nội dung, quy trình xét xử công bằng, và tính hiệu quả. Thông thường, giải quyết một số tranh chấp liên quan trong một vụ kiện đơn lẻ là tốt nhất, ngay cả khi vụ kiện đó có phải đưa ra các bên khác và khiếu nại khác. Theo phương cách trên, các bên không phải nỗ lực gấp đôi, lãng phí thời gian, và có nguy cơ đem lại kết quả trái ngược do kiện đi kiện lại một vấn đề hoặc các vấn đề tương tự tại các diễn đàn khác nhau. Đồng thời, tòa án có thể tách riêng các vấn đề hoặc các bên nếu việc đưa ra các bên hoặc khiếu nại khác sẽ làm cho vụ kiện quá phức tạp hoặc có nguy cơ tạo nên sự định kiến không đúng đối với ai đó.
Các nguyên đơn có thể thường cùng nhau đệ trình vụ kiện nếu khiếu nại của họ phát sinh từ cùng sự kiện và liên quan đến những vấn đề chung về luật hoặc sự việc. Harry, Kay Robinson và các con của họ đều bị thương trong cùng một tai nạn, vì vậy họ đệ trình vụ kiện thành một thủ tục tố tụng và do một luật sư đại diện. Việc yêu cầu mỗi người trong số họ kiện Audi riêng rẽ thì quả thực không hiệu quả và có thể không công bằng.
Điển hình về việc kết hợp kiện cáo thường xảy ra đối với các thảm họa hàng loạt. Và trong một vụ kiện nổi tiếng tại Tòa phúc thẩm của New York, Jesse Akely và 192 nhà đầu tư khác đã được phép đệ trình vụ kiện đơn lẻ đối với những người sáng lập công ty chứng khoán bị cho là đã lừa gạt họ (vụ Akely kiện Kinnicutt, 1924). Thậm chí các nguyên đơn không cùng đệ trình vụ kiện, tòa án có quyền lựa chọn hợp nhất các vụ kiện theo yêu cầu của bị đơn, hoặc theo đề xuất của tòa án. Mười tám ngàn vụ kiện đối với Eli Lilly & Co phát sinh từ các vấn đề có liên quan đến thuốc chống loạn thần kinh Zyprexa được hợp nhất tại tòa án liên bang ở Brooklyn; toàn bộ các nguyên đơn có mặt tại một tòa án đã tạo điều kiện cho việc xét xử vụ kiện. Các tòa án có thẩm quyền đã nỗ lực đáng kể để vạch ra cách thức giải quyết phù hợp các vụ kiện này, ngay cả khi chúng được đệ trình tại các tòa án khác nhau.
Bây giờ hãy xem xét khía cạnh kiện tụng của các bị đơn. Vợ chồng Robinson đã kiện Audi, nhà sản xuất; Volkswagen của Mỹ, nhà nhập khẩu; World-Wide Volkswagen, nhà phân phối; và Seaway Volkswagen, công ty kinh doanh xe hơi. Các nguyên đơn được áp dụng cùng một nguyên tắc. Một vài hoặc tất cả các bị đơn đều có khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý vì cùng chuỗi sự kiện: sản xuất và bán chiếc xe Audi với bình ga bị cho là có lỗi gây thương tích cho gia đình Robinson trong vụ tai nạn. Vì việc xét xử sẽ tương tự đối với tất cả các bị đơn, nên cách hiệu quả nhất là mọi vấn đề được xét xử cùng một lúc. Trên thực tế, nếu vợ chồng Robinson muốn kiện người lái chiếc xe đã đâm vào họ, họ có thể và có lẽ đã đưa khiếu nại đó trong cùng một vụ kiện. Tuy nhiên, trong vụ kiện đó, không chỉ có bằng chứng và lập luận khác về mỗi trách nhiệm của bị đơn mà các khiếu nại cũng có thể khác nhau. Nếu các sự việc khác với sự việc trong vụ kiện thực tế, bằng cách đệ trình vụ kiện, vợ chồng Robinson có thể kết tội rằng sự bất cẩn của người lái xe kia đã gây thiệt hại hoặc lỗi trong chiếc Audi của họ đã gây thiệt hại; họ được phép đưa toàn bộ bị đơn có thể phải chịu trách nhiệm ra tòa và không công nhận bằng chứng nếu có thể. (Trong vụ kiện thực tế, họ lập luận rằng người lái xe kia đã bất cẩn và bình xăng bị lỗi đã làm cho thương tích của họ nghiêm trọng hơn).
Nếu một nguyên đơn chọn không kiện toàn bộ các bên có thể phải chịu trách nhiệm, bị đơn ban đầu cũng có thể chọn như vậy. Giả sử vợ chồng Robinson vì lý do nào đó quyết định chỉ kiện Seaway, một công ty kinh doanh xe hơi, nơi vợ chồng Robinson đã mua chiếc xe. Seaway có thể khởi kiện Audi với tư cách là một bị đơn dựa trên lý thuyết là theo hợp đồng hoặc theo khía cạnh pháp lý, nhà sản xuất phải thanh toán bất kỳ thiệt hại nào mà công ty kinh doanh xe hơi được coi là phải có trách nhiệm do lỗi sản phẩm. Seaway có lẽ cũng kiện người lái chiếc xe kia, cho rằng đó là do anh ta bất cẩn và anh ta phải có trách nhiệm đối với một số hoặc toàn bộ thương tích của gia đình Robinson.
Ngoài việc liên quan đến nhiều bên, các vụ kiện thường liên quan đến nhiều khiếu nại. Rõ ràng đây là vụ kiện nếu vợ chồng Robinson kiện các bị đơn của Audi dựa trên lý thuyết trách nhiệm đối với sản phẩm và do sự bất cẩn của lái xe, nhưng vụ kiện sẽ ngày càng trở nên phức tạp hơn. Một kiểu khiếu nại được gọi là phản tố, trong đó bị đơn kiện lại nguyên đơn. Nếu người lái chiếc xe kia bị thương trong vụ tai nạn, khi vợ chồng Robinson kiện anh ta, anh ta sẽ trả lời phản tố đối với họ, cho rằng sự bất cẩn của họ có khả năng làm cho anh ta bị thương. Việc này có liên quan đến khiếu nại của họ đối với anh ta một cách rõ ràng đến mức tòa án yêu cầu người lái xe khởi kiện tương tự; nếu anh ta không kiện thì sau đó anh ta không có quyền đệ trình một vụ kiện nào khác đòi bồi thường thương tích cho mình. Trong những vụ kiện khác, phản tố không có mối liên hệ quá gần với các sự kiện đang đề cập đến mức phải được xem xét yêu cầu phản tố tại cùng thời điểm, nhưng bị đơn có thể kiện vì các bên đang hầu tòa và kiện bằng bất kỳ giá nào. Giả sử ngay sau khi tai nạn xảy ra, Harry Robinson khi chưa bị thương nặng, nhảy ra khỏi xe và hét lên “Điên à, hãy nhìn xem anh đã làm gì”, và đấm liên tục vào mặt người lái xe. Sau đó trong chính vụ kiện của vợ chồng Robinson hoặc một vụ kiện riêng rẽ khác, người lái xe có thể khiếu nại tội bạo hành vì bị đấm. Thậm chí khi chỉ có rất ít bằng chứng trùng hợp giữa khiếu nại tai nạn của vợ chồng Robinson và khiếu nại của người lái xe vì bị đấm, yêu cầu phản tố vẫn có thể được đưa ra trong vụ kiện ban đầu. Nhưng vì nó sẽ làm cho các phiên xét xử trở nên quá phức tạp nếu các bị đơn, như một hình thức phản tố, phải đưa ra mọi khiếu nại mà họ có đối với nguyên đơn, bất kể không liên quan nhiều đến sự việc chính, người lái xe có thể kiện tội bạo hành vào mộ vụ kiện khác.
Một kiểu khiếu nại khác xảy ra khi các bị đơn đánh nhau. Giả sử sau tại nạn, chiếc Audi bốc cháy và làm cho vợ chồng Robinson và cả người lái xe kia cùng bị thương. Vợ chồng Robinson coi Audi và người lái xe kia là các bị đơn trong vụ kiện của họ, cho rằng sự bất cẩn của người lái xe đã gây nên vụ kiện và lỗi sản phẩm đã làm cho vụ kiện tồi tệ hơn. Người lái xe có thể đệ trình một đơn phản tố đối với Audi, cho rằng anh ta bị thương là bởi chiếc Audi bị lỗi đã bốc cháy. Đơn phản tố giống như một yêu cầu kiện mới ngoại trừ đó là hành vi phát sinh giữa các bị đơn và có thể được đưa ra xét xử cùng với vụ kiện chính.
Vụ kiện sẽ như thế nào nếu có nhiều bên?
Thỉnh thoảng có quá nhiều bên thường là phía nguyên đơn, đôi khi mới là phía bị đơn liên quan đến một vụ kiện đơn lẻ mà tòa án coi họ là một nhóm chứ không phải từng cá nhân. Kiểu vụ kiện như thế này được coi là một vụ kiện tập thể, vì các bên riêng rẽ đại diện cho nhiều thành viên của một nhóm người giống như họ, như luật sư nói, “bị lâm vào tình huống tương tự”. Cụ thể, các thành viên trong nhóm khác cùng chia sẻ sự bất bình. (Đôi khi nhiều vụ kiện được đệ trình chống lại một bên duy nhất nhưng việc xử lý vụ kiện tập thể lại không phù hợp, các vụ kiện đó sẽ được hợp nhất tại một tòa án cho tiện lợi. Chẳng hạn, trong vụ khởi kiện liên quan đến thuốc điều trị ốm nghén Bendectin, hơn một ngàn vụ kiện đã được chuyển đến Tòa án Quận Hoa Kỳ ở Quận phía Nam của tiểu bang Ohio để kết hợp với hàng trăm vụ kiện khác ban đầu được đệ trình ở đó.)
Giả sử vợ chồng Robinson đã vay tiền để mua chiếc xe của họ thông qua công ty tài chính riêng của Volkswagen, họ cho rằng công ty tài chính đã tính phí quá cao với họ do tính toán sai mức lãi suất trên khoản vay, và các khách hàng khác của công ty tài chính tin rằng họ cũng bị tính phí quá cao theo cách tương tự. Nếu có hàng trăm, hàng ngàn, hoặc hàng triệu vụ kiện như vậy, việc vụ kiện được xét xử như là một vụ kiện tập thể có thể dễ quản lý hơn và vấn đề chi phí vượt mức có thể được xác định một lần cho toàn bộ các nguyên đơn. Trong một vụ kiện tập thể, vợ chồng Robinson có thể đệ trình một vụ kiện tập thể thay mặt cho chính họ và những khách hàng khác; là một thành viên trong vụ kiện tập thể, các khách hàng khác thực tế không tham gia vào quá trình kiện tụng và thậm chí có lẽ không biết về vụ kiện, nhưng họ sẽ phải tuân thủ kết quả và phán quyết cuối cùng của vụ kiện.
Một số vụ kiện tập thể gây nhiều sự chú ý. Một vụ nổ tại nhà máy lọc dầu Shell Oil đã dẫn đến vụ kiện tập thể liên quan đến 18.000 nguyên đơn bị thương tích. Các cựu chiến binh trong cuộc Chiến tranh Việt Nam và gia đình họ kiện các nhà sản xuất Chất độc Da cam, một loại thuốc diệt cỏ được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam để phát quang hủy diệt các cánh đồng và khu rừng, và được cho là đã gây ra hàng loạt bệnh tật cho những người lính đã tiếp xúc với nó. Cuối cùng, khiếu kiện này đã tạo thành một vụ kiện với tập thể các nguyên đơn bao gồm gần 2,5 triệu cựu chiến binh và các thành viên trong gia đình họ. Năm triệu nhà kinh doanh trong một vụ kiện tập thể đã kiện MasterCard và Visa vì đã vi phạm luật chống độc quyền.
Bằng cách cho phép các nguyên đơn đệ trình vụ kiện tập thể, tòa án cố gắng cân bằng các mục đích xung đột về thủ tục tố tụng dân sự. Đương nhiên, mục đích cuối cùng là tiến hành các chính sách và giá trị của các quy tắc luật chính. Đặc biệt khi nhiều nguyên đơn là cá nhân, và mỗi cá nhân có các khiếu nại khá nhỏ thì việc này chỉ được thực hiện thông qua một vụ kiện tập thể. Bên vay có thể thanh toán thêm một vài đô-la khi công ty tài chính tính toán nhầm mức lãi suất. Do quy mô khiếu nại và chi phí kiện tụng nhỏ nên không đáng để bên vay đệ trình đơn kiện. Nhưng thiệt hại tập thể của toàn bộ các bên vay là rất lớn. Bằng cách đệ trình một đơn kiện thay cho tất cả các bên vay, vụ kiện tập thể đảm bảo rằng luật quy định việc thể hiện sai mức lãi suất được áp dụng và những người bị hại do hành vi sai trái sẽ được bồi thường.
