Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Giết con chim nhại

Chương 7

Tác giả: Harper Lee

Jem ủ rũ và im lặng suốt một tuần. Như bố Atticus đã có lần khuyên tôi làm, tôi thử đặt mình vào vị trí Jem và ứng xử như anh ấy xem sao: nếu tôi đi một mình đến nhà Radley lúc hai giờ sáng, đám tang của tôi hẳn đã được tổ chức vào chiều hôm sau. Vì vậy tôi để Jem một mình và cố không quấy rầy anh.

Năm học bắt đầu. Lớp hai cũng tồi tệ như lớp một, thậm chí tệ hơn-họ vẫn chìa tấm thẻ vào mặt bạn và không cho bạn đọc hay viết. Sự tiến bộ của cô Caroline ở lớp kế bên có thể được ước tính bằng tần số tiếng cười; tuy nhiên, cái nhóm như thường lệ không qua được lớp một vẫn ở nguyên đó, và chúng có công lớn trong việc giữ trật tự. Điều lý thú duy nhất của lớp hai là năm nay tôi phải ở lại muộn bằng Jem, và anh em tôi thường cùng về nhà lúc ba giờ.

Một buổi chiều khi chúng tôi băng qua sân trường về phía nhà, bất ngờ Jem nói, “Có một điều tao chưa nói với mày.”

Vì đây là câu chuyện trọn vẹn đầu tiên của anh sau nhiều ngày, nên tôi khuyến khích anh, “Về chuyện gì?”

“Về đêm đó.”

“Anh không hề nói với em bất cứ chuyện gì về đêm đó,” tôi nói.

Jem xua những lời của tôi như quạt mấy con ruồi nhuế. Anh im lặng một lát, rồi nói, “Khi trở lại để lấy cái quần… nó rối nùi từ khi tao tuột nó ra, tao không gỡ nó ra được. Khi tao quay lại…” Jem hít một hơi sâu. “Khi tao quay lại, nó được xếp vắt ngang qua hàng rào…. giống như nó đang chờ tao vậy.”

“Ngang…”

“Và còn chuyện nữa….” Giọng Jem chùng xuống. “Về nhà tao cho mày xem. Nó đã

được khâu lại. Không giống một phụ nữ khâu, mà giống kiểu tao ráng làm. Nhăn nhúm hết trơn. Hầu như giống….”

“… ai đó biết anh sẽ quay lại kiếm nó.”

Jem rùng mình. “Giống như ai đó đọc được ý nghĩ của tao… giống như ai đó có thể biết tao sắp làm gì. Không ai có thể biết tao sắp làm gì trừ khi họ biết tao, đúng không, Scout?”

Câu hỏi của Jem là một lời khẩn cầu, tôi trấn an anh, “Không ai có thể biết anh sắp làm gì trừ khi họ sống trong nhà này với anh, còn em thậm chí còn không biết nữa kia.”

Chúng tôi đi ngang cái cây của mình. Trong lỗ hốc của nó có một cuộn dây xám.

“Đừng lấy nó, Jem,” tôi nói. “Đây là chỗ giấu của ai đó.”

“Tao không nghĩ thế, Scout.”

“Phải mà. Ai đó như Walter Cunningham đến đây vào mỗi giờ nghỉ và giấu các thứ của nó… và tụi mình đi ngang rồi lấy của nó. Nghe nè, cứ để nó ở đó vài ngày. Nếu nó còn đó, mình sẽ lấy, đồng ý không?”

“Đồng ý, có thể mày đúng,” Jem nói. “Chắc nó là chỗ của thằng nhóc nào đó…. giấu

những thứ của nó khỏi bọn lớn hơn. Mày biết là chỉ khi đi học mình mới thấy mấy thứ đó.”

“Phải,” tôi nói, “nhưng tụi mình đâu có đi ngang đây trong lúc nghỉ hè.”

