Thời tiết ấm khác thường đối với ngày cuối cùng của tháng Mười. Thậm chí chúng tôi không cần áo khoác. Gió thổi mạnh hơn, và Jem nói trời sẽ mưa trước khi chúng tôi về đến nhà. Không có trăng.
Đèn đường ngay góc hắt những chiếc bóng sắc nét lên nhà Radley. Tôi nghe Jem cười nhẹ. “Cá là không có ai quấy rầy họ tối nay,” anh nói. Jem đang cầm bộ đồ giăm bông của tôi, hơi lóng ngóng vì nó khó ôm theo. Tôi nghĩ anh làm thế thì quả là lịch sự với nữ giới.
“Dù sao thì đó cũng là một nơi đáng sợ, đúng không?” Tôi nói. “Boo không có ý làm hại bất kỳ ai, nhưng em rất vui khi có anh đi chung.”
“Em biết bố Atticus không để em đến trường một mình mà,” Jem nói.
“Không hiểu sao bố nghĩ vậy, chỉ quẹo một ngã tư rồi băng qua một cái sân.”
“Cái sân đó dài quá mức mấy cô bé băng qua vào ban đêm,” Jem chọc tôi. “Em không sợ ma hả?”
Tụi tôi cười lớn. Ma, hồn nóng, những câu thần chú, những dấu hiệu mật, đã biến mất với năm tháng như sương mù dưới mặt trời. “Câu hồi xưa đó là gì nhỉ,” Jem nói, “Thiên thần sáng láng, sống chết lộn nhau, rời khỏi đường này, đừng hút hơi tao.”
“Thôi đi,” tôi nói. Chúng tôi đang ở trước nhà Radley.
Jem nói, “Chắc Boo không có ở nhà. Nghe kìa.”
Trên đầu chúng tôi trong bóng tối có một con chim nhại lẻ loi đang trút ra toàn bộ tuyệt kỹ nhái giọng của nó trong niềm vui sướng chẳng cần biết chủ của cái cây nó đang đậu là ai, nó đã chuyển từ tiếng kii kii chói tai của chim hướng dương đến tiếng qua-ack giận dữ của con giẻ cái, đến lời than vãn buồn bã của chim đớp mồi.
Chúng tôi quẹo góc phố và tôi vấp phải một rễ cây nhô lên trên đường, Jem cố giúp tôi, nhưng tất cả những gì anh làm là đánh rơi trang phục của tôi xuống đất. Dù sao thì tôi cũng không bị ngã và chúng tôi đi tiếp.
Chúng tôi rời khỏi đường chính và bước vào sân trường. Nó tối thui.
“Làm sao anh biết mình đang ở đâu, Jem?” Tôi hỏi, khi chúng tôi đã đi vài bước.
“Anh dám chắc mình đang ở dưới tán cây sồi to vì mình vừa đi qua một nơi mát lạnh. Bây giờ cẩn thận đó, coi chừng ngã nữa đấy.”
Chúng tôi thận trọng đi chậm lại, và dò đường phía trước để không đụng vào gốc cây. Đó là cây sồi cổ thụ đơn lẻ; hai đứa bé không thể ôm hết vòng thân cây. Nó cách xa các giáo viên, các do thám của họ, và những láng giềng tò mò: nó gần khu đất nhà Radley, nhưng người nhà Radley không tò mò. Một khoảng đất nhỏ dưới tán cây là nơi diễn ra nhiều trận đánh lộn và những trò chơi nhảm nhí thẩm lén.
Những ngọn đèn ở hội trường của trường trung học sáng rực từ xa, nhưng chúng chỉ tổ làm chúng tôi chói mắt. “Đừng nhìn đằng trước, Scout,” Jem nói. “Nhìn xuống đất không là ngã đó.”
“Đúng ra anh nên mang theo đèn pin, Jem.”
“Ai mà biết trước tối như vậy. Hồi nãy trời đâu có tối dữ vậy. Tại mày đó. Dù sao thì chút nữa sẽ hết.”
Ai đó nhảy xô vào chúng tôi.
“Chúa ơi!” Jem hét lên.
Một vòng ánh sáng bùng chiếu vào mặt chúng tôi, và Cecil Jacobs nhảy cẫng khoái chí sau luồng sáng. “Ha-a-a ngay chóc!” Nó hét lên. “Tao đã đoán tụi bay đi theo đường này mà!”
“Mày làm gì ở ngoài này vậy, nhóc? Mày không sợ Boo Radley hả?”
Cecil đã ngồi trên xe an toàn với ba mẹ nó tới hội trường, không thấy tụi tôi, nó mò mẫm tới tận đây vì nó biết rõ tụi tôi đi theo lối này. Nhưng nó cứ nghĩ bố Finch sẽ đi với tụi tôi.
“Có xa lắm đâu, chỉ quẹo cua này thôi mà,” Jem nói. “Ai mà sợ đi qua vòng cua này?” Dù sao chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng Cecil giỏi. Nó đã làm chúng tôi một phen hoảng hồn, và nó có thể kháo chuyện này khắp trường, đó là đặc quyền của nó.
“Ê,” tôi nói, “tối nay mày không làm bò hả? Trang phục của mày đâu?”
“Để đằng sau sân khấu cơ,” nó nói. “Bà Merriweather nói chưa tới hoạt cảnh này đâu. Mày cứ để bộ đồ này phía sau sân khấu kế bộ đồ của tao, Scout, rồi tụi mình với mấy đứa kia.”
Đó là một ý tưởng tuyệt hay, Jem nghĩ. Anh cũng nghĩ thật hay khi tôi đi chơi với Cecil. Như vậy, anh sẽ được rảnh rang đi chơi cùng bạn bè cùng trang lứa của anh.
Khi bọn tôi tới hội trường, cả thị trấn đã có mặt ở đó trừ bố Atticus và các bà mệt lử vì trang trí, và những kẻ vô gia cư và những người thường ru rú ở trong nhà. Có vẻ như cả hạt đều ở đó: hành lang đầy dân trong hạt ăn mặc chải chuốt. Trường trung học có một tiền sảnh tầng trệt rộng lớn. Người ta chen chúc quanh các quầy được lắp đặt dọc hai bên.
“Ôi, Jem. Em quên mang tiền rồi,” tôi thở dài khi tôi thấy khu này.
“Bố Atticus không quên,” Jem nói. “Ba mươi xu nè, em có thể chơi ở sáu quầy. Gặp lại sau nghen.”
“Rồi,” tôi nói, hoàn toàn hài lòng với ba mươi xu và Cecil. Tôi đi với Cecil tới phía hội trường, qua một cánh cửa bên hông và vào hậu trường. Tôi để bộ trang phục giăm bông tại đó và vọt lẹ, vì bà Merriweather đang đứng ngay bục phát biểu ngay hàng
ghế đầu để sửa kịch bản lần cuối.
“Mày có bao nhiêu,” tôi hỏi Cecil. Cecil cũng có ba mươi xu, vậy là chúng tôi bằng nhau. Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh hoàng, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào, tụi tôi bước vào phòng lớp bảy đen thui và được dẫn đi loanh quanh bởi một con ma cà rồng tạm thời trong đó và được hướng dẫn rờ vào những món được cho là bộ phận cấu thành con người. “Đây là đôi mắt,” chúng tôi được nói cho biết khi chạm vào hai quả nho bóc vỏ để trên một cái đĩa. “Đây là trái tim,” vốn tạo cảm giác giống lá gan khi còn sống. “Những thứ này là bao tử và ruột,” và tay chúng tôi được nhét vào một đĩa mì sợi lạnh ngắt.
Cecil và tôi ghé qua vài quầy nữa. Bọn tôi mỗi đứa mua một gói kẹo tự làm của bà quan tòa Taylor. Tôi muốn chơi trò dùng răng cắn những quả táo trôi bập bềnh trong chậu, nhưng Cecil nói làm thế mất vệ sinh lắm. Mẹ nó nói nó có thể lấy một thứ gì đó từ đầu của người khác chui vào trong cùng một cái chậu. “Bây giờ trong thị trấn này không có thứ gì để bị lây đâu,” tôi phản đối. Nhưng Cecil nói mẹ nó bảo không hợp vệ sinh khi ăn sau người khác. Sau đó tôi hỏi bác Alexandra về chuyện này, và bác nói những người còn những quan điểm như thế thường là những kẻ bon chen trong xã hội.