Việc tập hợp các khiếu nại trong một vụ kiện mà khó có thể liên kết toàn bộ các nguyên đơn cũng phục vụ cho việc áp dụng hệ thống kiện tụng hiệu quả. Một vụ kiện tập thể ít nhất thường liên quan đến một vấn đề pháp luật hoặc sự việc thông thường đối với tất cả các khiếu nại, chẳng hạn như liệu mức lãi suất có bị tính nhầm. Việc kiểm tra và phán quyết vấn đề đó một lần thì hiệu quả hơn là thực hiện lặp đi lặp lại trong các vụ kiện khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp các sự việc hoặc luật áp dụng đối với mỗi nguyên đơn quá khác nhau thì một vụ kiện tập thể không đem lại hiệu quả. Ngay cả khi hàng ngàn chiếc Audi khác giống như chiếc Audi của vợ chồng Robinson liên quan đến các tai nạn, trong đó bình ga bị lỗi được cho là nguyên nhân gây cháy, những vụ kiện này sẽ không phù hợp lắm với việc xét xử vụ kiện tập thể bởi vì tìm kiếm bằng chứng về sự việc cụ thể của các vụ tai nạn và nguyên nhân dẫn đến thương tích quả là quá khó.
Do hầu hết các thành viên trong vụ kiện tập thể không tham gia kiện tụng nên các vụ kiện tập thể cũng hàm chứa các mối lo ngại đặc biệt về sự công bằng. Toàn bộ các thành viên trong vụ kiện tập thể sẽ phải tuân thủ kết quả của vụ kiện, vì vậy tòa án phải gửi cho các thành viên vắng mặt trong vụ kiện tập thể thông báo đầy đủ về các sự việc đang xảy ra, cho họ có cơ hội để chọn lựa không tham gia vụ kiện tập thể mà kiện riêng rẽ, và đảm bảo rằng những người đại diện trong vụ kiện tập thể và các luật sư của họ đại diện công bằng cho lợi ích của các thành viên vắng mặt.
Vì quy mô lớn và chi phí tiềm tàng đối với bị đơn chịu phán quyết bất lợi là rất lớn, các vụ kiện tập thể thường được giải quyết hơn là xét xử. Quả thực, đôi khi các vụ kiện tập thể được đệ trình nhằm mục đích để giải quyết; các luật sư của nguyên đơn và các bị đơn sẽ đàm phán và đi đến thỏa thuận giải quyết trước khi hoặc ngay sau khi vụ kiện được đệ trình mà thực sự không bao giờ mong muốn đưa ra xét xử. Trong những vụ kiện như thế này, tòa án có nghĩa vụ quan trọng là xem xét cẩn thận liệu vụ kiện này có phù hợp đối với một vụ kiện tập thể và liệu việc giải quyết được đề xuất có công bằng hay không.
Luật về các vụ kiện tập thể là rất phức tạp và gây nhiều tranh cãi gay gắt. Một số tòa án coi các vụ kiện tập thể như là phương tiện hiệu quả để bác bỏ khá nhanh chóng một số lượng lớn các khiếu nại; ngay cả một vụ kiện tập thể có thể phức tạp và nhiều thủ tục cồng kềnh; nó vẫn tốt hơn hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn vụ kiện riêng lẻ. Các tòa án khác miễn cưỡng sử dụng phương tiện này trong mọi vụ kiện lớn, cho rằng việc một vụ kiện càng xa rời mẫu xét xử truyền thống một tranh chấp đã được xác định rõ ràng giữa hai bên tranh chấp tòa án càng ít được trang bị tốt để giải quyết vấn đề. Và nhiều doanh nghiệp không thích kiện tập thể, coi chúng như là một chiếc dùi cui được luật sư của nguyên đơn sử dụng để ép phải giải quyết hàng loạt vấn đề và phát sinh các khoản phí lớn.
Một trong những sản phẩm ra đời trong cuộc tranh cãi này là Đạo luật về sự Công bằng đối với Vụ kiện Tập thể, được tái ban hành năm 2005. Một thời gian dài theo đuổi phong trào cải cách luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn, đạo luật này đã cắt bớt một số hành vi lạm dụng các vụ kiện tập thể gây nhiều rắc rối nhất đến các lợi ích kinh doanh. Đạo luật đã chuyển nhiều vụ kiện tập thể lên tòa án liên bang, cơ quan có khả năng hoãn hoặc thậm chí ngăn không cho xét xử các vụ kiện tập thể vì các tòa án liên bang bận hơn, các thẩm phán của tòa án liên bang được cho là ít tiếp cận với các vụ kiện tập thể hơn các thẩm phán của tòa án tiểu bang, và họ dễ bác bỏ các vụ kiện tập thể khi phải áp dụng các quy định xung đột của luật tiểu bang.
Đạo luật cũng nhấn mạnh vào chi phí thuê luật sư và “việc thanh toán bằng phiếu quà tặng”. Trong việc thanh toán bằng phiếu quà tặng, các thành viên của nhóm không được nhận bồi thường bằng tiền mặt; thay vì thế, họ nhận phiếu quà tặng có thể được sử dụng như một khoản nợ hoặc khấu trừ trong một giao dịch tương lai với bị đơn. Ví dụ, các thành viên trong một nhóm đệ trình đơn kiện Ford vì các lỗi ở cánh cửa của chiếc Mustang đã nhận được một phiếu quà tặng trị giá 400 đô-la, có thể đổi khi mua một chiếc Ford mới trong năm tới. Và, trong một vụ kiện chống độc quyền đối với Nintendo, những người mua hệ thống trò chơi video được nhận các phiếu quà tặng trị giá năm đô-la cho một trò chơi. Theo đạo luật này, như trước đó, tòa án phải xem xét cẩn thận tính công bằng của việc thanh toán bằng phiếu quà tặng. Ngày nay, tòa án cũng phải tính toán dựa vào chi phí thuê luật sư trên giá trị của phiếu quà tặng có thể đổi được thực tế, chứ không phải là giá trị phát hành. Thông thường, nhiều thành viên trong nhóm đã nhận được phiếu quà tặng sẽ không đổi nó; họ có thể không mua xe Ford mới trong năm tới, hoặc họ có thể không chú ý và quên phiếu quà tặng của Nintendo.
Các bên tìm hiểu sự việc về vụ kiện bằng cách nào?
Việc này được xử lý thông qua một quá trình được gọi là sự tìm hiểu. Việc tìm ra một sự việc mà một bên cần phải biết trong quá trình kiện tụng quả là dễ dàng. Ví vụ, vợ chồng Robinson biết tốc độ họ đang đi trước khi tai nạn xảy ra và thương tích của họ nặng ở mức nào. Mặt khác, Audi biết bình nhiên liệu được thiết kế và sản xuất như thế nào. Nhưng mỗi người trong số họ lại muốn nắm được thông tin mà bên kia có vợ chồng Robinson muốn biết về cấu tạo bình nhiên liệu, và Audi muốn biết về tai nạn và mức độ thương tích.
Việc xét xử có thể tiến hành mà không cần một bên phải tìm hiểu trước xem bên kia đã biết được sự việc gì. Đó là hệ thống luật chung theo truyền thống, trong đó các sự việc chỉ được phát triển một cách tối thiểu nhờ sự bào chữa và các bên không còn cơ hội nào khác trước tòa án để tìm hiểu xem bên kia đã biết được sự việc gì. Nhưng thủ tục tố tụng dân sự hiện đại sử dụng một hệ thống mở hơn, theo đó mỗi bên có cơ hội lớn hơn để khám phá toàn bộ sự việc liên quan đến vụ kiện trong suốt giai đoạn trước khi xét xử. Để thu thập được thông tin thuộc quyền sở hữu của đối phương, hoặc thông tin có thể thu thập được một cách dễ dàng từ đối phương ngay cả khi thông tin đó có thể đã được đăng tải trên một phương tiện nào đó, một bên có thể phỏng vấn bên kia, được gọi là chất vấn; đệ trình các câu hỏi viết sẵn, được gọi là cung từ; yêu cầu cung cấp các tài liệu hoặc bằng chứng xác thực; đề nghị bên kia phải đệ trình bản kiểm tra thực tế; và yêu cầu bên kia phải thừa nhận sự thật về các sự việc liên quan đến vụ kiện.
Chất vấn là một cuộc thẩm vấn của một bên hoặc một người nào đó về sự hiểu biết vụ kiện. Chất vấn giống như cuộc thẩm vấn đối với một nhân chứng trước tòa do luật sư thực hiện, được ghi lại đúng nguyên văn, và nhân chứng phải tuyên thệ; những sự khác biệt chính là cuộc thẩm tra này không được thực hiện trước mặt thẩm phán và không có sự kiểm tra chéo. Thay vì vậy, một báo cáo viên của tòa án tuyên thệ làm chứng và ghi chép lời khai. Bằng cách chất vấn một ai đó, luật sư có thể hiểu được sự nhận biết của người đó một cách linh hoạt; câu trả lời cho một câu hỏi có thể mở ra hàng loạt câu hỏi mới. Nếu người làm chứng có thể khai một cách bất lợi tại phiên tòa, chất vấn đến lúc buộc phải khai ra, cho phép luật sư phát triển bằng chứng đối lập hoặc sử dụng lời khai không thống nhất giữa lời khai từ chất vấn và lời khai sau đó tại phiên tòa. Việc này cũng tạo cho luật sư của hai bên có cơ hội để đánh giá đạo đức của người làm chứng tại phiên tòa – không chỉ ở những gì mà người làm chứng nói mà còn ở độ thuyết phục và tin cậy của người đó.
Một bất lợi của việc chất vấn là vấn đề chi phí. Trong một cuộc chất vấn điển hình, luật sư của cả hai bên sẽ có mặt, nâng thêm mức phí của họ; và báo cáo viên của tòa án cũng được thanh toán phí. Một cách để giảm chi phí này là sử dụng biện pháp đệ trình các câu hỏi viết sẵn (cung từ), được trả lời bằng cách tuyên thệ. Toàn bộ các việc mà luật sư phải làm là soạn thảo và đệ trình cung từ, không cần có mặt tại cuộc chất vấn; vì vậy, cung từ có thể rẻ hơn nhiều, đặc biệt vì cung từ theo mẫu chuẩn thường được sử dụng cho các khía cạnh thông thường của vụ kiện. Chắc chắn, Audi sẽ gửi vợ chồng Robinson bản cung từ chuẩn được sử dụng trong mọi vụ kiện về thương tích cá nhân, yêu cầu họ nêu chi tiết thương tích và việc điều trị y tế. Cung từ cũng đặt bên đối phương có trách nhiệm tìm hiểu rõ ràng các sự việc cần thiết để trả lời các câu hỏi được đưa ra. Mặc dù sự bất lợi của cung từ là chúng có thể không linh hoạt và không tự nhiên. Các câu trả lời thường được luật sư soạn thảo cho bên phải trả lời nhưng không được quá cụ thể, khó hiểu, và phải thu hẹp vấn đề để không đưa nhiều thông tin hơn mức cần thiết. Luật sư cũng có thể không cần bám sát câu trả lời cho một câu hỏi bằng cách đưa ra câu hỏi khác; luật sư phải lường trước được toàn bộ câu hỏi có thể bị chất vấn và đưa các câu hỏi đó vào phần cung từ ban đầu.
Liên quan đến chất vấn hoặc cung từ, hoặc trong một đơn đề nghị riêng rẽ, một bên có thể yêu cầu bên kia cung cấp tài liệu hoặc bằng chứng khác. Vợ chồng Robinson có thể yêu cầu toàn bộ báo cáo kỹ thuật và kết quả kiểm tra về bình nhiên liệu của Audi, và Audi có thể yêu cầu hồ sơ y tế của vợ chồng Robinson. Nếu tình trạng sức khỏe hoặc trí tuệ của một người trong vụ kiện có vấn đề, một bên có thể yêu cầu tòa án yêu cầu họ trình bệnh án. Và một bên phải cho biết liệu họ có thuê chuyên gia để chứng minh tại tòa án và những vấn đề chuyên gia sẽ phải chứng minh là gì.