Chúng tôi về nhà. Sáng hôm sau cuộn dây vẫn còn ở nơi chúng tôi để nó lại. Khi nó vẫn ở đó vào ngày thứ ba, Jem bèn bỏ nó vào túi. Từ đó trở đi chúng tôi xem mọi thứ tìm thấy trong lỗ hốc đó là tài sản của chúng tôi.

Lớp hai thật chán, nhưng Jem cam đoan rằng tôi càng lớn trường học càng tốt hơn,

rằng mới đầu anh cũng vậy, và mãi đến lớp sáu người ta mới học được điều đáng giá. Lớp sáu có vẻ khiến anh vui từ đầu: anh học qua Thời kỳ Ai Cập mà tôi thấy khó hiểu…. anh cố đi thẳng đơ người, giơ một tay tới trước và một tay ra sau, để bàn chân

này sau bàn chân kia. Anh tuyên bố người Ai Cập đi theo kiểu đó; tôi nói nếu họ đi như vậy, tôi không biết làm thế nào họ hoàn thành công việc được, nhưng Jem nói họ đạt thành quả hơn người Mỹ nhiều, họ đã chế ra giấy vệ sinh và thuật ướp xác vĩnh viễn, và hỏi ngày nay chúng ta sẽ ở đâu nếu họ không nghĩ ra những thứ ấy? Bố Atticus bảo tôi bỏ bớt những tính từ và tôi sẽ có các sự kiện[30].

Ở Nam Alabama các mùa không được xác định rõ ràng; mùa hè lan sang mùa thu, và mùa thu đôi khi không có mùa đông nối theo sau, mà chuyển sang một mùa xuân ngắn ngủi rồi tan lại vào mùa hè. Mùa thu năm đó là một mùa thu dài, hầu như không lạnh đến mức cần tới một chiếc áo khoác mỏng. Jem và tôi đang đi theo quỹ đạo của chúng tôi vào một chiều tháng Mười dịu mát thì cái hốc cây khiến chúng tôi dừng lại. Lần này có cái gì trăng trắng trong đó.

Jem dành cho tôi đặc ân: tôi lôi ra hai hình nhân nhỏ được tạc bằng miếng xà bông.

Một cái tạc hình đứa con trai, hình kia mặc chiếc đầm thô.

Trước khi tôi nhớ ra rằng không có thứ bùa ếm nào như vậy, tôi đã hét lên và ném chúng xuống.

Jem lượm chúng lên. “Có chuyện gì với mày vậy?” Anh gào lên. Anh chùi sạch bụi đỏ bám trên chúng. “Mấy cái này hên lắm,” anh nói. “Tao chưa từng thấy thứ đẹp như vậy.”

Anh thả chúng xuống tay tôi. Chúng gần như là hình ảnh thu nhỏ hoàn hảo về hai đứa trẻ. Đứa con trai mặc quần soóc, và một lọn tóc bù xù xõa xuống chân mày nó. Tôi nhìn lên Jem. Một lọn tóc nâu thẳng rũ xuống từ đường ngôi. Trước đây tôi chưa từng nhận ra điểm này.

Jem nhìn từ búp bê gái sang tôi. Búp bê có tóc che kín nửa trán. Tôi cũng vậy.

“Nhưng hình này là tụi mình,” anh nói.

“Theo anh ai làm chúng?”

“Ai ở quanh đây biết đẽo gọt mà tụi mình biết?” Anh ấy hỏi.

“Ông Avery.”

“Ông Avery chỉ làm giống vậy. Ý tao nói chạm khắc.”

Ông Avery làm trung bình một thanh củi một tuần; ông gọt đến lúc nó nhỏ lại còn bằng cây tăm rồi nhai nó.

“Đó là người yêu của cô Stephanie Crawford,” tôi nói.

“Ông ta khắc được, nhưng ông sống ở vùng nông thôn. Ông ta chú ý đến tụi mình hồi nào vậy?”

“Có lẽ ông ngồi ở hàng hiên và nhìn tụi mình thay vì cô Stephanie. Nếu em là ông ta, em sẽ làm vậy.”