Chúng tôi định mua một miếng kẹo bơ thì những tay đưa tin của bà Merriweather xuất hiện bảo chúng tôi đến hậu trường, đến lúc phải chuẩn bị rồi. Hội trường đang dần đầy nhóc người. Ban nhạc Trường trung học Maycomb đã tập hợp bên dưới ngay trước sân khấu; đèn rọi sân khấu đã bật lên và tấm màn nhung đỏ nhấp nhô do có người đi lại nhộn nhạo đằng sau đó.
Ở hậu trường, Cecil và tôi thấy lối đi hẹp đầy nhóc người; người lớn đội những cái mũ ba góc tự chế, mũ lưỡi trai của quân miền Nam, mũ thời Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, và mũ sắt thời Thế chiến. Trẻ em ăn mặc như những công nhân nông nghiệp khác nhau tụ tập quanh một ô cửa nhỏ.
“Ai giẫm nát trang phục của tao rồi,” tôi rên rỉ trong đau khổ. Bà Merriweather phóng
về phía tôi, sửa lại tấm lưới áo và đẩy tôi chui vào trong.
“Mày trong đó êm không, Scout?” Cecil hỏi. “Nghe tiếng mày xa lắc, cứ như ở tuốt bên kia đồi vậy.”
“Tiếng mày nghe đâu có gần hơn chút nào đâu,” tôi nói.
Ban nhạc đang chơi quốc ca, và chúng tôi nghe khán giả đứng lên. Rồi tiếng trống vang lên. Bà Merriweather, đứng đằng sau bục cạnh ban nhạc, xướng lên, “Maycomb Country. Ad Astra Aspera.” Tiếng trống trầm vang lên lần nữa. “Điều đó có nghĩa là,” bà Merriweather nói, dịch cho đám cư dân nông thôn hiểu, “từ bùn lầy lên những ngôi sao.” Bà thêm, theo tôi là không cần thiết, “Một màn hoạt cảnh.”
“Làm cứ như họ không hiểu nổi nó là cái gì nếu như bà ta không nói cho họ biết vậy,” Cecil thì thào, lập tức bị nhắc giữ im lặng.
“Cả thị trấn này đều biết rồi,” tôi nói nhỏ.
“Những dân nông thôn cũng tới,” Cecil nói.
“Im hết coi,” một giọng ra lệnh, và chúng tôi im lặng.
Trống trầm đánh lên theo mỗi câu bà Merriweather thốt ra. Bà nói lê thê về hạt Maycomb còn lâu đời hơn tiểu bang, rằng nó là một phần lãnh thổ của Mississippi và Alabama, rằng người da trắng đầu tiên đặt chân lên khu rừng nguyên sinh là cụ tổ năm đời của Quan tòa di chúc, người không bao giờ được nghe nhắc lại. Sau đó là đại tá Maycomb dũng cảm, người được lấy tên để đặt cho hạt này.
Andrew Jackson đã bổ nhiệm ông vào vị trí cầm quyền và sự tự tin không đúng chỗ và có ý thức định hướng kém cỏi của đại tá Maycomb đã mang đến tai họa cho tất cả những người chiến đấu cùng ông trong những cuộc chiến tranh với người Da đỏ Creck. Đại tá đã nỗ lực kiên trì biến khu vực này trở thành vùng an toàn cho một nền dân chủ, nhưng chiến dịch đầu tiên của ông cũng là chiến dịch cuối cùng. Những
mệnh lệnh của ông được truyền tới qua một phái viên Da đỏ thân thiện và tiến về phía Nam. Sau khi nghiên cứu địa y của một thân cây để xác định hướng nào là hướng Nam, và bỏ ngoài tai lời khuyên của những thuộc cấp vốn đã mạo muội sửa sai ông, đại tá Maycomb thực hiện một chuyến hành trình cương quyết nhằm đánh tan kẻ thù và khiến binh lính của ông đi lạc về hướng Tây Bắc trong rừng nguyên sinh đến độ cuối cùng được những người khẩn hoang giải cứu khi họ đi sâu vào nội địa.
Bà Merriweather kể lể khoảng ba mươi phút về những chiến công của đại tá Maycomb. Tôi phát hiện ra rằng nếu quỳ xuống tôi có thể nhét đầu gối vào trong trang phục của mình và sau cùng ngồi xuống được. Tôi ngồi xuống lắng nghe bài nói chuyện của bà Merriweather và tiếng trống trầm vỗ rồi ngủ hồi nào không hay.
Sau này họ nói rằng bà Merriweather đã dành hết tâm trí của bà vào màn cuối cùng tráng lệ này, rằng bà đã ngân nga, “Gi-ăm bô-ng,” với một niềm tin hình thành khi thấy những cây thông và những hạt đậu đều ra sân khấu đúng thời điểm. Bà chờ vài giây rồi gọi, “Gi-ăm bô-ng?” Khi không có gì xuất hiện, bà gào lên, “Giăm bông!”
Hẳn tôi đã nghe tiếng bà trong giấc ngủ, hoặc ban nhạc chơi bài Dixie đánh thức tôi, nhưng khi bà Merriweather trèo lên trên sân khấu với lá cờ tiểu bang tôi mới quyết định bước ra. Quyết định này quả không đúng lúc khi nghĩ tốt hơn tôi nến bắt kịp những đứa khác.
Sau này họ nói với tôi rằng quan tòa Taylor đi ra phía sau hội trường và đứng đó vỗ đầu gối của ông mạnh đến độ bà Taylor phải mang cho ông một ly nước và một viên thuốc.
Có vẻ như bà Merriweather đã thành công, mọi người khen ngợi như thế, nhưng bà đã chộp lấy tôi ở hậu trường và nói tôi đã làm hỏng cả màn hoạt cảnh của bà. Bà làm tôi cảm thấy khó chịu, nhưng khi Jem đến để dẫn tôi về, anh rất thông cảm. Anh nói từ chỗ ngồi anh không thấy rõ trang phục của tôi. Làm thế nào anh biết tôi cảm thấy khó chịu dưới lớp trang phục thì tôi không biết, nhưng anh nói tôi diễn cũng tốt, tôi chỉ lên trễ có chút xíu, có vậy thôi. Jem đang trở nên tốt gần bằng bố Atticus trong việc làm
bạn cảm thấy dễ chịu khi mọi việc bị trục trặc. Hầu như – Jem không chỉ có thể dẫn tôi đi qua đám đông đó, mà anh còn bằng lòng chờ ở hậu trường với tôi cho đến khi khán giả về hết.
“Em muốn cởi nó ra không, Scout?” Anh hỏi.
“Không, em muốn mặc nguyên vậy,” tôi nói. Tôi có thể giấu nỗi xấu hổ của mình dưới lớp hóa trang đó.
“Mấy đứa có muốn quá giang về nhà không?” Ai đó hỏi.
“Không thưa ông, cám ơn,” tôi nghe Jem nói. “Tụi cháu chỉ phải đi bộ một chút thôi.”
“Coi chừng mà đó,” giọng đó nói. “Tốt hơn nên bảo mấy con ma coi chừng Scout.”
“Người ta về gần hết rồi,” Jem nói với tôi. “Tụi mình đi thôi.”
“Chúng tôi đi qua hội trường ra tiền sảnh, rồi xuống các bậc thềm. Trời vẫn tối thui. Những chiếc xe hơi còn lại đậu bên kia tòa nhà, và đèn pha của chúng chẳng có tác dụng gì. “Nếu có chiếc nào đi theo hướng tụi mình thì tụi mình có thể thấy đường rõ hơn,” Jem nói. “Scout này, để anh giữ bộ trang phục cho. Em có thể mất thăng bằng đó.”
“Em thấy đường mà.”
“Đúng, nhưng em có thể mất thăng bằng.” Tôi cảm thấy một lực đè nhè trên đầu, và cho rằng Jem đã túm lấy đầu của khúc giăm bông. “Anh nắm em hả?”
“Ừ!”
Chúng tôi bắt đầu băng qua sân trường tối thui, căng mắt nhìn xuống bàn chân. “Jem này,” tôi nói, “em quên đôi giày, còn bộ ở đằng sau sân khấu.”
“Trở lại lấy đi,” nhưng khi chúng tôi vòng qua hội trường thì đèn đã tắt. “Để mai lấy
cũng được,” anh nói.
“Nhưng mai là Chủ nhật,” tôi phản đối, khi Jem xoay tôi về nhà.
“Em có thể nhờ chú bảo vệ cho vào mà….. Scout!”
“Hả?”
“Không có gì.”