Cuối cùng, nếu một bên cho là một số sự việc không thể tranh cãi, bên đó có thể yêu cầu bên kia thừa nhận các sự việc đó là đúng, thu hẹp các vấn đề cần xét xử. Nếu Audi tin hoặc có bằng chứng cho thấy Harry Robinson đang lái xe quá nhanh, luật sư của Audi có thể yêu cầu vợ chồng Robinson thừa nhận sự việc đó; nếu sự việc đó là đúng, vợ chồng Robinson không thể phủ nhận việc đã lái xe nhanh mà phải thừa nhận. Điều này có thể không phải là kết luận của toàn bộ vụ kiện dù anh ta đang lái xe rất nhanh nhưng chiếc xe có lẽ vẫn không thể gây ra va chạm nhưng ít nhất nó cũng loại bỏ một vấn đề cần xem xét.
Tìm hiểu trước khi xét xử là lợi thế lớn đối với một hệ thống tòa án để đạt được một quy trình xét xử công bằng và hiệu quả không ngờ, làm tăng các giá trị của luật nội dung cơ bản. Ở trình độ hành nghề đơn giản, nó tập trung vào việc thu thập lại các chứng cứ ở giai đoạn đầu và bảo lưu thông tin mà có thể không có giá trị tại thời điểm xét xử. Vì giai đoạn này thường mất hàng năm để một vụ kiện dân sự được đưa ra xét xử, các nhân chứng có thể quên mất những chi tiết về sự việc hoặc thậm chí có thể đã chết, và các tài liệu hoặc bằng chứng khác có thể bị mất hoặc bị hủy. Tìm hiểu tốt nhất là trước khi xét xử, khi việc thu thập bằng chứng vừa mới được thực hiện và bằng chứng nhiều khả năng vẫn có giá trị.
Quan trọng hơn, nhờ tìm hiểu, các bên biết được diễn biến vụ kiện của mỗi bên và làm rõ những vấn đề thực sự đang gây tranh cãi. Việc này giúp các bên chuẩn bị cho phiên xét xử và đàm phán cách thức giải quyết vì nó thu hẹp lại vấn đề liên quan trong một vụ kiện và làm cho các bên có thể phán đoán được điểm mạnh và điểm yếu về vị thế của mỗi bên. Bằng cách tìm hiểu từ vợ chồng Robinson là tai nạn đã xảy ra vì xe bị đâm vào phần đuôi khi đang chạy ở tốc độ cao, các bị đơn thuộc Audi có thể kết luận rằng họ không phải đầu tư nguồn lực để chứng minh xe bị đâm trong tình huống vượt khi đang chạy với tốc độ chậm. Audi cũng có thể biết được mức độ thương tích của gia đình Robinson, Harry không lái xe cẩn thận, và anh ta sẽ trở thành một nhân chứng tốt tại tòa; những yếu tố này có thể thuyết phục Audi rằng đây là cơ hội tốt để bác bỏ một phán quyết lớn tại tòa, và có lẽ điều đó đã khuyến khích họ giải quyết vụ kiện. Nếu họ đến tòa án, tòa án có thể sẽ công bằng hơn khi cả hai bên đều có một cơ hội như nhau để đánh giá trước toàn bộ thông tin liên quan.
Cuối cùng, việc tìm hiểu làm tăng thêm các giá trị chính của luật, do có thể tạo điều kiện cho vụ kiện hoặc đòi quyền bào chữa, vì quyền này có thể không được thực hiện nếu không có quá trình tìm hiểu đầy đủ, và cho phép các bên đưa ra tất cả bằng chứng có thể liên quan đến việc áp dụng các quy định của luật. Vợ chồng Robinson sẽ không bao giờ biết hoặc có thể chứng minh được rằng bình xăng trong chiếc xe của họ bị lỗi trừ khi họ đã tiếp cận với các bản thuyết minh thiết kế, thử nghiệm, và nghiên cứu của các kỹ sư của Audi. Audi cũng có thể không bao giờ biết được việc vợ chồng Robinson đã góp phần vào vụ cháy do chứa thêm xăng trong những chiếc can để trong thùng xe. (Một trong những ví dụ điển hình nhất về chức năng tìm hiểu này xảy ra với các vụ kiện sai sót trong hành nghề y. Khi một bệnh nhân chịu thiệt hại do phẫu thuật, cô ta sẽ không bao giờ biết được thiệt hại đó là do sự bất cẩn của bác sỹ trừ khi, thông qua tìm hiểu, cô ta có thể xin trích sao hồ sơ y tế và lấy lời khai của các bác sỹ và y tá có mặt trong phòng phẫu thuật.) Chỉ khi các bên tìm hiểu và có mặt tại tòa án, toàn bộ bằng chứng liên quan đến vụ kiện mới có thể được áp dụng các quy tắc luật liên quan một cách chính xác.
Các chức năng tìm hiểu cho thấy phạm vi tìm hiểu – thông tin nào các bên có thể tìm hiểu và công cụ nào các bên có thể sử dụng để đạt được việc đó là rất rộng, và trong hầu hết hệ thống tòa án cũng như vậy. Tuy phạm vi tìm hiểu bị hạn chế bởi các yếu tố đối kháng nhưng gánh nặng áp đặt lên việc tìm hiểu quan trọng nhất là thời gian, sự phiền phức, và chi phí. Audi có thể liên tục đưa cho vợ chồng Robinson các bản cung từ cụ thể về mọi khía cạnh của vụ tai nạn, hồ sơ lái xe của Harry, hồ sơ y tế,… và có thể buộc mỗi người có mặt trong vài ngày để chất vấn và kiểm tra y tế. Để tuân thủ, họ phải tư vấn luật sư, tìm kiếm chứng từ, nghỉ việc, và đi đến văn phòng luật sư của Audi để chất vấn. Mặt khác, vợ chồng Robinson có thể tiến hành điều tra hồ sơ của Audi. Với ý tưởng ban đầu là chiếc xe bị hỏng bộ phận nào, họ có thể yêu cầu toàn bộ các nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm, báo cáo kỹ thuật, các khiếu nại, và các tài liệu khác có thể liên quan, và Audi sẽ phải tìm kiếm các hồ sơ của mình để trả lời đầy đủ.
Tìm hiểu quá mức là một rủi ro thực tế vì tìm hiểu là một phần của quá trình tranh tụng do luật sư của mỗi bên chỉ dẫn. Phần lớn, các bên có thể đệ trình bản cung từ, tiến hành chất vấn, và yêu cầu cung cấp tài liệu mà không cần sự cho phép của tòa án. Nhiều sự việc có thể ngoài tầm kiểm soát mặc dù tòa án đã áp đặt các giới hạn và kiểm tra đối với quá trình này.
Thứ nhất, việc sử dụng một số công cụ tìm hiểu bị hạn chế bởi các quy tắc của tòa án. Ví dụ, việc giám định y tế đã xâm phạm đến quyền riêng tư của một người, vì vậy việc giám định này chỉ được yêu cầu khi tình trạng sức khỏe của ai đó là một vấn đề lớn trong cuộc tranh cãi. Nếu mức độ thương tích của Kay Robinson đang gây tranh cãi, cô ấy có thể phải đệ trình kết quả khám bệnh chứ người chứng kiến tai nạn không buộc phải đệ trình kết quả khám mắt. Các quy tắc khác hạn chế một số kiểu cung từ có thể không được đệ trình hoặc một số kiểu chất vấn có thể không được thực hiện nếu không được sự cho phép đặc biệt của tòa án.
Thứ hai (và ngược lại), một số tòa án dưới sự chỉ đạo của hệ thống liên bang đã mở rộng quá trình tìm hiểu. Ngày nay, các Quy tắc Liên bang về Tố tụng Dân sự yêu cầu các bên tự động công bố nhiều thông tin mà các bên có và liên quan đến vụ kiện, bao gồm tên của người có thông tin và các vấn đề mà họ biết, một bản sao hoặc mô tả tài liệu hoặc tài sản liên quan, số tiền yêu cầu bồi thường và bằng chứng chứng minh cho yêu cầu bồi thường đó, và bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào quy định các khoản bồi thường tiềm tàng. Việc yêu cầu các bên trình ra những vấn đề họ biết ở giai đoạn đầu là để giảm các tiểu xảo và gánh nặng liên quan đến quá trình tìm hiểu.
Cuối cùng, ngay cả khi hầu hết quá trình tìm hiểu là do chính các luật sư chỉ đạo nhưng thẩm phán tòa án có quyền giám sát quá trình đó. Một số công cụ, chẳng hạn như trong các kiểu chất vấn, một số kiểu đã nêu ở trên có thể chỉ được sử dụng khi có sự cho phép của thẩm phán. Và nếu một phía phản đối chiến thuật tìm hiểu của bên kia như bản chất các câu hỏi sẽ được hỏi trong cuộc chất vấn, số lượng các đơn yêu cầu cần phải cung cấp, hoặc tính chất sở hữu thông tin được yêu cầu bên đó có thể kháng nghị thẩm phán để ra lệnh hạn chế việc tìm hiểu.
Những sự việc nào khác xảy ra trước khi xét xử?
Phim ảnh và truyền hình thường tập trung vào phần xét xử của quá trình kiện tụng. Trên thực tế, các phiên xét xử, chiếm một tỉ lệ khá nhỏ của các vụ kiện được đưa ra xét xử, chỉ diễn ra ở giai đoạn cuối của một quá trình kéo dài. Việc tìm hiểu chiếm phần lớn quy trình trước khi xét xử, nhưng giai đoạn trước khi vụ kiện đưa ra xét xử cũng phải thực hiện nghiên cứu luật pháp và sự việc, đàm phán giữa các bên, kiến nghị với tòa án về các vấn đề thủ tục hoặc nội dung, và các thủ tục tố tụng khác để thúc đẩy vụ kiện.
Đôi lúc, như chúng ta đã thấy, một vụ kiện có thể chấm dứt trước khi xét xử do bị bác đơn một quyết định của tòa án trong trường hợp các sự việc bị cáo buộc là đúng nhưng nguyên đơn không có quyền khởi kiện được pháp luật thừa nhận. Quyết định đó chỉ có thể được đưa ra dựa trên bản biện hộ. Sau khi các bên đã bắt đầu tìm kiếm các bằng chứng về vụ kiện thông qua quá trình tìm hiểu, có một hành động pháp lý liên quan gọi là phán quyết sơ thẩm được đưa ra. (“Sơ thẩm” theo nghĩa này là không phải một phiên xét xử đầy đủ.) Một bên có thể nhận được phán quyết sơ thẩm khi tòa án xác định không có sự việc nào thực sự đang gây tranh cãi (thường gọi là không có các vấn đề thực chất đối với sự việc quan trọng), và khi sự việc không thể tranh cãi được chỉ ra rõ ràng rằng một bên sẽ thắng theo luật. Tòa án có thể phán quyết toàn bộ vụ kiện dựa trên phán quyết sơ thẩm, đồng thời kết thúc vụ kiện, hoặc chỉ một phần của vụ kiện, giảm bớt các vấn đề được đưa ra xét xử hoặc tuyên bố một bên không liên quan đến vụ kiện. Bằng cách này, tòa án có thể loại bỏ những vụ kiện và vấn đề sẽ không thể thắng được tại phiên tòa, giảm nhiều chi phí, những bất lợi và sự trì hoãn; hoặc, trong vụ kiện đã phán quyết sơ thẩm một phần, tòa án có thể thu hẹp các vấn đề và nhờ vậy đơn giản hóa việc xét xử.
Trong suốt thời gian trước xét xử, và ở bất kỳ giai đoạn nào đó trong suốt quá trình tranh tụng, sẽ luôn có một bên đóng một vai trò chính trong việc định hướng dẫn dắt vụ kiện. Nhưng các vụ kiện phức tạp hơn xuất hiện ngày càng nhiều trong hệ thống tòa án, việc tìm hiểu được kéo dài, và một phần lớn các vụ kiện đã buộc thẩm phán đóng vai trò chủ động hơn trong việc giám sát, điều chỉnh hành vi khiếu kiện nhằm tăng tính hiệu quả. Việc quản lý quá trình trước khi xét xử của tòa án được thực hiện theo một số cách thức. Các quy tắc và thông lệ của tòa án thường quy định cụ thể rằng các luật sư phải tham gia nhiều cuộc thương lượng trước khi xét xử để đánh giá tình hình vụ kiện, quyết định các vấn đề cơ bản, và nói chung thúc đẩy vụ kiện. Ở giai đoạn đầu, thẩm phán có thể tổ chức một cuộc họp tìm hiểu, qua đó mọi người đồng ý phương án về thời hạn và số lượng các mục việc tìm hiểu được thực hiện trong vụ kiện. Gần đến phiên xét xử, nhiều tòa án yêu cầu một cuộc gặp trước xét xử giữa các luật sư, thẩm phán, và đôi khi cả những người được ủy quyền trong vụ kiện. Tùy thuộc vào các quy tắc và thông lệ của từng vùng và thiên hướng của thẩm phán, cuộc họp trước khi xét xử có thể nhằm chuẩn bị cuối cùng cho vụ kiện để đưa ra xét xử, hoặc để khuyến khích các bên tìm cách giải quyết, hoặc cả hai phương án trên. Tại cuộc gặp, nhiều luật sư sẽ cố gắng đưa ra các sự việc không gây tranh cãi, thu hẹp các vấn đề còn lại, trình danh sách các nhân chứng mà họ định gọi, và đồng ý về thời hạn xét xử. Nếu họ không đồng ý, thẩm phán sẽ quyết định các vấn đề này, và thẩm phán cũng sẽ giải quyết các kiến nghị chưa được giải quyết về các bằng chứng, nhân chứng, và các vấn đề khác.