Jem nhìn tôi rất lâu đến độ tôi hỏi có chuyện gì vậy, nhưng chỉ nhận được câu trả lời Không Có Gì, Scout à. Khi về tới nhà, Jem cất hai con búp bê vào rương của anh.

Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao su, mà chúng tôi cứ thế tận hưởng, lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem.

Tuần kế tiếp lỗ bọng đó chứa một huy chương xỉn màu. Jem đưa nó cho bố Atticus xem, ông nói đó là huy chương đánh vần, rằng trước khi tụi tôi ra đời các trường ở hạt Maycomb có những cuộc thi đánh vần và thưởng huy chương cho người thắng cuộc. Bố Atticus nói chắc có ai làm mất nó, và hỏi tụi tôi đã hỏi lòng vòng xung quanh chưa? Jem đá chân tôi khi tôi định khai ra nơi chúng tôi nhặt được nó. Jem hỏi liệu bố Atticus có nhớ ai đã nhận được một cái không, bố Atticus nói không.

Món quà lớn nhất của chúng tôi xuất hiện bốn ngày sau đó. Nó là chiếc đồng hồ bỏ túi không còn chạy nữa, gắn vào một sợi dây chuyền có con dao nhôm.

“Anh có nghĩ đó là vàng trắng không, Jem?”

“Không biết. Để tao đưa cho bố xem.”

Bố Atticus nói chắc nó đáng giá mười đô, gồm con dao, dây chuyền các thứ, nếu nó còn mới. “Con có đổi chác với ai trong trường không?” Ông hỏi.

“Ồ, không, thưa bố!” Jem lôi ra cái đồng hồ của ông nội mà bố Atticus cho anh ấy đeo mỗi tuần một lần nếu anh giữ nó cẩn thận. Vào những ngày đeo đồng hồ đó, Jem đi đứng rất cẩn thận. “Bố, nếu bố đồng ý, con giữ được cái này xài thay cái kia. Không chừng con sửa nó được.”

Khi cái mới thay thế dần cái đồng hồ của ông nội, và việc đeo nó trở thành một nhiệm vụ phiền toái trong ngày, Jem không còn cảm thấy sự cần thiết của việc xác minh giờ giấc năm phút một lần nữa.

Anh đã làm việc sửa chữa ngon lành, chỉ có một lò xo và hai mẩu nhỏ xíu được bỏ ra, nhưng đồng hồ vẫn không chạy. “Ô-h,” anh thở dài, “nó không bao giờ chạy, Scout…..?”

“Hả?”

“Mày có cho là mình nên viết một lá thư cho người để lại những thứ này cho mình không?”

“Đúng vậy, Jem, mình cám ơn họ…. có gì sai đâu?”

Jem nắm hai lỗ tai, lắc đầu qua lại. “Tao không hiểu, tao vẫn không hiểu được….. tao

không biết tại sao, Scout….” Anh nhìn về phía phòng khách. “Tao nghĩ tốt hơn là nói

với bố Atticus….. không, tao cho là không.”

“Em sẽ nói với bố dùm anh.”

“Không, đừng làm vậy, Scout. Scout nè?”

“Gì?”

Suốt buổi tối anh đã định nói với tôi điều gì đó; khuôn mặt anh sáng bừng và anh chồm tới bên tôi, rồi anh đổi ý. Giờ anh lại đổi ý nữa. “Ô, không có gì.”

“Nè, mình viết thư đi.” Tôi chìa tờ giấy và cây bút chì vào ngay mũi anh.

“Được rồi. Kính thưa ông…..”

“Sao anh biết đó là đàn ông? Em cá đó là cô Maudie…. em tin chắc điều đó từ lâu.”

“Á…à, cô Maudie đâu có nhai kẹo cao su…”Jem cười toe. “Mày biết đó, nhiều khi cô có thể nói chuyện khá thật. Có lần tao mời cô một thanh kẹo cao su cô nói không, cám ơn, rằng…. kẹo cao su dính vào vòm miệng làm cô không nói chuyện được,” Jem nói một cách thận trọng. “Điều đó bộ không hay sao?”