Anh nín lặng hồi lâu. Tôi tự hỏi anh đang nghĩ gì. Anh sẽ nói cho tôi hay khi nào anh muốn, chắc là khi tụi tôi về tới nhà. Tôi cảm thấy những ngón tay của anh ấn trên đầu trang phục của tôi, có vẻ quá mạnh. Tôi lắc đầu “Jem, anh đâu cần phải….”
“Im một chút coi, Scout,” anh nói, nhéo tôi.
Chúng tôi im lặng đi. “Hết một chút rồi,” tôi nói. “Anh nghĩ gì vậy?” Tôi quay sang nhìn anh, nhưng bóng dáng anh khó mà thấy rõ.
“Hình như anh nghe có cái gì đó,” anh nói. “Dừng lại chút đi.”
Chúng tôi dừng lại.
“Có nghe gì không?” Anh nói.
“Không.”
Chúng tôi đi chưa tới năm bước thì anh bảo dừng lại lần nữa.
“Jem, bộ anh tính nhát em đó hả? Anh biết là em đã quá lớn…..”
“Im nào,” anh nói, và tôi biết anh không đùa.
Đêm im ắng. Tôi có thể nghe rõ hơi thở của anh ngay cạnh tôi. Thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ bất ngờ làm mát đôi chân trần của tôi, nhưng đó là tất cả những gì còn sót
lại của một đêm hứa hẹn đầy gió. Đây là sự yên tĩnh trước một cơn bão. Chúng tôi lắng nghe.
“Chỉ có tiếng con chó già,” tôi nói.
“Không phải nó,” Jem đáp. “Anh chỉ nghe tiếng đó khi mình đi, nhưng khi dừng lại anh không nghe thấy nữa.”
“Anh nghe tiếng trang phục của em kêu sột soạt chứ gì. Ôi, anh nhiễm Halloween rồi….”
Tôi nói vậy để trấn an tôi hơn là Jem, chắc là thế, khi chúng tôi bắt đầu đi tiếp, tôi nghe thấy tiếng động mà anh vừa nói. Nó không phải từ trang phục của tôi.
“Chắc chỉ là thẳng quỷ Cecil,” Jem nói ngay. “Nó không hù được mình nữa đâu. Đừng để nó nghĩ mình đang vội.”
Chúng tôi đi chậm lại gần như bò. Tôi hỏi Jem làm sao Cecil có thể theo chúng tôi trong đêm tối thế này, rình chờ để hù chúng tôi từ sau lưng.
“Anh thấy được em mà, Scout,” Jem nói.
“Sao được? Em đâu thấy anh.”
“Mấy được sọc to của em thấy rõ lắm. Bà Crenshaw đã sơn chúng bằng chất gì đó lấp lánh để chúng nổi bật trên ánh đèn sân khấu. Anh có thể thấy em khá rõ và anh nghĩ rằng Cecil có thể thấy em đủ rõ để không đến quá gần.”
Tôi sẽ cho Cecil thấy rằng chúng tôi biết nó ở sau lưng và đã sẵn sàng với nó. “Cecil là con g-à m-á-i ghẹ mắc mưa!” Bất ngờ tôi quay lại, gào lên.
Chúng tôi dừng lại. Không một lời đáp lại nào trừ tiếng con g-à m-á-i dội lại từ bức tường trường học đằng xa.
“Anh sẽ tóm nó,” Jem kêu. “N-à-y!”
Này-à-này-à-này-à, bức tường trường học vọng lại. Không có vẻ Cecil cố tình trì hoãn lâu như vậy; một khi nó đã thắng đẹp một trò đùa nó sẽ lặp đi lặp lại vụ đó. Chúng tôi hẳn đã bị nó nhảy xổ vào người rồi. Jem ra dấu cho tôi dừng lại lần nữa.
Anh nói thì thào, “Scout, em có thể cởi cái áo đó ra không?”
“Em chắc được, nhưng em không mặc đồ nhiều bên trong.”
“Anh có mang váy cho em đây.”
“Em không mặc được nó ở chỗ tối hù như vậy.”
“Được rồi,” anh nói. “Đừng lo.”
“Jem, anh sợ hả?”
“Không. Chắc mình sắp tới chỗ cái cây rồi. Chừng vài thước nữa thôi, rồi mình sẽ ra tới đường. Lúc đó mình sẽ thấy đèn đường.” Jem nói bằng giọng đều đều, không gấp. Tôi tự hỏi anh sẽ giữ huyền thoại Cecil kéo dài bao lâu.
“Anh nghĩ mình phải hát lên hả, Jem?”
“Không. Im nữa coi, Scout.”
Chúng tôi không tăng tốc độ. Jem cũng như tôi biết rõ rằng khó đi nhanh mà không bị vấp đầu ngón chân, trượt trên đá sỏi, và những phiền phức khác, mà tôi lại còn đi chân không nữa chứ. Có lẽ đó là gió đang lùa trong hàng cây. Nhưng đâu có gió và cũng không có cây cối gì trừ cây sồi cổ thụ đó.
Người đồng hành với chúng tôi kéo lê chân của hắn như thể đang mang đôi giầy nặng. Dù đó là ai thì hắn cũng mặc một quần vải dày, âm thanh mà tôi nghĩ là cây cối xào xạo chính là tiếng sột soạt của vải cọ vào vải, soạt soạt theo mỗi bước chân.
Tôi cảm thấy cát dưới chân tôi trở lạnh và tôi biết chúng tôi gần tới cây sồi già, Jem ấn đầu tôi. Chúng tôi dừng lại và lắng nghe.
Lần này tiếng chân lê không dừng lại theo chúng tôi. Quần y kêu sột soạt nhẹ nhàng và đều đặn. Rồi chúng dừng lại. Y đang chạy, chạy về phía chúng tôi không phải bằng những bước chân trẻ con.
“Chạy đi, Scout! Chạy! Chạy!” Jem gào lên.
Tôi bước một bước dài và thấy mình lảo đảo: hai cánh tay tôi vô dụng, trong bóng tối, tôi không thể giữ thăng bằng.
“Jem, Jem, cứu em, Jem!”
Có cái gì đó chạm mạnh vào lớp lưới thép mỏng bao quanh tôi. Kim loại chọc toạc kim loại và tôi té xuống đất lăn ra xa đến hết sức mình, vật lộn để thoát khỏi nhà tù lưới của tôi. Từ đâu đó gần bên tôi vang lên những âm thanh đá, âm thanh của những đôi giày và da thịt cọ sát vào đất và rễ cây. Ai đó lăn đụng vào tôi và tôi cảm giác đó là Jem. Anh đứng lên nhanh như chớp và lôi tôi theo anh nhưng, dù đầu và vai tôi đã thoát ra, tôi vẫn quá vướng víu nên chúng tôi không đi xa được.
Khi chúng tôi gần đến đường lộ thì tôi có cảm giác tay Jem rời khỏi tôi, cảm thấy anh bị giật ngược ra sau đè xuống đất. Lại có xô xát, và có tiếng lụp cụp trầm đục và tiếng Jem rú lên.
Tôi chạy theo hướng tiếng rú của Jem và ập vào cái bụng mềm nhão của một người đàn ông. Chủ nhân của cái bụng đó kêu lên, “Hự!” và cố nắm hai cánh tay của tôi, nhưng chúng đã bị khóa chặt. Bụng y mềm nhưng hai cánh tay cứng như thép. Y từ từ ép chặt làm tôi ngạt thở. Tôi không nhúc nhích được. Bất ngờ y bị kéo ngược ra sau và bị vật xuống đất, gần như lôi cả tôi theo. Tôi nghĩ, đó là Jem.
Nhiều khi đầu óc con người hoạt động rất chậm. Choáng váng tôi đứng đó đờ đẫn.
Tiếng vật lộn im hẳn, ai đó thở khò khè và đêm yên tĩnh trở lại.
Yên tĩnh trừ tiếng một người đàn ông thở nặng nhọc, thở nặng nhọc và lảo đảo. Tôi nghĩ y đi đến cây sồi và dựa vào đó. Y ho dữ dội, một cơn ho khàn đục, co giật cả người.
“Jem hả?”
Không có tiếng trả lời trừ tiếng thở nặng nhọc của người đó.
“Jem?”
Jem không trả lời.
Người đó bắt đầu di chuyển loanh quanh, như thể đang mò tìm cái gì. Tôi nghe y rên rỉ và kéo cái gì đó nặng lê dưới đất. Từ từ tôi nhận ra rằng hiện có tới bốn người dưới tán cây.
“Bố Atticus hả…?”
Người đàn ông bước nặng nhọc và lảo đảo về phía đường lộ.