Chức năng chính của quy trình trước xét xử là nhằm khuyến khích các bên giải quyết vụ kiện trước khi đưa ra xét xử. Đặc biệt, trong những hệ thống tòa án có khối lượng công việc lớn và các thẩm phán đang chịu áp lực lớn để phán quyết càng nhiều vụ kiện càng tốt, thẩm phán có thể sử dụng cuộc họp trước khi xét xử như một cơ hội để thuyết phục, o bế, và gây sức ép cho luật sư để tìm hướng giải quyết vụ việc trước khi xét xử. Nhiều bang đã thành lập chương trình pháp lý về giải quyết tranh chấp thay thế. Trước khi đưa ra xét xử, toàn bộ các vụ kiện hoặc những vụ kiện dưới đây, phải nộp một khoản tiền được dành cho trọng tài, cho việc tổ chức hòa giải hoặc một phiên tòa nhỏ. Các thủ tục tố tụng này thường diễn ra trước một nhóm luật sư, một hòa giải viên, một quan tòa, hoặc một thẩm phán. Ví dụ, trong vụ xét xử bằng trọng tài, các luật sư trình bản tóm tắt vụ kiện của họ và các trọng tài viên sẽ đưa ra quyết định ai là người có trách nhiệm nộp phí và số tiền là bao nhiêu. Xét xử trọng tài không có tính ràng buộc, và vì vậy một bên có thể vẫn chọn tiến hành xét xử tòa án, nhưng quy trình này có hiệu quả đáng kể trong việc giữ cho vụ kiện không đi quá xa. Xét xử trọng tài tạo cho các bên và luật sư của họ có sự đánh giá độc lập về điểm mạnh và điểm yếu của vụ kiện. Chẳng hạn, vợ chồng Robinson có thể nghĩ là họ có một vụ kiện kín đáo trị giá hàng triệu đô-la, nhưng nếu các trọng tài viên phát hiện được các bị đơn, hoặc chỉ ra một phán quyết nhỏ cho vợ chồng Robinson, đó có thể là việc kiểm tra thực tế và ngăn cản họ tiến hành xét xử tòa án. Thậm chí nếu các bên không chấp nhận phán quyết trọng tài, xét xử bằng thủ tục trọng tài có thể vẫn đưa ra một quan điểm tham khảo để đàm phán giải quyết. Dĩ nhiên, một con chim trong tay đáng giá hơn hai con trong bụi cây; các bên có lẽ thích trọng tài viên đưa ra một quyết định không thỏa mãn về một vấn đề nào đó còn hơn là đợi nhiều năm để nhận rủi ro bất trắc khi vụ kiện đưa ra xét xử tòa án.
Dù có hoặc không sự can thiệp chính thức của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp, cho đến nay phần lớn các vụ kiện hơn nửa tổng số vụ kiện, phụ thuộc vào thẩm quyền xét xử và tính chất vụ kiện được giải quyết trước tòa án. Trong các vụ kiện nhỏ, chi phí kiện tụng tiềm tàng lớn hơn số tiền có khả năng hoàn lại từ việc theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nếu vợ chồng Robinson chỉ liên quan đến một tai nạn ô tô nhẹ, người lái xe kia (hoặc công ty bảo hiểm của anh ta) thà thanh toán một khoản tiền bồi thường nhỏ hơn là thanh toán cho luật sư của họ để theo đuổi xét xử vụ kiện. Trong các vụ kiện lớn hơn, việc vụ kiện có thể cho thấy tính không chắc chắn, nguy cơ thua kiện lớn, và việc trì hoãn và chi phí đến tòa khiến các bên thường tìm kiếm cách giải quyết hơn là cơ hội xét xử tại tòa án. Nhưng không phải toàn bộ các vụ kiện đều được đền bù. Luật sư có thể giữ các quan điểm khác nhau về vụ kiện mà họ không đồng ý về giá trị đền bù. Hoặc họ có thể có mục đích khác trong đầu; một bên có thể muốn thiết lập một quy tắc pháp lý hoặc đơn giản muốn tạo dựng danh tiếng khi theo vụ kiện tụng đến gần giai đoạn cuối; một công ty bảo hiểm có thể rất muốn xác định các vụ kiện nhỏ để ngăn các chủ hợp đồng đưa ra khiếu nại bồi thường trong tương lai.
Những sự việc xảy ra tại tòa án?
Truyền hình, phim ảnh và các bản tin chỉ tập trung vào việc xét xử vì đó là phần hấp dẫn và quan trọng nhất của quá trình tranh tụng. Ngay cả khi chỉ một phần nhỏ của các vụ kiện dân sự được đưa ra tòa xét xử thì việc xét xử cũng là sự kiện trọng tâm trong kiện tụng, nổi bật nhất so với các phần còn lại của trình tự thủ tục này. Tiền lệ từ nhiều thế kỷ trước, cho đến thời đại vua nước Anh ngự tại triều đình xử án, việc xét xử hiện đại là một thể chế duy nhất ở Mỹ.
Có hai đặc điểm chính chi phối quá trình xét xử. Thứ nhất, xét xử thể hiện mạnh mẽ tính chất đối đầu của các bên tham gia tranh tụng; các luật sư bảo vệ cho các bên hình thành nên việc xét xử, và mỗi bên cố gắng thực hiện công việc này theo cách thức có lợi nhất với vị thế của mình. Thứ hai, trong hầu hết các vụ kiện dân sự, các bên có thể chọn vụ kiện được xét xử trước một hội thẩm đoàn; hội thẩm đoàn là vô cùng quan trọng đối với thủ tục tố tụng dân sự và thậm chí với luật nội dung. Cả hai đặc điểm này đều đang gây tranh cãi. Việc xét xử được coi là để tìm hiểu sự thật, và việc tranh tụng trước một hội thẩm đoàn không có kinh nghiệm có thể không phải là cách tốt nhất để tìm ra sự thật. Khi nghĩ đến sự việc sẽ diễn ra tại tòa án, vấn đề quan trọng là làm thế nào chúng ta có thể cân bằng giữa tìm hiểu sự thật và hiệu quả mong muốn của việc thực hiện các chức năng quan trọng trong lịch sử của hệ thống tranh tụng và hội thẩm đoàn. (Xét xử là một thủ tục tranh tụng được thảo luận tại phần này. Hội thẩm đoàn sẽ được thảo luận ở phần sau.)
Không có việc xét xử điển hình. Xét xử về khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn từ vụ kiện do trượt chân ngã hoặc vụ kiện về hợp đồng vay vốn ngân hàng có thể chỉ liên quan đến một vài nhân chứng và có thể chỉ mất nửa ngày. Tranh chấp về trách nhiệm sản phẩm phức tạp hơn, giống như tranh chấp của vợ chồng Robinson hoặc vụ kiện gian lận chứng khoán, có thể đòi hỏi nhiều nhân chứng, kể cả các nhà chuyên môn, và kéo dài vài tuần. Việc xét xử một số vấn đề cực kỳ phức tạp như khiếu nại về độc quyền hoặc vụ kiện tập thể có thể mất mấy tháng. Tuy nhiên, mọi phiên xét xử đều có cơ cấu căn bản giống nhau, một cơ cấu được xác định theo tính chất tranh tụng.
Hãy xem xét việc gì đã xảy ra tại phiên xét xử của vợ chồng Robinson. Nếu các bên chọn vụ kiện được xét xử bởi một hội thẩm đoàn, bước đầu tiên là chọn một hội thẩm đoàn. Khi các thành viên hội thẩm đoàn đã ngồi vào vị trí của mình và thẩm phán đã giới thiệu trình tự những sự việc sẽ diễn ra, luật sư của vợ chồng Robinson nói trước, giải thích vụ kiện như anh ta hiểu: các bên gồm những ai, tai nạn đã xảy ra như thế nào, thương tích của gia đình Robinson nghiêm trọng đến mức nào, và tại sao các bị đơn thuộc Audi lại phải chịu trách nhiệm pháp lý. Sau đó, đến lượt luật sư của các bị đơn đưa ra quan điểm của mình về vụ kiện. Trong một vụ kiện gồm nhiều bên, tất cả các bên cùng một phía có thể được đại diện bởi một luật sư, giống như vợ chồng Robinson, hoặc mỗi bên cùng một phía có thể có luật sư riêng. Nếu Seaway Volkswagen cho rằng vị thế pháp lý của mình có thể khác với Audi, Seaway Volkswagen có thể muốn luật sư riêng; nếu việc đó xảy ra, mỗi luật sư sẽ có cơ hội để trình bày.
Sau khi các bên trình bày sự việc xong, các nguyên đơn bắt đầu đưa ra bằng chứng chứng minh quan điểm của mình về vụ kiện. (Mọi người thường nói về nguyên đơn và bị đơn, nhưng toàn bộ những việc này đều do luật sư thực hiện.) Nguyên đơn luôn đi trước vì nguyên đơn có trách nhiệm dẫn chứng. Trách nhiệm nêu rõ chứng cứ phản ánh một nguyên tắc luật căn bản: Theo hệ thống của chúng ta, không ai phải chịu trách nhiệm về bất cứ việc gì trừ khi có lý do hợp lý để cho rằng người đó phải chịu trách nhiệm. Giả sử các bên đưa ra bằng chứng, hội thẩm đoàn xác định rằng bằng chứng có đủ tính thuyết phục trên mỗi phương diện; bình xăng có thể bị lỗi nhưng có thể không bị lỗi. Ai sẽ thắng kiện? Bị đơn sẽ thắng kiện vì nguyên đơn không đáp ứng được trách nhiệm nêu rõ chứng cứ của mình. Nguyên đơn phải chứng minh vụ kiện bằng một bằng chứng đáng tin cậy để thuyết phục thẩm phán hoặc hội thẩm đoàn tin rằng cách giải thích vụ kiện của nguyên đơn có thể đúng chứ không phải là đúng. Để áp đặt trách nhiệm pháp lý đối với ai đó, việc vi phạm một quy tắc luật có thể chưa đủ, mà phải chứng minh ít nhất là 51% khả năng họ đã thực hiện hành vi như vậy. (Tiêu chuẩn về bằng chứng đáng tin cậy thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn về bằng chứng được sử dụng trong các vụ kiện hình sự; vì việc áp dụng hình phạt hình sự của tiểu bang là một vấn đề nghiêm trọng, các vụ kiện hình sự đòi hỏi trách nhiệm dẫn chứng cao hơn để không có sự nghi ngờ hợp lý. Xem Chương 9.)
Sau khi nguyên đơn đưa ra bằng chứng thì đến lượt bị đơn. Giống như luật sư của nguyên đơn, luật sư bào chữa gọi và kiểm tra các nhân chứng ủng hộ cho một bên trong vụ kiện. Khi bị đơn đã kết thúc, nguyên đơn có thể có cơ hội đưa ra bằng chứng bác bỏ, giải quyết các vấn đề mà bị đơn đã nêu. Khi mọi người đã kết thúc phần đối chất, mỗi bên đưa ra một báo cáo cho hội thẩm đoàn, tóm tắt vụ kiện của mình. Sau đó thẩm phán chỉ dẫn hội thẩm đoàn về khía cạnh luật, hội thẩm đoàn thảo luận kín và đưa ra phán quyết. Trong một phiên tòa do thẩm phán chủ trì (xét xử chỉ có thẩm phán chứ không có hội thẩm đoàn), đương nhiên, thẩm phán không cần đưa ra các chỉ dẫn về luật, và thẩm phán mất một chút thời gian thay vì đưa ra phán quyết ngay lập tức.
Cơ cấu xét xử khá đơn giản, nhưng như đã lưu ý, các giá trị xung đột chi phối quá trình xét xử. Hãy xem xét tính chất tranh tụng trong phiên xét xử có thể xung đột như thế nào với việc tìm hiểu sự thật và mong muốn để tiến hành mọi việc một cách hiệu quả.