“Phải,có khi cô ấy có thể nói những điều hay ho. Nhưng dù sao cô cũng không có đồng hồ đeo tay với sợi dây chuyền.”

“Thưa ngài,” Jem nói. “Chúng tôi trân trọng cái….. không, chúng tôi trân trọng mọi

thứ mà ngài đặt vào cây cho chúng tôi. Kính thư, Jeremy Atticus Finch.”

“Ông ta đâu biết anh là ai nếu anh ký tên như vậy?”

Jem tẩy tên anh và viết, “Jem Finch”. Tôi ký tên, “Jean Louise Finch (Scout),” bên dưới. Jem để lá thư vào bì thư.

Sáng hôm sau trên đường đến trường anh chạy trước tôi và dừng lại chỗ cái cây. Jem đang quay mặt về phía tôi khi anh nhìn lên, và tôi thấy anh trở nên trắng bệch.

“Scout!”

Tôi chạy tới chỗ anh.

Có ai đó đã trám lỗ bọc đó bằng xi măng.

“Đừng khóc, Scout, lúc này… đừng khóc lúc này, mày không lo rằng…” Anh thì thầm với tôi suốt đường đến trường.

Khi chúng tôi về nhà ăn trưa Jem nuốt vội nuốt vàng, chạy ra hàng hiên và đứng ở bậc thềm. Tôi theo anh. “Chưa có ai đi ngang đó,” anh nói.

Ngày hôm sau Jem lặp lại việc trông chừng của anh và được đền bù.

“Ô, chào ông Nathan,” anh nói.

“Chào buổi sáng Jem, Scout,” ông Nathan nói khi đi ngang qua.

“Ông Radley,” Jem nói.

Ông Radley quay sang.

“Ông Radlay, ờ….. ông trét xi măng vào cái lỗ ở cây đằng kia kìa ạ?”

“Phải,” ông đáp. “Ta trét nó đó.”

“Sao ông làm vậy?”

“Cây sắp chết. Cháu dùng xi măng trét vào khi chúng bệnh. Cháu phải biết điều đó, Jem.”

Jem không nói gì về chuyện đó cho đến chiều tối. Khi chúng tôi đi ngang cái cây của chúng tôi anh vỗ một cách trầm tư vào lớp xi măng của nó, và vẫn chìm sâu trong suy nghĩ. Có vẻ như anh đang buồn phiền vì vậy tôi giữ khoảng cách.

Như thường lệ, chúng tôi đón bố Atticus đi làm về tối đó. Khi tới bậc thềm, Jem nói. “Bố Atticus, làm ơn nhìn ra đằng kia chỗ cái cây đó.”

“Cây nào, con trai?”

“Cái cây ngay góc khu đất nhà Radley trên đường tới trường đó.”

“Sao?”

“Cây đó sắp chết hả?”

“Ồ, không, con trai, bố không nghĩ thế. Nhin lá nó kìa, chúng sum suê và xanh um, đâu có chỗ nào úa đâu…..”

“Thậm chí nó không bệnh nữa hả bố?”

“Cái cây đó khỏe mạnh như con vậy, Jem. Có chuyện gì?”

“Ông Nathan nói cây đó sắp chết.”

“Cũng có thể. Bố chắc ông biết nhiều về cây của ông hơn chúng ta.”

Bố Atticus để chúng tôi ở lại hàng hiên. Jem tựa vào cây cột, cọ vai vào đó.

“Anh ngứa hả, Jem?” Tôi hỏi một cách hết sức lịch sự. Anh không trả lời. “Vào nhà đi Jem.” tôi nói.

“Lát nữa đi.”

Anh đứng đó cho đến khi đêm xuống, và tôi chờ anh. Khi chúng tôi đi vào nhà, tôi thấy anh nãy giờ đã khóc, mặt anh bẩn ở những chỗ có thể có nước mắt, nhưng tôi nghĩ thật kỳ lạ là tôi không hề nghe tiếng anh khóc.