Tôi đi đến chỗ tôi nghĩ ông ta đứng và điên cuồng mò mẫm dưới đất, quờ mấy ngón chân tìm. Rồi tôi chạm phải ai đó.
“Jem hả?”
Mấy ngón chân của tôi chạm phải cái quần, khóa thắt lưng, nút, một thứ gì đó mà tôi không xác định được, một cổ áo và một cái mặt. Những sợi râu lởm chởm trên cái mặt đó cho tôi biết không phải là Jem. Tôi ngửi thấy mùi rượu mạnh chua loét.
Tôi đi dọc theo phía mà tôi nghĩ là dẫn ra đường lộ. Tôi không dám chắc, bởi vì tôi bị quay tới quay lui quá nhiều. Nhưng tôi tìm ra nó và nhìn thấy đèn đường. Một người đàn ông đang đi qua dưới ánh đèn. Người đàn ông đang đi bằng những bước lịch bịch của một người đang mang một vật nặng quá sức mình. Ông ta đang quẹo góc đường. Ông ta đang vác Jem. Cánh tay của Jem đung đưa dữ dội trước ngực ông ta.
Đến khi tôi tới góc đường thì người đó đã băng qua sân trước nhà tôi. Đèn từ cửa trước nhà tôi soi rõ bố Atticus trong tích tắc; ông chạy xuống những bậc thềm, và cùng người đó mang Jem vào nhà.
Tôi đến được cửa trước khi họ đi vào hành lang. Bác Alexandra chạy ra đón tôi. “Gọi bác sĩ Reynolds ngay!” Giọng bố Atticus đanh gọn từ phòng Jem. “Scout đâu?”
“Con bé đây,” bác Alexandra đáp, lôi tôi theo bác đến điện thoại. Bác lo lắng kéo mạnh tôi. “Cháu không sao, bác,” tôi nói, “tốt nhất bác nên gọi điện thoại.”
Bác nhấc ống nghe khỏi giá và nói, “Eula May, gọi bác sĩ Reynolds, nhanh lên!”
“Agnes, ba cháu có nhà không? Chúa ơi, ông ấy đâu rồi? Làm ơn báo ông ấy đến đây ngay khi ông ấy về tới. Làm ơn, gấp lắm!”
Bác Alexandra không cần xưng bác là ai; mọi người ở Maycomb đều biết giọng của nhau.
Bố Atticus bước ra khỏi phòng Jem. Ngay khi bác Alexandra nói xong, bố Atticus đón lấy ống nghe từ tay bác. Ông vỗ vỗ giá điện thoại và nói, “Eula May, làm ơn gọi cảnh sát trưởng giùm tôi.”
“Heck hả? Atticus Finch đây. Có người đuổi theo đám con tôi. Jem bị thương. Đoạn từ nhà tôi đến trường. Tôi không bỏ con trai tôi một mình được. Làm ơn chạy ra đó giùm tôi, và xem hắn còn loanh quanh ở đó không. Không chắc anh sẽ tìm ra hắn lúc này, nhưng tôi muốn gặp hắn. Đi ngay đi. Cám ơn Heck!”
“Bố Atticus, Jem chết rồi hả?”
“Không, Scout. Chị chăm sóc con bé giùm,” ông gọi, khi đi ra hành lang.
Những ngón tay của bác run lên khi tháo lớp vải và miếng lưới sắt quanh người tôi.
“Cháu có sao không, cục cưng?” Bác cứ hỏi mãi câu đó khi tháo lớp vải quanh tôi.
Quả là nhẹ nhõm khi được giải thoát. Hai cánh tay tôi bắt đầu tê và chúng đỏ ửng lên với những vết lục giác nhỏ. Tôi chà sát chúng và thấy đỡ hơn.
“Bác này, Jem chết rồi hả?”
“Không… không, cưng, nó chỉ ngất đi thôi. Mình chưa biết nó bị thương cỡ nào cho đến khi bác sĩ Reynolds tới. Jean Louise, chuyện gì xảy ra vậy?”
“Cháu không biết.”
Bác tạm ngưng ở đó. Bác mang cho tôi thứ gì đó để mặc vào, và đến lúc đó tôi nghĩ về nó, tôi hẳn sẽ không bao giờ để bác quên: trong cơn bối rối, bác đã mang cho tôi bộ áo liền quần. “Mặc vào đi, cưng,” bác nói, và đưa cho tôi bộ đồ mà bác ghét nhất.
Bác ào vào phòng Jem, sau đó chạy ra chỗ tôi ngoài hành lang. Bác vỗ nhẹ vào người tôi rồi trở vào phòng Jem.
Một chiếc xe hơi dừng ngay cửa nhà tôi. Tôi nhận tiếng bước chân của bác sĩ Reynolds rõ như tiếng bước chân của bố tôi. Ông đã đỡ đẻ cho tôi và Jem, và đưa chúng tôi vượt qua những bệnh tật hồi nhỏ mà con người thường mắc phải gồm cả lần Jem té từ ngôi nhà trên cây xuống và ông không bao giờ mất đi tình bạn của tụi tôi. Bác sĩ Reynolds nói, nếu chúng tôi thuộc loại dễ bị nổi nhọt thì mọi chuyện sẽ khác, nhưng chúng tôi không tin điều đó.
Ông bước đến cửa và nói, “Chúa ơi.” Ông bước về phía tôi và nói, “cháu vẫn đứng vững được,” và đổi hướng. Ông biết mọi căn phòng trong nhà này. Ông cũng biết ngay tôi có gặp tình trạng tệ hại hay không, và biết cả Jem nữa.
Sau mười phút dài đằng đẵng bác sĩ Reynolds trở ra. “Jem chết rồi hả?” Tôi hỏi.
“Còn lâu lắm,” ông nói, quỳ xuống cạnh tôi. “Cậu ấy bị một cục u trên đầu giống như cục u của cháu vậy, và gãy một cánh tay. Scout, nhìn hướng đó – không, đừng quay đầu, chỉ đảo mắt thôi. Bây giờ nhìn ra đằng kia. Cậu ấy bị gãy tay nặng lắm, giờ bác
chỉ có nói là ngay khuỷu tay. Kiểu như ai đó đã cố ý bỏ tay cậu ấy…. Giờ thì nhìn bác
nè!”
“Vậy anh ấy không chết hả?”
“Khô-ng!” bác sĩ Reynolds đứng lên. “Tối nay mình không làm gì được nhiều,” ông nói, “trừ việc làm cho cậu bé thoải mái hết sức. Mình sẽ phải chụp X quang cánh tay cậu ấy – chắc chắn cậu ấy phải treo cánh tay xa một bên hông trong ít lâu. Dù gì cũng đừng lo, cậu ta sẽ lành lại thôi. Con trai ở tuổi cậu ấy sẽ lành nhanh lắm.”
Trong khi nói, bác sĩ Reynolds nhìn tôi chăm chú, nhẹ nhàng rờ cục u trên trán tôi. “Cháu không thấy có chỗ nào bị sứt mẻ hết hả?”
Trò đùa nho nhỏ của bác sĩ Reynolds làm tôi cười. “Vậy cháu không nghĩ là anh cháu chết chưa hén?”
Ông đội mũ lên. “Bây giờ có thể bác sai, dĩ nhiên, nhưng bác nghĩ cậu ấy còn rất khỏe. Thể hiện được mọi dấu hiệu của sự sống. Vào thăm anh cháu đi, và khi bác quay lại mình gặp nhau rồi quyết định.”
Bước chân của bác sĩ Reynolds trẻ trung và nhanh nhẹn. Bước chân của ông Heck Tate thì không. Đôi ủng nặng nề của ông hành hạ hàng hiên và ông mở cửa một cách vụng về, nhưng ông nói y câu của bác sĩ Reynolds kh bước vào. Rồi ông thêm, “Cháu ổn chứ, Scout!”
“Ổn, thưa ông, cháu sẽ vào thăm Jem. Bố Atticus với mọi người đang ở trong đó.”
“Ta sẽ đi với cháu.” Ông Tate nói.
Bác Alexandra đã che đèn đọc sách của Jem bằng một cái khăn và phòng anh mờ mờ, Jem đang nằm ngửa. Có một vết xấu xí chạy dọc một bên mặt anh. Cánh tay trái của anh dang xa khỏi thân người; khuỷu tay hơi cong lại, nhưng theo một hướng kỳ cục. Jem đang nhíu mày.
“Jem…?”