Trong một phiên tòa tranh tụng, các luật sư của mỗi bên thực hiện nhiều việc chứ không phải đơn giản chỉ đưa ra bằng chứng ủng hộ thân chủ. Mỗi luật sư đặc biệt là một luật sư giỏi cố gắng sử dụng toàn bộ phiên xét xử, từ báo cáo mở đầu đến kiểm tra nhân chứng rồi kết luận để trình bày toàn bộ việc khiếu nại của thân chủ dựa trên sự việc và luật pháp. Luật sư của vợ chồng Robinson đã vẽ lên bức tranh một gia đình hạnh phúc đang chuyển đến ngôi nhà mới thì cuộc sống của họ bị đảo lộn do các kỹ sư của Audi đã không chú ý đến mối nguy hiểm rõ ràng trong việc thiết kế bình xăng nhằm tiết kiệm vài đô-la trong giá thành sản xuất xe. Luật pháp yêu cầu rằng những người làm sai phải bồi thường cho nạn nhân, dù ít nhưng bồi thường tiền bạc sẽ bù đắp nỗi đau thể xác và tinh thần mà các nạn nhân đã phải chịu. Luật sư của Audi thừa nhận tính chất bi thảm của tai nạn (dù họ có thể cho là hậu quả của nó ít nghiêm trọng hơn so với những gì vợ chồng Robinson đã dựng nên), nhưng cũng mô tả cách các kỹ sư đã làm việc một cách tốt nhất có thể để bảo đảm sự an toàn cho chiếc xe. Việc buộc Audi phải bồi thường khi hãng này có lẽ đã không thể làm gì hơn nữa chỉ là cách tìm kiếm một khoản tiền hơn để có thể bồi thường tổn thất cho vợ chồng Robinson.
Vì các luật sư là các bên đối đầu nhau thuật lại hai sự việc không thống nhất về những gì đã xảy ra và những hậu quả kéo theo đó, mọi việc mà mỗi luật sư thực hiện tại tòa án đều nhằm thúc đẩy sự việc và gây nghi ngờ về hành động của đối phương. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp cấm luật sư nói dối hoặc cố ý chỉ dẫn nhân chứng khai sai sự thật, nhưng các quy tắc này cũng yêu cầu luật sư phải là người bào chữa nhiệt tình cho vị thế của thân chủ. Luật sư sẽ đưa ra toàn bộ bằng chứng có lợi nhất, và luật sư sẽ cố gắng tạo nên mối nghi ngờ về bằng chứng của đối phương. Luật sư có thể cũng sử dụng các cách thức tiểu xảo, như mặc quần áo đẹp để tạo ấn tượng tốt đối với hội thẩm đoàn, bảo đảm thân chủ và các nhân chứng của mình hành động một cách nhiệt tình, thành thật, trung thực, hoặc bất kỳ vai nào họ được giao phó trong sự việc này, việc cắt ngang câu hỏi của đối phương tùy từng thời điểm chỉ để phá vỡ giọng điệu của họ, và nói chung làm bất kỳ việc gì trong phạm vi luật định để có được lợi thế nhất.
Bằng chứng nào có thể được đưa ra trước tòa?
Luật tố tụng dân sự và luật về bằng chứng chi phối việc đưa ra bằng chứng trước tòa. Thủ tục tố tụng dân sự kiểm soát trình tự và phương thức đưa ra bằng chứng; luật về bằng chứng xác định những bằng chứng có thể được đưa ra.
Hầu hết các bằng chứng được đưa ra trước tòa thông qua lời khai của nhân chứng, gần giống như được mô tả trên truyền hình trong các bộ phim, từ Perry Masan đến Law & Order. Nhân chứng phải tuyên thệ nói sự thật. Luật sư mời nhân chứng sẽ đưa ra một loạt các câu hỏi nhằm chỉ dẫn nhân chứng trong suốt quá trình đối chất, và luật sư của bên kia có thể kiểm tra chéo, hoặc hỏi các câu hỏi khác để kiểm tra việc tường thuật lại sự việc của nhân chứng. Nếu luật sư của một bên bác bỏ một câu hỏi đã được đưa ra, luật sư đó có thể yêu cầu thẩm phán ngăn nhân chứng trả lời, hoặc loại bỏ câu trả lời nếu nó đã được đưa ra. Thông thường, nhân chứng khai những sự việc mà mình biết về vụ kiện, nhưng các nhân chứng chuyên nghiệp đã vượt ngoài phạm vi hiểu biết của mình và đưa ra ý kiến về những vấn đề chung cuộc trong vụ kiện chẳng hạn, liệu có thiết kế thay thế hợp lý cho bình xăng của Audi hay không? Vì vai trò đặc biệt của mình, các nhân chứng chuyên nghiệp phải có trình độ và được thẩm phán tòa án thẩm tra lý lịch. (Để biết thêm về nhân chứng chuyên nghiệp, đề nghị xem Chương 4.)
Sự khác biệt lớn giữa việc đưa ra bằng chứng trên truyền hình và trong các phòng xử án thực tế là mức độ kịch tính của vụ xét xử. Do quá trình tìm hiểu, tính chất đơn thuần của phần lớn các vụ kiện, và các quy định của pháp luật về bằng chứng nên ít khi nhân chứng đột nhiên tiết lộ một chi tiết về bằng chứng “phạm tội” cực kỳ quan trọng, khóc òa lên, hoặc thú nhận phạm tội. Hầu hết các cuộc kiểm tra nhân chứng đều được thực hiện có phương pháp, thuật lại từng bước các sự việc một cách chi tiết. Những người xem các phiên xét xử trên truyền hình hoặc xem trực tiếp sẽ cảm thấy nhanh chán, vì các luật sư sử dụng hàng loạt các câu hỏi dường như không bao giờ kết thúc để lập nên toàn bộ các chi tiết của một vụ kiện.
Ngoài lời khai của nhân chứng, việc đưa ra bằng chứng tại tòa có thể bao gồm cả việc đệ trình tài liệu và dẫn chứng xác thực, chẳng hạn như thứ còn sót lại trong bình xăng của vợ chồng Robinson. Đôi khi luật sư hoặc nhân chứng, đặc biệt là nhân chứng chuyên nghiệp, sẽ làm nổi bật lời khai bằng các biểu đồ, bản vẽ, mô hình, hoặc thậm chí công nghệ đồ họa trên máy tính và các bộ phim, nhằm cố gắng làm rõ lời khai của mình, tăng tính thuyết phục, và luôn thu hút sự quan tâm của hội thẩm đoàn. Các bên cũng có thể đồng ý rằng một bằng chứng nào đó là không thể tranh cãi và ước định được, vì vậy nó có thể được tóm tắt trước hội thẩm đoàn thay vì phải đưa ra bằng chứng theo lời khai chi tiết của nhân chứng.
Luật về bằng chứng liên quan đến một đạo luật cân bằng. Tòa án cần cho phép các bên phát triển vụ kiện của họ, đưa ra toàn bộ bằng chứng mà có thể ảnh hưởng đến phán quyết về những sự việc đã xảy ra và diễn biến của vụ kiện. Nhưng tòa án cũng muốn hoạt động một cách hiệu quả, tập trung vào sự việc thực sự quan trọng, và đôi khi tòa án muốn phục vụ các giá trị hơn là tìm ra sự thực đơn thuần.
Vì tòa án không muốn lãng phí thời gian vào những vụ việc thực sự chẳng có căn cứ nào để đưa ra phán quyết vụ kiện theo quy định luật hiện hành, nên vấn đề căn bản của luật bằng chứng là chỉ những bằng chứng hữu ích trong việc xác lập một vấn đề pháp lý liên quan đến vụ kiện mới có thể được xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản về việc bác bỏ thông thường nhất đối với một bằng chứng được đưa ra: khi luật sư cho là một sự việc nào đó không liên quan. Nếu vợ chồng Robinson cố tình đưa ra lời khai của nhà chuyên môn rằng bình xăng của chiếc Audi sẽ nổ nếu bạn để một chiếc đèn hàn ở đó, thẩm phán sẽ loại bỏ bằng chứng. Ngay cả khi bằng chứng đó có đề cập đến tình trạng của bình xăng nhưng nó không giúp nhiều cho việc xác định liệu bình xăng có bị lỗi hay không; bất kỳ bình xăng nào cũng sẽ nổ nếu bạn châm lửa, nhưng vấn đề trong vụ kiện là liệu bình xăng có phải là hiểm họa của một vụ đâm xe trên đường cao tốc không. Đương nhiên, luật sư của Audi phải phản đối bằng chứng để thẩm phán loại bỏ; vì việc xét xử, về bản chất, là một quá trình tranh tụng, thẩm phán chỉ phán quyết các vấn đề mà các luật sư nêu ra dựa trên bằng chứng.
Một nguyên tắc tương tự củng cố một phần khác của luật bằng chứng mà nhiều người đã biết việc không chấp nhận bằng chứng có tính chất truyền miệng. Bằng chứng có tính chất truyền miệng là lời khai lại, hoặc việc áp dụng lời khai khống trước tòa là để chứng minh tính xác thực về nội dung lời khai. Nếu vợ chồng Robinson có thể phát hiện được một kỹ sư đã từng làm việc cho Audi khai nhận là anh ta đã cảnh báo công ty rằng bình xăng không an toàn thì đó là chứng cớ, bằng chứng có thể chấp nhận được. Nhưng họ không thể mời một người kể lại rằng cô ta đã ngồi cạnh viên kỹ sư trên một chiếc xe buýt và nghe thấy anh này nói rằng đã cảnh báo công ty về vấn đề bình xăng không an toàn ra làm chứng; đó sẽ là bằng chứng truyền miệng. Lời khai của cô ta không đáng tin cậy bằng lời khai của kỹ sư, một phần vì luật sư của Audi sẽ không có các phương thức hiệu quả để kiểm tra chéo nhân chứng đó. Nếu kỹ sư đứng trước tòa, luật sư của Audi có thể hỏi anh ta đã nói với ai trong công ty và chính xác anh ta đã nói gì để chứng minh rằng lời cảnh báo đã được đưa ra với bất kỳ ai có thể thực hiện công việc đó hoặc lời cảnh báo đó không rõ ràng, nhưng nhân chứng đã tình cờ nghe được những gì người kỹ sư nói thì không thể chứng minh được điều đó.
Tuy nhiên, trong hai tình huống, luật về bằng chứng đã thận trọng không đưa vào bằng chứng liên quan dù có thể hữu ích. Tình huống thứ nhất liên quan đến bằng chứng mà có thể gây tổn hại nhiều hơn là hữu ích khi đưa ra phán quyết vụ kiện. Một ví dụ về bằng chứng với tư cách cá nhân, được định nghĩa rộng như bất kỳ bằng chứng nào cho thấy xu hướng hành động chung của một người theo một phương thức nào đó. Giả sử một số bộ phận của chiếc Audi chứ không phải là riêng bình xăng của chiếc 100 LS nổi tiếng bị lỗi thiết kế. Vợ chồng Robinson chắc chắn muốn đưa ra bằng chứng về những lỗi khác để chỉ ra rằng Audi là một nhà sản xuất cẩu thả, và kiểu hành vi này sẽ suy ra kết luận là họ cũng đã sản xuất bình xăng của chiếc xe này kém chất lượng. Nhưng hội thẩm đoàn sẽ không được phép nghe bằng chứng này bởi vì họ sẽ có nguy cơ cho rằng Audi ở đây đã sai sẽ có ảnh hưởng đến kết luận mà có thể được rút ra từ hành vi trong quá khứ.
Cơ sở thứ hai để bác bỏ bằng chứng là khi việc sử dụng bằng chứng mâu thuẫn với một chính sách luật nào đó không thuộc phạm vi luật về bằng chứng. Ở đây, chúng ta rõ ràng đã hy sinh việc tìm kiếm sự thật tại tòa án cho một giá trị khác nào đó. Ví dụ, thông tin bảo mật bị bác bỏ. Audi có thể biết được bà Robinson đã nói với chồng và luật sư của mình rằng bà đang giả vờ bị thương, nhưng họ không thể gọi chồng hoặc luật sư của bà đến để chứng minh lời khai đó. Ngay cả khi bằng chứng giả vờ ốm đó là thuyết phục, nhưng chúng ta đánh giá bằng chứng đó quan trọng vì mọi người có thể tiết lộ bí mật cho vợ hoặc chồng và luật sư của mình mà không sợ bí mật sẽ được công khai, hơn là đưa toàn bộ sự việc vào quá trình tranh tụng.
Thế còn hội thẩm đoàn?