Jem ủ rũ và im lặng suốt một tuần. Như bố Atticus đã có lần khuyên tôi làm, tôi thử đặt mình vào vị trí Jem và ứng xử như anh ấy xem sao: nếu tôi đi một mình đến nhà Radley lúc hai giờ sáng, đám tang của tôi hẳn đã được tổ chức vào chiều hôm sau. Vì vậy tôi để Jem một mình và cố không quấy rầy anh.

Năm học bắt đầu. Lớp hai cũng tồi tệ như lớp một, thậm chí tệ hơn-họ vẫn chìa tấm thẻ vào mặt bạn và không cho bạn đọc hay viết. Sự tiến bộ của cô Caroline ở lớp kế bên có thể được ước tính bằng tần số tiếng cười; tuy nhiên, cái nhóm như thường lệ không qua được lớp một vẫn ở nguyên đó, và chúng có công lớn trong việc giữ trật tự. Điều lý thú duy nhất của lớp hai là năm nay tôi phải ở lại muộn bằng Jem, và anh em tôi thường cùng về nhà lúc ba giờ.

Một buổi chiều khi chúng tôi băng qua sân trường về phía nhà, bất ngờ Jem nói, “Có một điều tao chưa nói với mày.”

Vì đây là câu chuyện trọn vẹn đầu tiên của anh sau nhiều ngày, nên tôi khuyến khích anh, “Về chuyện gì?”

“Về đêm đó.”

“Anh không hề nói với em bất cứ chuyện gì về đêm đó,” tôi nói.

Jem xua những lời của tôi như quạt mấy con ruồi nhuế. Anh im lặng một lát, rồi nói, “Khi trở lại để lấy cái quần… nó rối nùi từ khi tao tuột nó ra, tao không gỡ nó ra được. Khi tao quay lại…” Jem hít một hơi sâu. “Khi tao quay lại, nó được xếp vắt ngang qua hàng rào…. giống như nó đang chờ tao vậy.”

“Ngang…”

“Và còn chuyện nữa….” Giọng Jem chùng xuống. “Về nhà tao cho mày xem. Nó đã

được khâu lại. Không giống một phụ nữ khâu, mà giống kiểu tao ráng làm. Nhăn nhúm hết trơn. Hầu như giống….”

“… ai đó biết anh sẽ quay lại kiếm nó.”

Jem rùng mình. “Giống như ai đó đọc được ý nghĩ của tao… giống như ai đó có thể biết tao sắp làm gì. Không ai có thể biết tao sắp làm gì trừ khi họ biết tao, đúng không, Scout?”

Câu hỏi của Jem là một lời khẩn cầu, tôi trấn an anh, “Không ai có thể biết anh sắp làm gì trừ khi họ sống trong nhà này với anh, còn em thậm chí còn không biết nữa kia.”

Chúng tôi đi ngang cái cây của mình. Trong lỗ hốc của nó có một cuộn dây xám.

“Đừng lấy nó, Jem,” tôi nói. “Đây là chỗ giấu của ai đó.”

“Tao không nghĩ thế, Scout.”

“Phải mà. Ai đó như Walter Cunningham đến đây vào mỗi giờ nghỉ và giấu các thứ của nó… và tụi mình đi ngang rồi lấy của nó. Nghe nè, cứ để nó ở đó vài ngày. Nếu nó còn đó, mình sẽ lấy, đồng ý không?”

“Đồng ý, có thể mày đúng,” Jem nói. “Chắc nó là chỗ của thằng nhóc nào đó…. giấu

những thứ của nó khỏi bọn lớn hơn. Mày biết là chỉ khi đi học mình mới thấy mấy thứ đó.”

“Phải,” tôi nói, “nhưng tụi mình đâu có đi ngang đây trong lúc nghỉ hè.”