Bố Atticus nói. “Anh con không nghe tiếng con đâu, Scout, anh bị ngất. Anh sắp tỉnh lại, nhưng bác sĩ Reynolds làm anh mê trở lại.”
“Vâng, thưa bố,” tôi rút lui. Phòng của Jem to và vuông. Bác Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế đu cạnh lò sưởi. Người đàn ông cõng Jem đứng trong một góc, tựa lưng vào tường. Ông ta là một nông dân nông thôn nào đó tôi không biết, có lẽ ông ta có mặt tại buổi hoạt cảnh, và ở gần đâu đó khi sự việc xảy ra. Hẳn ông ta đã nghe tiếng rú của chúng tôi và chạy đến.
Bố Atticus đứng cạnh giường của Jem.
Ông Heck Tate đứng ngay khung cửa. Mũ ông trên tay, và chiếc đèn pin cộm lên trong túi quần. Ông đang mặc cảnh phục.
“Vào đây, Heck,” bố Atticus nói. “Anh có tìm thấy gì không? Tôi không nghĩ ra ai lại hèn mạt đến độ làm một chuyện như vầy, nhưng tôi hy vọng anh tìm ra hắn.”
Ông Tate khịt mũi. Ông nhìn sắc lẻm vào người đàn ông trong góc phòng, gật đầu với ông ta, rồi nhìn quanh phòng… vào Jem, vào bác Alexandra và vào bố Atticus.
“Ngồi xuống đi, ông Finch,” ông nói một cách thoải mái.
Bố Atticus nói, “Mình ngồi cả đi. Có cái ghế đó, Heck. Để tôi ra phòng khách lấy một cái nữa.”
Ông Heck ngồi xuống chiếc ghế ngay bàn của Jem. Ông chờ cho tới khi bố Atticus trở vào và ngồi xuống. Tôi tự hỏi sao bố Atticus không mang một cái ghế nữa cho người đàn ông trong góc, nhưng bố Atticus hiểu rõ cung cách của dân nông thôn hơn tôi nhiều. Một số thân chủ nông thôn của ông sẽ cột mấy con lừa tai dài của họ bên mấy cây đào ở sân sau, và bố Atticus vẫn thường trao đổi với họ ở ngay bậc thềm sau nhà. Người đàn ông này chắc chắn thoải mái hơn khi đứng ở đó.
“Ông Finch,” ông Tate nói, “để cho tôi cho ông biết tôi đã tìm thấy gì. Tôi tìm thấy một cái váy của bé gái – nó ở ngoài xe tôi. Cái váy đó của cháu hả, Scout?”
“Phải, thưa ông, nếu đó là váy hồng có xếp nhiều nếp nhún,” tôi nó. Ông Tate cư xử như đang ở trên bục nhân chứng. Ông thích kể mọi chuyện theo cách của riêng ông, không bị bên công tố hay luật sư cản trở, và đôi khi việc đó làm ông tốn thời gian.
“Tôi tìm thấy mấy miếng vải lấm bùn trông kỳ cục và………….”
“Đó là đồ hóa trang của cháu, ông Tate.”
Ông Tate lần tay xuống đùi. Ông chà xát cánh tay phải và nghiên cứu bệ lò sưởi của Jem, rồi có vẻ ông quan tâm đến lò sưởi. Nhưng ngón tay của ông sờ lên sống mũi dài của ông.
“Có gì nữa vậy hả, Hate?” Bố Atticus hỏi.
Ông Tate mò xuống cổ và chà xát nó. “Bob Ewell nằm dưới đất dưới tán cây đằng đó với một con dao làm bếp cắm sâu vào sườn. Hắn chết rồi, ông Finch ạ.”
Thời tiết ấm khác thường đối với ngày cuối cùng của tháng Mười. Thậm chí chúng tôi không cần áo khoác. Gió thổi mạnh hơn, và Jem nói trời sẽ mưa trước khi chúng tôi về đến nhà. Không có trăng.
Đèn đường ngay góc hắt những chiếc bóng sắc nét lên nhà Radley. Tôi nghe Jem cười nhẹ. “Cá là không có ai quấy rầy họ tối nay,” anh nói. Jem đang cầm bộ đồ giăm bông của tôi, hơi lóng ngóng vì nó khó ôm theo. Tôi nghĩ anh làm thế thì quả là lịch sự với nữ giới.
“Dù sao thì đó cũng là một nơi đáng sợ, đúng không?” Tôi nói. “Boo không có ý làm hại bất kỳ ai, nhưng em rất vui khi có anh đi chung.”
“Em biết bố Atticus không để em đến trường một mình mà,” Jem nói.
“Không hiểu sao bố nghĩ vậy, chỉ quẹo một ngã tư rồi băng qua một cái sân.”
“Cái sân đó dài quá mức mấy cô bé băng qua vào ban đêm,” Jem chọc tôi. “Em không sợ ma hả?”
Tụi tôi cười lớn. Ma, hồn nóng, những câu thần chú, những dấu hiệu mật, đã biến mất với năm tháng như sương mù dưới mặt trời. “Câu hồi xưa đó là gì nhỉ,” Jem nói, “Thiên thần sáng láng, sống chết lộn nhau, rời khỏi đường này, đừng hút hơi tao.”
“Thôi đi,” tôi nói. Chúng tôi đang ở trước nhà Radley.
Jem nói, “Chắc Boo không có ở nhà. Nghe kìa.”
Trên đầu chúng tôi trong bóng tối có một con chim nhại lẻ loi đang trút ra toàn bộ tuyệt kỹ nhái giọng của nó trong niềm vui sướng chẳng cần biết chủ của cái cây nó đang đậu là ai, nó đã chuyển từ tiếng kii kii chói tai của chim hướng dương đến tiếng qua-ack giận dữ của con giẻ cái, đến lời than vãn buồn bã của chim đớp mồi.
Chúng tôi quẹo góc phố và tôi vấp phải một rễ cây nhô lên trên đường, Jem cố giúp tôi, nhưng tất cả những gì anh làm là đánh rơi trang phục của tôi xuống đất. Dù sao thì tôi cũng không bị ngã và chúng tôi đi tiếp.
Chúng tôi rời khỏi đường chính và bước vào sân trường. Nó tối thui.
“Làm sao anh biết mình đang ở đâu, Jem?” Tôi hỏi, khi chúng tôi đã đi vài bước.
“Anh dám chắc mình đang ở dưới tán cây sồi to vì mình vừa đi qua một nơi mát lạnh. Bây giờ cẩn thận đó, coi chừng ngã nữa đấy.”
Chúng tôi thận trọng đi chậm lại, và dò đường phía trước để không đụng vào gốc cây. Đó là cây sồi cổ thụ đơn lẻ; hai đứa bé không thể ôm hết vòng thân cây. Nó cách xa các giáo viên, các do thám của họ, và những láng giềng tò mò: nó gần khu đất nhà Radley, nhưng người nhà Radley không tò mò. Một khoảng đất nhỏ dưới tán cây là nơi diễn ra nhiều trận đánh lộn và những trò chơi nhảm nhí thẩm lén.
Những ngọn đèn ở hội trường của trường trung học sáng rực từ xa, nhưng chúng chỉ tổ làm chúng tôi chói mắt. “Đừng nhìn đằng trước, Scout,” Jem nói. “Nhìn xuống đất không là ngã đó.”
“Đúng ra anh nên mang theo đèn pin, Jem.”
“Ai mà biết trước tối như vậy. Hồi nãy trời đâu có tối dữ vậy. Tại mày đó. Dù sao thì chút nữa sẽ hết.”
Ai đó nhảy xô vào chúng tôi.
“Chúa ơi!” Jem hét lên.
Một vòng ánh sáng bùng chiếu vào mặt chúng tôi, và Cecil Jacobs nhảy cẫng khoái chí sau luồng sáng. “Ha-a-a ngay chóc!” Nó hét lên. “Tao đã đoán tụi bay đi theo đường này mà!”
“Mày làm gì ở ngoài này vậy, nhóc? Mày không sợ Boo Radley hả?”
Cecil đã ngồi trên xe an toàn với ba mẹ nó tới hội trường, không thấy tụi tôi, nó mò mẫm tới tận đây vì nó biết rõ tụi tôi đi theo lối này. Nhưng nó cứ nghĩ bố Finch sẽ đi với tụi tôi.
“Có xa lắm đâu, chỉ quẹo cua này thôi mà,” Jem nói. “Ai mà sợ đi qua vòng cua này?” Dù sao chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng Cecil giỏi. Nó đã làm chúng tôi một phen hoảng hồn, và nó có thể kháo chuyện này khắp trường, đó là đặc quyền của nó.