Ngoài tính chất tranh tụng, đặc điểm chính thứ hai của tòa án là vai trò của hội thẩm đoàn với tư cách là bộ phận đưa ra phán quyết. Tu chính án thứ 7 của Hiến pháp Hoa Kỳ và hầu hết các hiến pháp của tiểu bang bảo lưu quyền đối với việc xét xử của hội thẩm đoàn trong các vụ kiện dân sự. Nếu hai bên đồng ý, vụ kiện có thể được thẩm phán đưa ra phán quyết mà không cần một hội thẩm đoàn, gọi là xét xử bởi thẩm phán, nhưng trong hầu hết các vụ kiện, nếu một trong hai bên muốn một hội thẩm đoàn thì bên đó có quyền yêu cầu.
Mọi người đều công nhận rằng hội thẩm đoàn là trung tâm của quá trình tranh tụng nhưng đó cũng là yếu tố gây nhiều tranh cãi nhất trong toàn bộ hệ thống tranh tụng. Đối với một số người, đó là thành tựu của một quá trình dân chủ, lực lượng bảo vệ quyền tự do của con người, và công cụ hiệu quả để xác định sự thật trước tòa; còn với những người khác, đó là một thể chế không hợp thời, không hiệu quả mà chỉ áp dụng tính độc đoán, tình trạng không rõ ràng, và gây trở ngại đối với hệ thống.
Thuộc tính duy nhất của hội thẩm đoàn là bộ phận này bao gồm những người không chuyên về lĩnh vực nào. Không phải thẩm phán chuyên nghiệp, được đào tạo ở trình độ cao để phán quyết vụ kiện của vợ chồng Robinson, chúng ta đã giao phó trách nhiệm đó cho một nhóm người hiểu biết rất ít về luật và không biết gì về tình tiết vụ kiện ngoài những gì họ nghe thấy ở phòng xử án. Nhóm này phải sàng lọc thông qua các bằng chứng trái ngược để phán quyết sự việc nào đã xảy ra thực tế, hiểu lời giải thích luật của thẩm phán (thường liên quan đến các khái niệm nhạy cảm và vấn đề đã đánh trượt khá nhiều các sinh viên luật trong các kỳ thi, và làm cho các thẩm phán không thống nhất ý kiến với nhau), và liên kết sự việc với luật để đạt được kết quả thỏa mãn cả hai bên và phù hợp với luật toàn bộ chỉ thông qua thỏa thuận nhất trí hoặc gần như nhất trí. (Tại nhiều bang, quy định truyền thống về bản án được sự đồng thuận của một hội thẩm đoàn gồm mười hai thành viên đã giảm xuống thành hội thẩm đoàn gồm ít thành viên hơn thường là sáu thành viên;và các bản án không được sự đồng thuận thường do đại đa số chiếm hai phần ba hoặc ba phần tư.)
Vì nhiều nguyên nhân lịch sử, hội thẩm đoàn thậm chí đã có nhiều quyền lực hơn ngày nay. Trong nhiều thế kỷ, các thành viên hội thẩm đoàn không phải là không biết sự việc của vụ kiện mà họ đã nghe. Cư trú tại cộng đồng xảy ra vụ kiện và thường quen biết các bên, các thành viên hội thẩm đoàn có thể sử dụng hiểu biết của mình về phong tục và sự kiện để áp đặt vào phán quyết của vụ kiện. Quan trọng hơn, từ thời kỳ thuộc địa cho đến những ngày đầu của chế độ Cộng hòa, hội thẩm đoàn là một cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan điều tra sự việc. Những người Mỹ trước đây hiểu luật là một thứ gì đó hiện diện trong các phong tục và ý thức đạo đức của cộng đồng; là thành viên trong cộng đồng, những thành viên hội thẩm đoàn đã tiếp cận nhiều với luật giống như thẩm phán. Trong khi thẩm phán có thể chỉ dẫn hội thẩm đoàn về quan điểm luật của mình, thành viên hội thẩm đoàn có thẩm quyền và trách nhiệm độc lập để xác định nội dung các quy tắc luật nên được áp dụng với vụ kiện.
Tất nhiên, ngày nay các thành viên hội thẩm đoàn hiếm khi có hiểu biết độc lập về sự việc của vụ kiện. Thật vậy, một thành viên hội thẩm đoàn nếu có biết các bên hoặc một số sự việc sẽ không được tham gia xét xử, vì vai trò của hội thẩm đoàn sẽ bị hạn chế với tư cách là người đánh giá công tâm bằng chứng mà hội thẩm đoàn đã nghe tại phòng xét xử. Hơn nữa, hiện nay chúng ta cho rằng luật do cơ quan lập pháp và tòa án soạn thảo chứ không còn tìm thấy trong các giá trị đạo đức của cộng đồng, vì vậy các thành viên hội thẩm đoàn bị buộc phải áp dụng luật mà thẩm phán đã đưa ra. Vì vậy, công việc của hội thẩm đoàn là nghe chứng cứ, quyết định những sự việc đã xảy ra trong vụ kiện, lắng nghe hướng dẫn luật của thẩm phán, và áp dụng luật vào sự việc. Bằng cách làm như vậy, các thành viên hội thẩm đoàn đã có kinh nghiệm, niềm tin, và giá trị, làm cho quá trình phán quyết thể hiện được tình cảm của cộng đồng ở một mức độ nào đó chứ không phải chỉ là quá trình tìm hiểu sự việc máy móc cứng nhắc.
Để phục vụ những chức năng này, hội thẩm đoàn nên là người đại diện và công bằng. Để đảm bảo rằng hội thẩm đoàn là người đại diện, tòa án lập danh sách các thành viên hội thẩm đoàn tiềm năng từ danh sách các cử tri đã đăng ký, những người lái xe đã được cấp bằng, và các nguồn khác nhằm lôi kéo vào một bộ phận cộng đồng lớn. Các thành viên tiềm năng của hội thẩm đoàn ít khi được triệu tập từ danh sách này để thực hiện nhiệm vụ với tư cách là hội thẩm đoàn. Trước đây, các thành viên hội thẩm đoàn thường được triệu tập trong một tuần hoặc hơn; ngày nay, nhiều hệ thống tòa án sử dụng hệ thống “xét xử theo ngày”, theo đó một thành viên hội thẩm đoàn chỉ phải có mặt trong nhóm hội thẩm đoàn một ngày, hoặc, nếu được lựa chọn, phục vụ trong hội thẩm đoàn chỉ một phiên xét xử. Cho dù như vậy, nhưng nhiều người coi việc phục vụ trong hội thẩm đoàn có nhiều bất lợi hơn là trách nhiệm công dân và cố gắng tránh phục vụ trong hội thẩm đoàn bằng yêu cầu được miễn theo pháp luật (thường với sỹ quan cảnh sát, bác sỹ, hoặc đối tượng tương tự), yêu cầu được miễn vì một số khó khăn (như chăm sóc con nhỏ hoặc người thân bị ốm), hoặc đơn giản là vắng mặt. Trong tình huống vắng mặt, đương nhiên, tòa án có thể ngăn hành vi đó bằng cách mời lại thành viên hội thẩm đoàn hoặc thậm chí đưa ra lệnh bắt.
Số lượng thành viên tiềm năng của hội thẩm đoàn được gọi đến nhiều hơn số lượng có thể được sử dụng vào phiên xét xử dự kiến vì nhiều thành viên sẽ bị loại khi hội thẩm đoàn lựa chọn. Quá trình được gọi là voir'dire (thuật ngữ tiếng Pháp nghĩa là “nói sự thật”) nhằm bảo đảm hội thẩm đoàn là vô tư. Thẩm phán hoặc các luật sư yêu cầu các thành viên hội thẩm đoàn đưa ra một loạt câu hỏi có tính chất khái quát và cụ thể để tìm ra các thành viên tiềm năng của hội thẩm đoàn có hiểu biết và mối quan hệ có cùng xu hướng với đánh giá của họ. Trong vụ kiện của vợ chồng Robinson, một thành viên tiềm năng của hội thẩm đoàn đã biết hoặc đã là một kỹ sư chế tạo ô tô có thể bị một trong những luật sư phản đối hoặc hội thẩm đoàn miễn vì có lý do, với lý do rõ ràng là họ có thể không công bằng trong việc phán quyết vụ kiện. Thông thường, mỗi luật sư đều có một số phản quyết cho phép họ loại bỏ các thành viên tiềm năng của hội thẩm đoàn mà không cần đưa ra lý do. Có nhiều lý do truyền thống chi phối việc thực hiện phản quyết chẳng hạn, quan niệm những thành viên nữ của hội thẩm đoàn có thể đố kỵ với bên có nữ giới đầy hấp dẫn, hoặc các chủ doanh nghiệp nhỏ không đưa ra phán quyết bồi thường lớn trong các vụ kiện thương tích cá nhân.Gần đây, ít nhất trong những vụ kiện rất quan trọng, các chuyên gia tư vấn hội thẩm đoàn, các nhà tâm lý học, hoặc các chuyên gia khác về nghiên cứu lý lịch, ngôn ngữ cơ thể, và các câu trả lời của các thành viên hội thẩm đoàn theo thủ tục nói sự thật đã tham gia tư vấn cho những luật sư có triển vọng hoặc không có triển vọng trở thành thành viên hội thẩm đoàn trong một vụ kiện đặc biệt.
Sau khi hội thẩm đoàn đã nghe chứng cứ và được thẩm phán hướng dẫn luật, hội thẩm đoàn nghỉ để thảo luận kín vụ kiện (xem xét kỹ lưỡng). Khi hội thẩm đoàn ra được quyết định, hội thẩm đoàn quay lại phòng xử án để đưa ra phán quyết. Không giống như thẩm phán, hội thẩm đoàn không đưa ra lý do đối với phán quyết của mình, mặc dù đôi khi thẩm phán yêu cầu một phán quyết đặc biệt, hoặc các câu trả lời cho một loạt câu hỏi về vụ kiện. (Có phải bình xăng bị lỗi không? Có phải chiếc xe của vợ chồng Robinson đang chạy quá tốc độ?)
Câu hỏi lớn về hệ thống hội thẩm đoàn là nó hoạt động hiệu quả như thế nào. Hội thẩm đoàn có phải là một tổ chức tìm hiểu sự việc và áp dụng luật hiệu quả và gây được thiện cảm với cộng đồng đối với quá trình này theo cách thức xây dựng hay không, hoặc liệu hội thẩm đoàn có phải là một hình thức chủ nghĩa vô chính phủ độc đoán, không hiệu quả và thường đưa ra những phán quyết bất lợi? Do tình trạng hợp hiến về quyền dân sự của hội thẩm đoàn, vấn đề dẹp bỏ hội thẩm đoàn thực sự không thể tranh luận, nhưng thật sự khó khăn để quyết định xem luật pháp nên trao bao nhiêu quyền lực cho thẩm phán trong việc kiểm soát hội thẩm đoàn.
Thẩm phán kiểm soát hội thẩm đoàn theo bốn cách thức. Thứ nhất, thẩm phán hạn chế những gì hội thẩm đoàn đã nghe trong phiên xét xử bằng cách áp dụng luật về bằng chứng (đã được thảo luận trước đó). Thứ hai, thẩm phán hạn chế những vấn đề mà hội thẩm đoàn có thể xem xét; công thức thông thường là các vấn đề luật thuộc về thẩm phán quyết định và vấn đề sự việc thuộc trách nhiệm của hội thẩm đoàn. Thứ ba, thẩm phán cho hội thẩm đoàn biết quy tắc luật nào áp dụng trong việc phán quyết vụ kiện và những quy tắc này có nghĩa gì; hội thẩm đoàn không chuyên nghiệp sẽ không biết áp dụng luật nào, vì vậy phải theo sự hướng dẫn của thẩm phán. Thứ tư, thẩm phán có thể lấy đi vụ kiện từ hội thẩm đoàn trước khi đưa ra phán quyết, hoặc thậm chí đảo lộn phán quyết mà hội thẩm đoàn đã đưa ra bằng cách nêu một trong những kiến nghị đối với một bên. (Đương nhiên, luật nội dung cũng kiểm soát hội thẩm đoàn. Chẳng hạn, nếu tiểu bang ban hành một mức khung cố định đối với việc bồi thường đau đớn về thể xác và tinh thần, bất kỳ phán quyết nào của hội thẩm đoàn vượt quá mức khung ấn định đó sẽ phải giảm. Xem Chương 4.)