Chúng tôi về nhà. Sáng hôm sau cuộn dây vẫn còn ở nơi chúng tôi để nó lại. Khi nó vẫn ở đó vào ngày thứ ba, Jem bèn bỏ nó vào túi. Từ đó trở đi chúng tôi xem mọi thứ tìm thấy trong lỗ hốc đó là tài sản của chúng tôi.

Lớp hai thật chán, nhưng Jem cam đoan rằng tôi càng lớn trường học càng tốt hơn,

rằng mới đầu anh cũng vậy, và mãi đến lớp sáu người ta mới học được điều đáng giá. Lớp sáu có vẻ khiến anh vui từ đầu: anh học qua Thời kỳ Ai Cập mà tôi thấy khó hiểu…. anh cố đi thẳng đơ người, giơ một tay tới trước và một tay ra sau, để bàn chân

này sau bàn chân kia. Anh tuyên bố người Ai Cập đi theo kiểu đó; tôi nói nếu họ đi như vậy, tôi không biết làm thế nào họ hoàn thành công việc được, nhưng Jem nói họ đạt thành quả hơn người Mỹ nhiều, họ đã chế ra giấy vệ sinh và thuật ướp xác vĩnh viễn, và hỏi ngày nay chúng ta sẽ ở đâu nếu họ không nghĩ ra những thứ ấy? Bố Atticus bảo tôi bỏ bớt những tính từ và tôi sẽ có các sự kiện[30].

Ở Nam Alabama các mùa không được xác định rõ ràng; mùa hè lan sang mùa thu, và mùa thu đôi khi không có mùa đông nối theo sau, mà chuyển sang một mùa xuân ngắn ngủi rồi tan lại vào mùa hè. Mùa thu năm đó là một mùa thu dài, hầu như không lạnh đến mức cần tới một chiếc áo khoác mỏng. Jem và tôi đang đi theo quỹ đạo của chúng tôi vào một chiều tháng Mười dịu mát thì cái hốc cây khiến chúng tôi dừng lại. Lần này có cái gì trăng trắng trong đó.

Jem dành cho tôi đặc ân: tôi lôi ra hai hình nhân nhỏ được tạc bằng miếng xà bông.

Một cái tạc hình đứa con trai, hình kia mặc chiếc đầm thô.

Trước khi tôi nhớ ra rằng không có thứ bùa ếm nào như vậy, tôi đã hét lên và ném chúng xuống.

Jem lượm chúng lên. “Có chuyện gì với mày vậy?” Anh gào lên. Anh chùi sạch bụi đỏ bám trên chúng. “Mấy cái này hên lắm,” anh nói. “Tao chưa từng thấy thứ đẹp như vậy.”

Anh thả chúng xuống tay tôi. Chúng gần như là hình ảnh thu nhỏ hoàn hảo về hai đứa trẻ. Đứa con trai mặc quần soóc, và một lọn tóc bù xù xõa xuống chân mày nó. Tôi nhìn lên Jem. Một lọn tóc nâu thẳng rũ xuống từ đường ngôi. Trước đây tôi chưa từng nhận ra điểm này.

Jem nhìn từ búp bê gái sang tôi. Búp bê có tóc che kín nửa trán. Tôi cũng vậy.

“Nhưng hình này là tụi mình,” anh nói.

“Theo anh ai làm chúng?”

“Ai ở quanh đây biết đẽo gọt mà tụi mình biết?” Anh ấy hỏi.

“Ông Avery.”

“Ông Avery chỉ làm giống vậy. Ý tao nói chạm khắc.”

Ông Avery làm trung bình một thanh củi một tuần; ông gọt đến lúc nó nhỏ lại còn bằng cây tăm rồi nhai nó.

“Đó là người yêu của cô Stephanie Crawford,” tôi nói.

“Ông ta khắc được, nhưng ông sống ở vùng nông thôn. Ông ta chú ý đến tụi mình hồi nào vậy?”

“Có lẽ ông ngồi ở hàng hiên và nhìn tụi mình thay vì cô Stephanie. Nếu em là ông ta, em sẽ làm vậy.”