“Ê,” tôi nói, “tối nay mày không làm bò hả? Trang phục của mày đâu?”
“Để đằng sau sân khấu cơ,” nó nói. “Bà Merriweather nói chưa tới hoạt cảnh này đâu. Mày cứ để bộ đồ này phía sau sân khấu kế bộ đồ của tao, Scout, rồi tụi mình với mấy đứa kia.”
Đó là một ý tưởng tuyệt hay, Jem nghĩ. Anh cũng nghĩ thật hay khi tôi đi chơi với Cecil. Như vậy, anh sẽ được rảnh rang đi chơi cùng bạn bè cùng trang lứa của anh.
Khi bọn tôi tới hội trường, cả thị trấn đã có mặt ở đó trừ bố Atticus và các bà mệt lử vì trang trí, và những kẻ vô gia cư và những người thường ru rú ở trong nhà. Có vẻ như cả hạt đều ở đó: hành lang đầy dân trong hạt ăn mặc chải chuốt. Trường trung học có một tiền sảnh tầng trệt rộng lớn. Người ta chen chúc quanh các quầy được lắp đặt dọc hai bên.
“Ôi, Jem. Em quên mang tiền rồi,” tôi thở dài khi tôi thấy khu này.
“Bố Atticus không quên,” Jem nói. “Ba mươi xu nè, em có thể chơi ở sáu quầy. Gặp lại sau nghen.”
“Rồi,” tôi nói, hoàn toàn hài lòng với ba mươi xu và Cecil. Tôi đi với Cecil tới phía hội trường, qua một cánh cửa bên hông và vào hậu trường. Tôi để bộ trang phục giăm bông tại đó và vọt lẹ, vì bà Merriweather đang đứng ngay bục phát biểu ngay hàng
ghế đầu để sửa kịch bản lần cuối.
“Mày có bao nhiêu,” tôi hỏi Cecil. Cecil cũng có ba mươi xu, vậy là chúng tôi bằng nhau. Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh hoàng, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào, tụi tôi bước vào phòng lớp bảy đen thui và được dẫn đi loanh quanh bởi một con ma cà rồng tạm thời trong đó và được hướng dẫn rờ vào những món được cho là bộ phận cấu thành con người. “Đây là đôi mắt,” chúng tôi được nói cho biết khi chạm vào hai quả nho bóc vỏ để trên một cái đĩa. “Đây là trái tim,” vốn tạo cảm giác giống lá gan khi còn sống. “Những thứ này là bao tử và ruột,” và tay chúng tôi được nhét vào một đĩa mì sợi lạnh ngắt.
Cecil và tôi ghé qua vài quầy nữa. Bọn tôi mỗi đứa mua một gói kẹo tự làm của bà quan tòa Taylor. Tôi muốn chơi trò dùng răng cắn những quả táo trôi bập bềnh trong chậu, nhưng Cecil nói làm thế mất vệ sinh lắm. Mẹ nó nói nó có thể lấy một thứ gì đó từ đầu của người khác chui vào trong cùng một cái chậu. “Bây giờ trong thị trấn này không có thứ gì để bị lây đâu,” tôi phản đối. Nhưng Cecil nói mẹ nó bảo không hợp vệ sinh khi ăn sau người khác. Sau đó tôi hỏi bác Alexandra về chuyện này, và bác nói những người còn những quan điểm như thế thường là những kẻ bon chen trong xã hội.
Chúng tôi định mua một miếng kẹo bơ thì những tay đưa tin của bà Merriweather xuất hiện bảo chúng tôi đến hậu trường, đến lúc phải chuẩn bị rồi. Hội trường đang dần đầy nhóc người. Ban nhạc Trường trung học Maycomb đã tập hợp bên dưới ngay trước sân khấu; đèn rọi sân khấu đã bật lên và tấm màn nhung đỏ nhấp nhô do có người đi lại nhộn nhạo đằng sau đó.
Ở hậu trường, Cecil và tôi thấy lối đi hẹp đầy nhóc người; người lớn đội những cái mũ ba góc tự chế, mũ lưỡi trai của quân miền Nam, mũ thời Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, và mũ sắt thời Thế chiến. Trẻ em ăn mặc như những công nhân nông nghiệp khác nhau tụ tập quanh một ô cửa nhỏ.
“Ai giẫm nát trang phục của tao rồi,” tôi rên rỉ trong đau khổ. Bà Merriweather phóng
về phía tôi, sửa lại tấm lưới áo và đẩy tôi chui vào trong.
“Mày trong đó êm không, Scout?” Cecil hỏi. “Nghe tiếng mày xa lắc, cứ như ở tuốt bên kia đồi vậy.”
“Tiếng mày nghe đâu có gần hơn chút nào đâu,” tôi nói.
Ban nhạc đang chơi quốc ca, và chúng tôi nghe khán giả đứng lên. Rồi tiếng trống vang lên. Bà Merriweather, đứng đằng sau bục cạnh ban nhạc, xướng lên, “Maycomb Country. Ad Astra Aspera.” Tiếng trống trầm vang lên lần nữa. “Điều đó có nghĩa là,” bà Merriweather nói, dịch cho đám cư dân nông thôn hiểu, “từ bùn lầy lên những ngôi sao.” Bà thêm, theo tôi là không cần thiết, “Một màn hoạt cảnh.”
“Làm cứ như họ không hiểu nổi nó là cái gì nếu như bà ta không nói cho họ biết vậy,” Cecil thì thào, lập tức bị nhắc giữ im lặng.
“Cả thị trấn này đều biết rồi,” tôi nói nhỏ.
“Những dân nông thôn cũng tới,” Cecil nói.
“Im hết coi,” một giọng ra lệnh, và chúng tôi im lặng.
Trống trầm đánh lên theo mỗi câu bà Merriweather thốt ra. Bà nói lê thê về hạt Maycomb còn lâu đời hơn tiểu bang, rằng nó là một phần lãnh thổ của Mississippi và Alabama, rằng người da trắng đầu tiên đặt chân lên khu rừng nguyên sinh là cụ tổ năm đời của Quan tòa di chúc, người không bao giờ được nghe nhắc lại. Sau đó là đại tá Maycomb dũng cảm, người được lấy tên để đặt cho hạt này.
Andrew Jackson đã bổ nhiệm ông vào vị trí cầm quyền và sự tự tin không đúng chỗ và có ý thức định hướng kém cỏi của đại tá Maycomb đã mang đến tai họa cho tất cả những người chiến đấu cùng ông trong những cuộc chiến tranh với người Da đỏ Creck. Đại tá đã nỗ lực kiên trì biến khu vực này trở thành vùng an toàn cho một nền dân chủ, nhưng chiến dịch đầu tiên của ông cũng là chiến dịch cuối cùng. Những
mệnh lệnh của ông được truyền tới qua một phái viên Da đỏ thân thiện và tiến về phía Nam. Sau khi nghiên cứu địa y của một thân cây để xác định hướng nào là hướng Nam, và bỏ ngoài tai lời khuyên của những thuộc cấp vốn đã mạo muội sửa sai ông, đại tá Maycomb thực hiện một chuyến hành trình cương quyết nhằm đánh tan kẻ thù và khiến binh lính của ông đi lạc về hướng Tây Bắc trong rừng nguyên sinh đến độ cuối cùng được những người khẩn hoang giải cứu khi họ đi sâu vào nội địa.
Bà Merriweather kể lể khoảng ba mươi phút về những chiến công của đại tá Maycomb. Tôi phát hiện ra rằng nếu quỳ xuống tôi có thể nhét đầu gối vào trong trang phục của mình và sau cùng ngồi xuống được. Tôi ngồi xuống lắng nghe bài nói chuyện của bà Merriweather và tiếng trống trầm vỗ rồi ngủ hồi nào không hay.
Sau này họ nói rằng bà Merriweather đã dành hết tâm trí của bà vào màn cuối cùng tráng lệ này, rằng bà đã ngân nga, “Gi-ăm bô-ng,” với một niềm tin hình thành khi thấy những cây thông và những hạt đậu đều ra sân khấu đúng thời điểm. Bà chờ vài giây rồi gọi, “Gi-ăm bô-ng?” Khi không có gì xuất hiện, bà gào lên, “Giăm bông!”
Hẳn tôi đã nghe tiếng bà trong giấc ngủ, hoặc ban nhạc chơi bài Dixie đánh thức tôi, nhưng khi bà Merriweather trèo lên trên sân khấu với lá cờ tiểu bang tôi mới quyết định bước ra. Quyết định này quả không đúng lúc khi nghĩ tốt hơn tôi nến bắt kịp những đứa khác.