Sự khác biệt giữa luật sự việc tưởng như đơn giản. Thẩm phán đã đọc các cuốn sách luật và ở vị thế tốt nhất để xác định áp dụng luật nào và ý nghĩa của các quy định luật các vấn đề của luật hội thẩm đoàn vạch ra những sự việc đã xảy ra trong vụ kiện các vấn đề sự việc. Nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều. Việc áp dụng một vấn đề theo “luật” hoặc “sự việc” đơn giản là một cách để thẩm phán đánh giá vấn đề nào thẩm phán sẵn sàng cho phép hội thẩm đoàn quyết định. Việc mở rộng phạm trù thực tế đã mở rộng vai trò của hội thẩm đoàn, trong khi việc mở rộng phạm trù luật lại thu hẹp vai trò của tòa án. Nếu thẩm phán nghĩ một vấn đề quá phức tạp, rất quan trọng, hoặc có thể hiểu sai, thẩm phán sẽ từ chối trao vấn đề đó cho hội thẩm đoàn và bảo lưu ý kiến của thẩm phán. Miễn là thẩm phán không đi quá xa vào việc xâm phạm chức năng hợp hiến của hội thẩm đoàn thì việc xử lý các vấn đề theo luật là một bộ máy kiểm soát hiệu quả hội thẩm đoàn.
Ví dụ, trong vụ kiện của vợ chồng Robinson, việc xác định Audi có trách nhiệm hay không liên quan đến các phương diện pháp luật và sự việc. Luật về bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn xây dựng các vấn đề theo cách này: liệu Audi có nghĩa vụ đối với các nguyên đơn không? nội dung của nghĩa vụ đó là gi? và liệu Audi có vi phạm nghĩa vụ? Hai câu hỏi đầu liên quan đến vấn đề quan trọng về chính sách xã hội, vì vậy tòa án coi các vấn đề đó thuộc phương diện pháp luật. Liệu Audi có nghĩa vụ về một trong những chiếc xe của mình với khách hang và nghĩa vụ ở mức nào là các vấn đề cơ bản của luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn; nói chung phán quyết về những vấn đề này có hậu quả lớn đối với xã hội. Nếu Audi không có nghĩa vụ đối với người sử dụng xe, Audi sẽ có ít động lực để sản xuất những chiếc xe an toàn. Ngược lại, nếu Audi có nghĩa vụ bồi thường cho những người cảm thấy lo ngại khi nghe tai nạn trên truyền hình, trách nhiệm của Audi sẽ tăng lên. Nội dung nghĩa vụ cũng quan trọng không kém. Một trong những tranh luận lớn về luật bồi thường thiệt hại do lỗi bất cẩn là liệu nhà sản xuất sản phẩm có trách nhiệm với toàn bộ thương tích do các lỗi trong sản phẩm của họ (được gọi là trách nhiệm nghiêm ngặt) hoặc chỉ trường hợp nhà sản xuất bất cẩn trong sản xuất sản phẩm (trường hợp nhà sản xuất bất cẩn). Kết quả của việc tranh luận này quan trọng đến nỗi tòa án trong một vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm giống như vụ này sẽ không để hội thẩm đoàn giải quyết vụ kiện đó. Nhưng câu hỏi thứ ba liệu chiếc xe có bị lỗi, giả sử Audi chịu trách nhiệm hoàn toàn nếu chiếc xe bị lỗi lại khác hẳn. Đây không phải là một câu hỏi về sự việc đơn giản, bởi vì nó đòi hỏi việc thực thi phán quyết là liệu nguy cơ thiết kế bình xăng có ảnh hưởng đến lợi ích của việc thiết kế nhưng điều đó ít nhiều quan trọng đối với phán quyết của các vụ kiện khác. Vì vậy, thẩm phán sẽ coi việc vi phạm vấn đề nghĩa vụ là một trong những sự việc và để cho hội thẩm đoàn quyết định.
Nếu chức năng của hội thẩm đoàn bị hạn chế trong việc tìm hiểu sự việc và áp dụng luật vào sự việc thì hội thẩm đoàn phải có một số cách để nhận biết luật nào và những sự việc gì họ cho rằng phải áp dụng luật đó. Cuối phiên xét xử, thẩm phán cho hội thẩm đoàn biết những vấn đề nào mà hội thẩm đoàn phải phán quyết và luật nào hội thẩm đoàn nên áp dụng bằng cách đưa ra chỉ thị, hoặc một lệnh. Ví dụ, thẩm phán giải thích tiêu chuẩn ứng xử nào luật yêu cầu đối với nhà sản xuất trong việc tạo sản phẩm an toàn, làm thế nào để xác định được liệu thiết kế có bị lỗi, loại bồi thường nào Audi phải có trách nhiệm, cách thức kết luận mà thành viên hội thẩm đoàn phải theo trước khi đi đến phán quyết, và họ nên tiến hành xem xét kỹ lưỡng như thế nào. Tại hầu hết các bang, tòa án ban hành các chỉ thị chuẩn cho hội thẩm đoàn đối với các loại vụ kiện khác nhau, vì vậy thẩm phán không phải điều chỉnh từng vụ việc. Thông thường, dù mỗi luật sư cũng đưa ra một loạt các chỉ thị dự kiến, sửa đổi các chỉ thị chuẩn để phù hợp với vụ kiện riêng lẻ, thì vẫn cần đề xuất các vấn đề phải đưa vào hoặc loại bỏ, và việc điều chỉnh các chỉ thị đối với một quan điểm luật cụ thể. Đây là một phần của quá trình tranh tụng, vì mỗi luật sư cố gắng nhận những chỉ thị tiện lợi nhất, nhưng chỉ thị nào hợp lý thì phụ thuộc vào quyết định của thẩm phán.
Các chỉ thị của hội thẩm đoàn là một điểm khác trong đó những hạn chế đối với việc xét xử tòa án đã trở thành vấn đề gây tranh cãi. Thậm chí trong một vụ kiện khá thông thường như vụ kiện của vợ chồng Robinson, các chỉ thị của thẩm phán có thể mất nhiều thời gian hơn. Và các chỉ thị phức tạp tất yếu giải quyết các vấn đề luật rắc rối và các câu hỏi mở. Các thành viên hội thẩm đoàn không có chuyên môn nghiệp vụ khó có thể đảm bảo được việc học thuộc các quy tắc mà ngay cả luật sư và thẩm phán còn thấy phức tạp hoặc cho là có thể gây tranh luận gay gắt. Vì vậy, thậm chí các luật sư và thẩm phán có thể dành nhiều giờ để rà soát cẩn thận từng câu trong chỉ thị bằng văn bản, các thành viên hội thẩm đoàn có thể ghi lại đánh giá hoặc một vài ý kiến cơ bản mà không phản ánh chính xác luật họ cho là nên áp dụng.
Phương pháp cuối cùng kiểm soát hội thẩm đoàn là một phương pháp tập trung chủ yếu vào việc phân chia quyền lực giữa thẩm phán và hội thẩm đoàn. Tại những điểm chính trước, trong và thậm chí là sau phiên xét xử, một bên có thể yêu cầu thẩm phán không để toàn bộ hoặc một phần vụ kiện cho hội thẩm đoàn và tự đưa ra phán quyết. Chúng tôi đã chứng kiến thẩm phán ngăn vụ kiện đưa ra xét xử bằng cách đưa ra kiến nghị bác bỏ vụ kiện của nguyên đơn vì nó không nêu yêu cầu chứng minh pháp lý đối với bị đơn, hoặc đưa ra kiến nghị xét xử sơ lược vì không có tranh chấp thực tế lớn và luật xác định cách thức đưa ra phán quyết vụ kiện dựa trên các sự việc không thể tranh cãi. Một khi phiên tòa bắt đầu, thẩm phán có thể hạn chế quyền lực của hội thẩm đoàn và tìm hiểu một trong các bên bằng cách đưa ra kiến nghị phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán trong phiên xét xử hoặc kiến nghị phán quyết của tòa án không theo phán quyết của hội thẩm đoàn sau khi hội thẩm đoàn đã phán quyết; hai kiến nghị trên thường được gọi chung là các kiến nghị phán quyết trên phương diện pháp luật. Hoặc, cuối phiên xét xử, thẩm phán có thể bác bỏ phán quyết của hội thẩm đoàn và ra lệnh xét xử lại.
Các kiến nghị về phán quyết trên phương diện pháp luật có thể được đưa ra nếu thẩm phán xác định rằng không có đủ sự việc để đưa ra hội thẩm đoàn hoặc chỉ một kết quả có thể được rút ra hợp lý từ các sự việc. Hai kiến nghị khác nhau về thời điểm. Một bên có thể kiến nghị về phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán sau khi đối phương đã đưa ra toàn bộ chứng cứ. Ví dụ, sau khi vợ chồng Robinson kết thúc vụ kiện, Audi có thể kiến nghị về phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán đối với Audi vì vợ chồng Robinson đã không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào chứng minh Audi có thể chế tạo bình xăng an toàn (nếu đó là một phần tiêu chuẩn pháp lý); hoặc vì toàn bộ bằng chứng họ đã đưa ra cho thấy bình xăng được thiết kế hết sức an toàn. Tương tự, vợ chồng Robinson có thể kiến nghị phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán sau khi Audi đã kết thúc việc biện hộ nếu Audi không bác lại bằng chứng là bình xăng được thiết kế không đúng quy cách. Nếu một trong hai kiến nghị được đưa ra, tòa án sẽ đưa ra phán quyết đối với bên bác lại chứng cứ thành công. (Thậm chí việc này được gọi là kiến nghị phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán nhưng hội thẩm đoàn không phải qua thủ tục thực tế về việc đưa ra phán quyết mà thẩm phán đã chỉ thị họ thẩm phán đã thực hiện việc này thay cho họ).
Phán quyết của tòa án không theo phán quyết của hội thẩm đoàn đặc biệt hơn nhiều. Việc đưa ra chứng cứ đã được kết luận, thẩm phán chỉ thị hội thẩm đoàn đưa bằng chứng ra xem xét kỹ lưỡng, và hội thẩm đoàn đưa ra phán quyết. Nhưng sau đó thẩm phán kết luận rằng hội thẩm đoàn đã đưa ra câu trả lời sai về luật hoặc không hợp lý về sự việc, vì vậy thẩm phán tuyên bố một bên thắng kiện bất kể phán quyết của hội thẩm đoàn ủng hộ bên kia. Về mặt thủ tục, kiến nghị này được coi như thể là một kiến nghị phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán bị trì hoãn, và thẩm phán có thể sử dụng kiến nghị đó vì đó là lợi thế chiến lược để thẩm phán trì hoãn quyết định có nên để vụ kiện cho hội thẩm đoàn. Nếu đó là một câu hỏi sát nghĩa và thẩm phán đưa ra phán quyết theo chỉ thị của thẩm phán, một bên có thể sẽ kháng cáo, tòa phúc thẩm có thể bố trí thẩm phán của tòa sơ thẩm và yêu cầu xét xử lại. Bằng cách chờ đợi để biết xem liệu hội thẩm đoàn có đi đến câu trả lời “đúng”, thẩm phán có thể tránh đề nghị phiên xét xử thứ hai; phán quyết của hội thẩm đoàn có khả năng được ủng hộ hơn là việc đưa ra kiến nghị.
Các phán quyết về phương diện pháp luật cho thấy sự mâu thuẫn nổi bật giữa vị trí trung tâm của hội thẩm đoàn trong quá trình xét xử và quyền kiểm soát hội thẩm đoàn của thẩm phán. Vì đã có tiền lệ về kiến nghị này tại thời điểm soạn thảo Hiến pháp, Tòa án Tối cao đã cho rằng họ không vi phạm quyền xét xử của hội thẩm đoàn theo Tu chính án thứ 7. Tuy nhiên, vì phương sách này có thể gây ảnh hướng đến chức năng chính của hội thẩm đoàn nên tòa án phải bỏ công sức nhằm cố gắng xác định thời điểm nào kiến nghị là phù hợp, và các tòa án khác nhau bất đồng về mức độ xâm phạm khác nhau của thẩm phán vào lĩnh vực của hội thẩm đoàn.