Jem nhìn tôi rất lâu đến độ tôi hỏi có chuyện gì vậy, nhưng chỉ nhận được câu trả lời Không Có Gì, Scout à. Khi về tới nhà, Jem cất hai con búp bê vào rương của anh.

Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao su, mà chúng tôi cứ thế tận hưởng, lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem.

Tuần kế tiếp lỗ bọng đó chứa một huy chương xỉn màu. Jem đưa nó cho bố Atticus xem, ông nói đó là huy chương đánh vần, rằng trước khi tụi tôi ra đời các trường ở hạt Maycomb có những cuộc thi đánh vần và thưởng huy chương cho người thắng cuộc. Bố Atticus nói chắc có ai làm mất nó, và hỏi tụi tôi đã hỏi lòng vòng xung quanh chưa? Jem đá chân tôi khi tôi định khai ra nơi chúng tôi nhặt được nó. Jem hỏi liệu bố Atticus có nhớ ai đã nhận được một cái không, bố Atticus nói không.

Món quà lớn nhất của chúng tôi xuất hiện bốn ngày sau đó. Nó là chiếc đồng hồ bỏ túi không còn chạy nữa, gắn vào một sợi dây chuyền có con dao nhôm.

“Anh có nghĩ đó là vàng trắng không, Jem?”

“Không biết. Để tao đưa cho bố xem.”

Bố Atticus nói chắc nó đáng giá mười đô, gồm con dao, dây chuyền các thứ, nếu nó còn mới. “Con có đổi chác với ai trong trường không?” Ông hỏi.

“Ồ, không, thưa bố!” Jem lôi ra cái đồng hồ của ông nội mà bố Atticus cho anh ấy đeo mỗi tuần một lần nếu anh giữ nó cẩn thận. Vào những ngày đeo đồng hồ đó, Jem đi đứng rất cẩn thận. “Bố, nếu bố đồng ý, con giữ được cái này xài thay cái kia. Không chừng con sửa nó được.”

Khi cái mới thay thế dần cái đồng hồ của ông nội, và việc đeo nó trở thành một nhiệm vụ phiền toái trong ngày, Jem không còn cảm thấy sự cần thiết của việc xác minh giờ giấc năm phút một lần nữa.

Anh đã làm việc sửa chữa ngon lành, chỉ có một lò xo và hai mẩu nhỏ xíu được bỏ ra, nhưng đồng hồ vẫn không chạy. “Ô-h,” anh thở dài, “nó không bao giờ chạy, Scout…..?”

“Hả?”

“Mày có cho là mình nên viết một lá thư cho người để lại những thứ này cho mình không?”

“Đúng vậy, Jem, mình cám ơn họ…. có gì sai đâu?”

Jem nắm hai lỗ tai, lắc đầu qua lại. “Tao không hiểu, tao vẫn không hiểu được….. tao

không biết tại sao, Scout….” Anh nhìn về phía phòng khách. “Tao nghĩ tốt hơn là nói

với bố Atticus….. không, tao cho là không.”

“Em sẽ nói với bố dùm anh.”

“Không, đừng làm vậy, Scout. Scout nè?”

“Gì?”

Suốt buổi tối anh đã định nói với tôi điều gì đó; khuôn mặt anh sáng bừng và anh chồm tới bên tôi, rồi anh đổi ý. Giờ anh lại đổi ý nữa. “Ô, không có gì.”

“Nè, mình viết thư đi.” Tôi chìa tờ giấy và cây bút chì vào ngay mũi anh.

“Được rồi. Kính thưa ông…..”

“Sao anh biết đó là đàn ông? Em cá đó là cô Maudie…. em tin chắc điều đó từ lâu.”

“Á…à, cô Maudie đâu có nhai kẹo cao su…”Jem cười toe. “Mày biết đó, nhiều khi cô có thể nói chuyện khá thật. Có lần tao mời cô một thanh kẹo cao su cô nói không, cám ơn, rằng…. kẹo cao su dính vào vòm miệng làm cô không nói chuyện được,” Jem nói một cách thận trọng. “Điều đó bộ không hay sao?”