Sau này họ nói với tôi rằng quan tòa Taylor đi ra phía sau hội trường và đứng đó vỗ đầu gối của ông mạnh đến độ bà Taylor phải mang cho ông một ly nước và một viên thuốc.
Có vẻ như bà Merriweather đã thành công, mọi người khen ngợi như thế, nhưng bà đã chộp lấy tôi ở hậu trường và nói tôi đã làm hỏng cả màn hoạt cảnh của bà. Bà làm tôi cảm thấy khó chịu, nhưng khi Jem đến để dẫn tôi về, anh rất thông cảm. Anh nói từ chỗ ngồi anh không thấy rõ trang phục của tôi. Làm thế nào anh biết tôi cảm thấy khó chịu dưới lớp trang phục thì tôi không biết, nhưng anh nói tôi diễn cũng tốt, tôi chỉ lên trễ có chút xíu, có vậy thôi. Jem đang trở nên tốt gần bằng bố Atticus trong việc làm
bạn cảm thấy dễ chịu khi mọi việc bị trục trặc. Hầu như – Jem không chỉ có thể dẫn tôi đi qua đám đông đó, mà anh còn bằng lòng chờ ở hậu trường với tôi cho đến khi khán giả về hết.
“Em muốn cởi nó ra không, Scout?” Anh hỏi.
“Không, em muốn mặc nguyên vậy,” tôi nói. Tôi có thể giấu nỗi xấu hổ của mình dưới lớp hóa trang đó.
“Mấy đứa có muốn quá giang về nhà không?” Ai đó hỏi.
“Không thưa ông, cám ơn,” tôi nghe Jem nói. “Tụi cháu chỉ phải đi bộ một chút thôi.”
“Coi chừng mà đó,” giọng đó nói. “Tốt hơn nên bảo mấy con ma coi chừng Scout.”
“Người ta về gần hết rồi,” Jem nói với tôi. “Tụi mình đi thôi.”
“Chúng tôi đi qua hội trường ra tiền sảnh, rồi xuống các bậc thềm. Trời vẫn tối thui. Những chiếc xe hơi còn lại đậu bên kia tòa nhà, và đèn pha của chúng chẳng có tác dụng gì. “Nếu có chiếc nào đi theo hướng tụi mình thì tụi mình có thể thấy đường rõ hơn,” Jem nói. “Scout này, để anh giữ bộ trang phục cho. Em có thể mất thăng bằng đó.”
“Em thấy đường mà.”
“Đúng, nhưng em có thể mất thăng bằng.” Tôi cảm thấy một lực đè nhè trên đầu, và cho rằng Jem đã túm lấy đầu của khúc giăm bông. “Anh nắm em hả?”
“Ừ!”
Chúng tôi bắt đầu băng qua sân trường tối thui, căng mắt nhìn xuống bàn chân. “Jem này,” tôi nói, “em quên đôi giày, còn bộ ở đằng sau sân khấu.”
“Trở lại lấy đi,” nhưng khi chúng tôi vòng qua hội trường thì đèn đã tắt. “Để mai lấy
cũng được,” anh nói.
“Nhưng mai là Chủ nhật,” tôi phản đối, khi Jem xoay tôi về nhà.
“Em có thể nhờ chú bảo vệ cho vào mà….. Scout!”
“Hả?”
“Không có gì.”
Anh nín lặng hồi lâu. Tôi tự hỏi anh đang nghĩ gì. Anh sẽ nói cho tôi hay khi nào anh muốn, chắc là khi tụi tôi về tới nhà. Tôi cảm thấy những ngón tay của anh ấn trên đầu trang phục của tôi, có vẻ quá mạnh. Tôi lắc đầu “Jem, anh đâu cần phải….”
“Im một chút coi, Scout,” anh nói, nhéo tôi.
Chúng tôi im lặng đi. “Hết một chút rồi,” tôi nói. “Anh nghĩ gì vậy?” Tôi quay sang nhìn anh, nhưng bóng dáng anh khó mà thấy rõ.
“Hình như anh nghe có cái gì đó,” anh nói. “Dừng lại chút đi.”
Chúng tôi dừng lại.
“Có nghe gì không?” Anh nói.
“Không.”
Chúng tôi đi chưa tới năm bước thì anh bảo dừng lại lần nữa.
“Jem, bộ anh tính nhát em đó hả? Anh biết là em đã quá lớn…..”
“Im nào,” anh nói, và tôi biết anh không đùa.
Đêm im ắng. Tôi có thể nghe rõ hơi thở của anh ngay cạnh tôi. Thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ bất ngờ làm mát đôi chân trần của tôi, nhưng đó là tất cả những gì còn sót
lại của một đêm hứa hẹn đầy gió. Đây là sự yên tĩnh trước một cơn bão. Chúng tôi lắng nghe.
“Chỉ có tiếng con chó già,” tôi nói.
“Không phải nó,” Jem đáp. “Anh chỉ nghe tiếng đó khi mình đi, nhưng khi dừng lại anh không nghe thấy nữa.”
“Anh nghe tiếng trang phục của em kêu sột soạt chứ gì. Ôi, anh nhiễm Halloween rồi….”
Tôi nói vậy để trấn an tôi hơn là Jem, chắc là thế, khi chúng tôi bắt đầu đi tiếp, tôi nghe thấy tiếng động mà anh vừa nói. Nó không phải từ trang phục của tôi.
“Chắc chỉ là thẳng quỷ Cecil,” Jem nói ngay. “Nó không hù được mình nữa đâu. Đừng để nó nghĩ mình đang vội.”
Chúng tôi đi chậm lại gần như bò. Tôi hỏi Jem làm sao Cecil có thể theo chúng tôi trong đêm tối thế này, rình chờ để hù chúng tôi từ sau lưng.
“Anh thấy được em mà, Scout,” Jem nói.
“Sao được? Em đâu thấy anh.”
“Mấy được sọc to của em thấy rõ lắm. Bà Crenshaw đã sơn chúng bằng chất gì đó lấp lánh để chúng nổi bật trên ánh đèn sân khấu. Anh có thể thấy em khá rõ và anh nghĩ rằng Cecil có thể thấy em đủ rõ để không đến quá gần.”
Tôi sẽ cho Cecil thấy rằng chúng tôi biết nó ở sau lưng và đã sẵn sàng với nó. “Cecil là con g-à m-á-i ghẹ mắc mưa!” Bất ngờ tôi quay lại, gào lên.
Chúng tôi dừng lại. Không một lời đáp lại nào trừ tiếng con g-à m-á-i dội lại từ bức tường trường học đằng xa.
“Anh sẽ tóm nó,” Jem kêu. “N-à-y!”
Này-à-này-à-này-à, bức tường trường học vọng lại. Không có vẻ Cecil cố tình trì hoãn lâu như vậy; một khi nó đã thắng đẹp một trò đùa nó sẽ lặp đi lặp lại vụ đó. Chúng tôi hẳn đã bị nó nhảy xổ vào người rồi. Jem ra dấu cho tôi dừng lại lần nữa.
Anh nói thì thào, “Scout, em có thể cởi cái áo đó ra không?”
“Em chắc được, nhưng em không mặc đồ nhiều bên trong.”
“Anh có mang váy cho em đây.”
“Em không mặc được nó ở chỗ tối hù như vậy.”
“Được rồi,” anh nói. “Đừng lo.”
“Jem, anh sợ hả?”
“Không. Chắc mình sắp tới chỗ cái cây rồi. Chừng vài thước nữa thôi, rồi mình sẽ ra tới đường. Lúc đó mình sẽ thấy đèn đường.” Jem nói bằng giọng đều đều, không gấp. Tôi tự hỏi anh sẽ giữ huyền thoại Cecil kéo dài bao lâu.
“Anh nghĩ mình phải hát lên hả, Jem?”
“Không. Im nữa coi, Scout.”
Chúng tôi không tăng tốc độ. Jem cũng như tôi biết rõ rằng khó đi nhanh mà không bị vấp đầu ngón chân, trượt trên đá sỏi, và những phiền phức khác, mà tôi lại còn đi chân không nữa chứ. Có lẽ đó là gió đang lùa trong hàng cây. Nhưng đâu có gió và cũng không có cây cối gì trừ cây sồi cổ thụ đó.