Thay vì đưa ra phán quyết cho một trong các bên, thẩm phán có quyền lựa chọn ra lệnh xét xử lại để sửa chữa những sai sót xảy ra tại phiên xét xử sơ thẩm. Đương nhiên, tòa phúc thẩm cũng có thể ra lệnh xét xử lại, nhưng thẩm phán tòa sơ thẩm biết trực tiếp sự việc gì đã xảy ra và, có cơ hội đánh giá việc xét xử, có thể xác định một lỗi riêng lẻ nào đó, hoặc gộp chung một số lỗi nhỏ, không phương hại đến cơ hội của bên thua cuộc để có một phiên xét xử công bằng. Giống như các kiến nghị về phán quyết trên phương diện pháp luật, việc đưa ra xét xử lại có thể xâm phạm đến lĩnh vực của hội thẩm đoàn do đưa ra phán quyết không hiệu quả. Tuy nhiên, việc xét xử lại ít nhiều có thể bị xâm phạm vì ít nhất hội thẩm đoàn thứ hai sẽ xét xử vụ kiện. Nhưng việc xét xử lại sẽ không được phép chỉ vì thẩm phán không đồng ý với phán quyết của hội thẩm đoàn. Nếu thẩm phán đã mắc sai lầm nghiêm trọng về phương diện luật khi tiến hành xét xử chẳng hạn, thừa nhận hoặc bác bỏ chứng cứ quan trọng không hợp lệ hoặc chỉ thị sai hội đồng xét xử thẩm phán có thể sửa chữa sai sót bằng cách ra lệnh xét xử lại. Các lý do khác để đưa ra xét xử lại bao gồm hành vi sai trái của luật sư hoặc thành viên hội thẩm đoàn, bằng chứng mới được phát hiện, hoặc vì phán quyết quá nặng. Trong trường hợp sau, thẩm phán có thể trao cho bên thắng kiện quyền lựa chọn: Chấp nhận thêm một khoản tiền bồi thường hoặc xét xử lại.
Việc gì xảy ra sau khi xét xử?
Một phiên xét xử không phải đã là điểm kết thúc của một vụ kiện. Bên thua kiện, hoặc thậm chí bên chỉ thắng phần kiện mà bên đó muốn, có thể kháng cáo vụ kiện lên tòa án cấp cao hơn. Không phải mọi bên thua kiện đều kháng cáo. Luật sư có thể quyết định là không có đủ cơ sở hợp lý để kháng cáo, hoặc một bên không có khả năng hoặc không muốn đầu tư nhiều tiền bạc vào việc kiện tụng. Nhưng ở mọi bang, bên thua kiện ít nhất có quyền xem xét việc đưa vụ kiện ra tòa phúc thẩm.
Các hệ thống tòa án lớn hơn, giống như các tòa án liên bang và những tòa án của các tiểu bang lớn, có hai cấp tòa phúc thẩm. Cấp thứ nhất là tòa phúc thẩm trung gian, được gọi là Tòa phúc thẩm trong hệ thống liên bang và các tên khác nhau tại các tiểu bang khác nhau. (Các lãnh thổ nhỏ hơn bỏ qua cấp này.) Cấp thứ hai là tòa án cao nhất tại lãnh thổ, chẳng hạn như Tòa án Tối cao Hoa Kỳ hoặc Tòa án Tối cao tiểu bang Oklahoma. Nếu người kiện cảm thấy không thỏa đáng với kết quả tại tòa phúc thẩm trung gian, người đó có thể yêu cầu tòa án cao nhất xét xử vụ kiện. Thông thường, mặc dù kháng cáo lên tòa án trung gian là bắt buộc (tòa án có thẩm quyền xét xử vụ kiện) nhưng kháng cáo lên cấp tiếp theo lại tùy theo ý muốn (tòa án có thể quyết định liệu tòa án có thụ lý để xét xử vụ kiện hay không). Tại Tòa án Tối cao, thủ tục yêu cầu tòa án xét xử kháng cáo được gọi là đề nghị lệnh chuyển hồ sơ lên tòa cấp trên (writ of certiorari – một thuật ngữ Latinh, nghĩa là cấp “được thông báo”); bằng cách ban hành một lệnh, tòa án cấp cao hơn thông báo cho tòa án cấp dưới rằng tòa án cấp cao hơn muốn được thông báo về vụ kiện để tòa này có thể phán quyết vụ kiện đó. Tòa chung thẩm sẽ chỉ đảm nhận việc kháng cáo được coi là quan trọng đối với tòa chung thẩm, hoặc vì vụ kiện phát sinh một vấn đề pháp lý quan trọng hoặc vì có sự nhầm lẫn về cách giải quyết hợp lý vấn đề pháp lý liên quan giữa các tòa án cấp dưới.
Quá trình kháng cáo là nhằm đạt được kết quả chính xác hoặc bảo đảm một quá trình hoàn hảo trong vụ kiện. Thay vì vậy, quá trình kháng cáo cố gắng cân bằng các giá trị căn bản của quá trình kiện tụng. Tòa phúc thẩm sẽ khắc phục những sai sót tại các tòa cấp dưới bị cho là đã vi phạm nghiêm trọng đến tính công bằng của quá trình kiện tụng hoặc đem lại các giá trị của luật nội dung có liên quan, nhưng tòa phúc thẩm cố gắng thực hiện việc này khá hiệu quả, không phải bằng cách can thiệp quá nhiều, gây ra trì hoãn quá thời hạn, hoặc cản trở tính chung thẩm của quá trình này.
Hãy lấy một phần kháng cáo trong vụ kiện của vợ chồng Robinson làm ví dụ. (Hãy nhớ rằng còn có các vấn đề tố tụng phức tạp trong vụ kiện, dẫn đến vụ kiện sẽ chuyển từ các tòa án của tiểu bang Oklahoma lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ và sau đó chìm nổi qua các tòa án liên bang cấp dưới.) Hội thẩm đoàn trả lại phán quyết ủng hộ các bị đơn và chống lại vợ chồng Robinson tại Tòa án Quận của Hoa Kỳ ở Quận phía Nam Oklahoma. Vợ chồng Robinson kháng cáo lên Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ vì cho rằng phần mà thẩm phán tòa sơ thẩm đã bác bỏ không hợp lý, chứng cứ là Volkswagen, công ty mẹ, đã nhận thức được sự nguy hiểm của thiết kế bình xăng. Thẩm phán tòa sơ thẩm đã bác bỏ chứng cứ theo lý thuyết rằng sự nhận thức này không thể quy cho Audi, nhà sản xuất chiếc xe và công ty con của Volkswagen. Tòa phúc thẩm đồng ý rằng sự nhận thức này không thể quy cho Audi và phê chuẩn phần phán quyết đó, nhưng không đồng ý với phán quyết của thẩm phán tòa sơ thẩm rằng chứng cứ có thể được sử dụng đối với Volkswagen, vì vậy tòa phúc thẩm đã trả lại vụ kiện để xét xử lại đối với Volkswagen.
Trước tiên, hãy xem xét khi một người có thể kháng cáo từ tòa án sơ thẩm. Ở đây, các tòa án nhận thấy hành trình đi đến tính hiệu quả và tính chung thẩm bằng những con đường khác nhau. Hầu hết các tòa án giám sát quy tắc phán quyết chung thẩm, mà như tên của nó đã cho thấy, chỉ cho phép việc xem xét các hành động của tòa án cấp dưới khi vụ việc đã chung thẩm, được giải quyết hoàn toàn trước đó. Theo phương thức này, vợ chồng Robinson không thể kháng cáo việc bác bỏ chứng cứ là Volkswagen đã nhận thức được lỗi tại thời điểm thẩm phán tòa sơ thẩm đưa ra phán quyết; họ phải đợi cho đến khi kết thúc vụ kiện, khi họ đã thua kiện. Đây được coi là phương thức hiệu quả bởi vì nó ngăn vợ chồng Robinson trì hoãn việc xét xử trong khi họ kháng cáo, đồng thời cho phép tòa phúc thẩm xem xét toàn bộ vụ kiện, bao gồm sai sót cụ thể hoặc bất kỳ sai sót nào được viện dẫn, và việc xem xét phán quyết có thể không bao giờ cần thiết; nếu vợ chồng Robinson thắng kiện, tòa phúc thẩm sẽ không bao giờ phải xem xét vấn đề. Các tòa án khác cho phép kháng cáo bất kỳ thời điểm nào khi một quyền trọng yếu có liên quan đến phán quyết của thẩm phán tòa sơ thẩm. Trong trường hợp này, việc cho phép kháng cáo vấn đề có chứng cứ rõ ràng sẽ không nhất thiết phải hoàn tất phiên xét xử sơ thẩm để ra lệnh xét xử lại khi tòa phúc thẩm đã có quyền.
Tiếp theo, hãy xem xét những công việc mà tòa phúc thẩm không thực hiện. Vì quá trình tranh tụng phúc thẩm tương tự như các phần còn lại của hệ thống, tòa phúc thẩm sẽ chỉ trả lời các câu hỏi mà tòa phúc thẩm được hỏi. Tòa phúc thẩm không tự ý đưa ra phán quyết mà tòa muốn xem xét vụ kiện của vợ chồng Robinson sau khi tòa án xét xử đã kết thúc; tòa phúc thẩm phải đợi một trong các bên kháng cáo. Và một khi tòa phúc thẩm đã thụ lý vụ kiện, tòa phúc thẩm chỉ có thể giải quyết các vấn đề mà các bên gây được sự chú ý của tòa phúc thẩm và được nêu tại tòa. Ví dụ, tòa phúc thẩm không xem xét liệu các chỉ thị của hội thẩm đoàn có chính xác, vì chẳng bên nào nêu ra vấn đề đó. Tòa cũng sẽ không xem xét vấn đề mà bên thua kiện đã không nêu ra tại phiên tòa. Nếu thẩm phán tòa sơ thẩm công nhận bằng chứng không thể tranh cãi, Audi có thể không phản đối sự công nhận của thẩm phán tòa sơ thẩm khi kháng cáo. Trên phương diện tính công bằng và hiệu quả, tòa phúc thẩm chỉ xem xét các vấn đề gây được sự chú ý của thẩm phán tòa sơ thẩm và được phát triển trong tập hồ sơ hạn chế đã để sẵn chuyển lên tòa phúc thẩm. Tòa án cũng không xem xét các sự việc mà đã không được đưa ra ở tòa án cấp dưới. Và tòa án sẽ chỉ xem xét các vấn đề kháng cáo có sự khác biệt về kết quả của vụ kiện. Chẳng hạn, Audi không thể kháng cáo một phán quyết nào đó của thẩm phán chỉ vì Audi muốn xin một tuyên bố từ tòa án cấp cao hơn về vấn đề đó; Audi sẽ thắng kiện, vì vậy tòa án sẽ không mất thời gian xem xét các vấn đề không có tính quan trọng đối với việc giải quyết một tranh cãi gay gắt. (Tuy nhiên, một khi vợ chồng Robinson kháng cáo, Audi có thể nêu ra các vấn đề khác ủng hộ phán quyết.)
Cuối cùng, hãy xem tòa án phúc thẩm xem xét như thế nào những sự việc đã xảy ra ở tòa án cấp dưới. Nếu vấn đề được đưa ra trước đó thì đây là một câu hỏi về luật pháp, tòa phúc thẩm lúc nào cũng sẵn sàng sử dụng phán quyết của mình để đưa ra kết quả đúng. Việc bác bỏ chứng cứ về sự nhận thức của Volkswagen đã xoay quanh một nguyên tắc luật về mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty con. Các thẩm phán tòa phúc thẩm hiểu đạo luật này và thẩm phán tòa sơ thẩm cũng vậy, do đó họ sẽ xem xét vấn đề lại lần nữa và không tôn trọng phán quyết của thẩm phán tòa sơ thẩm. (Vì ở vị trí cao, các thẩm phán tòa phúc thẩm thường cho là họ có hiểu biết luật tốt hơn. Giống như một nhận định thú vị về các thẩm phán của Tòa án Tối cao, họ không phải là người đưa ra phán quyết chung cuộc vì họ không thể mắc sai lầm, nhưng họ không thể mắc sai lầm vì họ là người đưa ra phán quyết chung cuộc). Tuy nhiên, nếu vấn đề có liên quan đến sự việc, tòa phúc thẩm sẽ thận trọng hơn. Họ chỉ xem một phần hồ sơ tố tụng ở tòa án cấp dưới và các lập luận của luật sư của các bên. Họ không nghe nhân chứng hoặc xem xét toàn bộ chứng cứ, vì vậy họ ở vị thế kém hơn khi đánh giá, chẳng hạn như liệu bình xăng có phải bị lỗi. Theo đó, tòa phúc thẩm sẽ tôn trọng phán quyết thực tế, đặc biệt nếu phán quyết đó được hội thẩm đoàn đưa ra chứ không theo đề nghị của thẩm phán tòa sơ thẩm.
Khi không còn kháng cáo nào nữa thì vụ kiện kết thúc. Ngay cả khi bên thua kiện có thể tìm hiểu được bằng chứng mới hoặc đưa ra tình tiết mới, bên thua kiện không thể quay lại tòa án và xét xử một lần nữa. Tính chung thẩm là một yếu tố quan trọng của hệ thống pháp luật, thuật ngữ Latinh là res judicata – “sự việc đã được phán quyết”.