“Phải,có khi cô ấy có thể nói những điều hay ho. Nhưng dù sao cô cũng không có đồng hồ đeo tay với sợi dây chuyền.”

“Thưa ngài,” Jem nói. “Chúng tôi trân trọng cái….. không, chúng tôi trân trọng mọi

thứ mà ngài đặt vào cây cho chúng tôi. Kính thư, Jeremy Atticus Finch.”

“Ông ta đâu biết anh là ai nếu anh ký tên như vậy?”

Jem tẩy tên anh và viết, “Jem Finch”. Tôi ký tên, “Jean Louise Finch (Scout),” bên dưới. Jem để lá thư vào bì thư.

Sáng hôm sau trên đường đến trường anh chạy trước tôi và dừng lại chỗ cái cây. Jem đang quay mặt về phía tôi khi anh nhìn lên, và tôi thấy anh trở nên trắng bệch.

“Scout!”

Tôi chạy tới chỗ anh.

Có ai đó đã trám lỗ bọc đó bằng xi măng.

“Đừng khóc, Scout, lúc này… đừng khóc lúc này, mày không lo rằng…” Anh thì thầm với tôi suốt đường đến trường.

Khi chúng tôi về nhà ăn trưa Jem nuốt vội nuốt vàng, chạy ra hàng hiên và đứng ở bậc thềm. Tôi theo anh. “Chưa có ai đi ngang đó,” anh nói.

Ngày hôm sau Jem lặp lại việc trông chừng của anh và được đền bù.

“Ô, chào ông Nathan,” anh nói.

“Chào buổi sáng Jem, Scout,” ông Nathan nói khi đi ngang qua.

“Ông Radley,” Jem nói.

Ông Radley quay sang.

“Ông Radlay, ờ….. ông trét xi măng vào cái lỗ ở cây đằng kia kìa ạ?”

“Phải,” ông đáp. “Ta trét nó đó.”

“Sao ông làm vậy?”

“Cây sắp chết. Cháu dùng xi măng trét vào khi chúng bệnh. Cháu phải biết điều đó, Jem.”

Jem không nói gì về chuyện đó cho đến chiều tối. Khi chúng tôi đi ngang cái cây của chúng tôi anh vỗ một cách trầm tư vào lớp xi măng của nó, và vẫn chìm sâu trong suy nghĩ. Có vẻ như anh đang buồn phiền vì vậy tôi giữ khoảng cách.

Như thường lệ, chúng tôi đón bố Atticus đi làm về tối đó. Khi tới bậc thềm, Jem nói. “Bố Atticus, làm ơn nhìn ra đằng kia chỗ cái cây đó.”

“Cây nào, con trai?”

“Cái cây ngay góc khu đất nhà Radley trên đường tới trường đó.”

“Sao?”

“Cây đó sắp chết hả?”

“Ồ, không, con trai, bố không nghĩ thế. Nhin lá nó kìa, chúng sum suê và xanh um, đâu có chỗ nào úa đâu…..”

“Thậm chí nó không bệnh nữa hả bố?”

“Cái cây đó khỏe mạnh như con vậy, Jem. Có chuyện gì?”

“Ông Nathan nói cây đó sắp chết.”

“Cũng có thể. Bố chắc ông biết nhiều về cây của ông hơn chúng ta.”

Bố Atticus để chúng tôi ở lại hàng hiên. Jem tựa vào cây cột, cọ vai vào đó.

“Anh ngứa hả, Jem?” Tôi hỏi một cách hết sức lịch sự. Anh không trả lời. “Vào nhà đi Jem.” tôi nói.

“Lát nữa đi.”

Anh đứng đó cho đến khi đêm xuống, và tôi chờ anh. Khi chúng tôi đi vào nhà, tôi thấy anh nãy giờ đã khóc, mặt anh bẩn ở những chỗ có thể có nước mắt, nhưng tôi nghĩ thật kỳ lạ là tôi không hề nghe tiếng anh khóc.

Bình luận