Người đồng hành với chúng tôi kéo lê chân của hắn như thể đang mang đôi giầy nặng. Dù đó là ai thì hắn cũng mặc một quần vải dày, âm thanh mà tôi nghĩ là cây cối xào xạo chính là tiếng sột soạt của vải cọ vào vải, soạt soạt theo mỗi bước chân.
Tôi cảm thấy cát dưới chân tôi trở lạnh và tôi biết chúng tôi gần tới cây sồi già, Jem ấn đầu tôi. Chúng tôi dừng lại và lắng nghe.
Lần này tiếng chân lê không dừng lại theo chúng tôi. Quần y kêu sột soạt nhẹ nhàng và đều đặn. Rồi chúng dừng lại. Y đang chạy, chạy về phía chúng tôi không phải bằng những bước chân trẻ con.
“Chạy đi, Scout! Chạy! Chạy!” Jem gào lên.
Tôi bước một bước dài và thấy mình lảo đảo: hai cánh tay tôi vô dụng, trong bóng tối, tôi không thể giữ thăng bằng.
“Jem, Jem, cứu em, Jem!”
Có cái gì đó chạm mạnh vào lớp lưới thép mỏng bao quanh tôi. Kim loại chọc toạc kim loại và tôi té xuống đất lăn ra xa đến hết sức mình, vật lộn để thoát khỏi nhà tù lưới của tôi. Từ đâu đó gần bên tôi vang lên những âm thanh đá, âm thanh của những đôi giày và da thịt cọ sát vào đất và rễ cây. Ai đó lăn đụng vào tôi và tôi cảm giác đó là Jem. Anh đứng lên nhanh như chớp và lôi tôi theo anh nhưng, dù đầu và vai tôi đã thoát ra, tôi vẫn quá vướng víu nên chúng tôi không đi xa được.
Khi chúng tôi gần đến đường lộ thì tôi có cảm giác tay Jem rời khỏi tôi, cảm thấy anh bị giật ngược ra sau đè xuống đất. Lại có xô xát, và có tiếng lụp cụp trầm đục và tiếng Jem rú lên.
Tôi chạy theo hướng tiếng rú của Jem và ập vào cái bụng mềm nhão của một người đàn ông. Chủ nhân của cái bụng đó kêu lên, “Hự!” và cố nắm hai cánh tay của tôi, nhưng chúng đã bị khóa chặt. Bụng y mềm nhưng hai cánh tay cứng như thép. Y từ từ ép chặt làm tôi ngạt thở. Tôi không nhúc nhích được. Bất ngờ y bị kéo ngược ra sau và bị vật xuống đất, gần như lôi cả tôi theo. Tôi nghĩ, đó là Jem.
Nhiều khi đầu óc con người hoạt động rất chậm. Choáng váng tôi đứng đó đờ đẫn.
Tiếng vật lộn im hẳn, ai đó thở khò khè và đêm yên tĩnh trở lại.
Yên tĩnh trừ tiếng một người đàn ông thở nặng nhọc, thở nặng nhọc và lảo đảo. Tôi nghĩ y đi đến cây sồi và dựa vào đó. Y ho dữ dội, một cơn ho khàn đục, co giật cả người.
“Jem hả?”
Không có tiếng trả lời trừ tiếng thở nặng nhọc của người đó.
“Jem?”
Jem không trả lời.
Người đó bắt đầu di chuyển loanh quanh, như thể đang mò tìm cái gì. Tôi nghe y rên rỉ và kéo cái gì đó nặng lê dưới đất. Từ từ tôi nhận ra rằng hiện có tới bốn người dưới tán cây.
“Bố Atticus hả…?”
Người đàn ông bước nặng nhọc và lảo đảo về phía đường lộ.
Tôi đi đến chỗ tôi nghĩ ông ta đứng và điên cuồng mò mẫm dưới đất, quờ mấy ngón chân tìm. Rồi tôi chạm phải ai đó.
“Jem hả?”
Mấy ngón chân của tôi chạm phải cái quần, khóa thắt lưng, nút, một thứ gì đó mà tôi không xác định được, một cổ áo và một cái mặt. Những sợi râu lởm chởm trên cái mặt đó cho tôi biết không phải là Jem. Tôi ngửi thấy mùi rượu mạnh chua loét.
Tôi đi dọc theo phía mà tôi nghĩ là dẫn ra đường lộ. Tôi không dám chắc, bởi vì tôi bị quay tới quay lui quá nhiều. Nhưng tôi tìm ra nó và nhìn thấy đèn đường. Một người đàn ông đang đi qua dưới ánh đèn. Người đàn ông đang đi bằng những bước lịch bịch của một người đang mang một vật nặng quá sức mình. Ông ta đang quẹo góc đường. Ông ta đang vác Jem. Cánh tay của Jem đung đưa dữ dội trước ngực ông ta.
Đến khi tôi tới góc đường thì người đó đã băng qua sân trước nhà tôi. Đèn từ cửa trước nhà tôi soi rõ bố Atticus trong tích tắc; ông chạy xuống những bậc thềm, và cùng người đó mang Jem vào nhà.
Tôi đến được cửa trước khi họ đi vào hành lang. Bác Alexandra chạy ra đón tôi. “Gọi bác sĩ Reynolds ngay!” Giọng bố Atticus đanh gọn từ phòng Jem. “Scout đâu?”
“Con bé đây,” bác Alexandra đáp, lôi tôi theo bác đến điện thoại. Bác lo lắng kéo mạnh tôi. “Cháu không sao, bác,” tôi nói, “tốt nhất bác nên gọi điện thoại.”
Bác nhấc ống nghe khỏi giá và nói, “Eula May, gọi bác sĩ Reynolds, nhanh lên!”
“Agnes, ba cháu có nhà không? Chúa ơi, ông ấy đâu rồi? Làm ơn báo ông ấy đến đây ngay khi ông ấy về tới. Làm ơn, gấp lắm!”
Bác Alexandra không cần xưng bác là ai; mọi người ở Maycomb đều biết giọng của nhau.
Bố Atticus bước ra khỏi phòng Jem. Ngay khi bác Alexandra nói xong, bố Atticus đón lấy ống nghe từ tay bác. Ông vỗ vỗ giá điện thoại và nói, “Eula May, làm ơn gọi cảnh sát trưởng giùm tôi.”
“Heck hả? Atticus Finch đây. Có người đuổi theo đám con tôi. Jem bị thương. Đoạn từ nhà tôi đến trường. Tôi không bỏ con trai tôi một mình được. Làm ơn chạy ra đó giùm tôi, và xem hắn còn loanh quanh ở đó không. Không chắc anh sẽ tìm ra hắn lúc này, nhưng tôi muốn gặp hắn. Đi ngay đi. Cám ơn Heck!”
“Bố Atticus, Jem chết rồi hả?”
“Không, Scout. Chị chăm sóc con bé giùm,” ông gọi, khi đi ra hành lang.
Những ngón tay của bác run lên khi tháo lớp vải và miếng lưới sắt quanh người tôi.
“Cháu có sao không, cục cưng?” Bác cứ hỏi mãi câu đó khi tháo lớp vải quanh tôi.
Quả là nhẹ nhõm khi được giải thoát. Hai cánh tay tôi bắt đầu tê và chúng đỏ ửng lên với những vết lục giác nhỏ. Tôi chà sát chúng và thấy đỡ hơn.
“Bác này, Jem chết rồi hả?”
“Không… không, cưng, nó chỉ ngất đi thôi. Mình chưa biết nó bị thương cỡ nào cho đến khi bác sĩ Reynolds tới. Jean Louise, chuyện gì xảy ra vậy?”
“Cháu không biết.”
Bác tạm ngưng ở đó. Bác mang cho tôi thứ gì đó để mặc vào, và đến lúc đó tôi nghĩ về nó, tôi hẳn sẽ không bao giờ để bác quên: trong cơn bối rối, bác đã mang cho tôi bộ áo liền quần. “Mặc vào đi, cưng,” bác nói, và đưa cho tôi bộ đồ mà bác ghét nhất.
Bác ào vào phòng Jem, sau đó chạy ra chỗ tôi ngoài hành lang. Bác vỗ nhẹ vào người tôi rồi trở vào phòng Jem.
Một chiếc xe hơi dừng ngay cửa nhà tôi. Tôi nhận tiếng bước chân của bác sĩ Reynolds rõ như tiếng bước chân của bố tôi. Ông đã đỡ đẻ cho tôi và Jem, và đưa chúng tôi vượt qua những bệnh tật hồi nhỏ mà con người thường mắc phải gồm cả lần Jem té từ ngôi nhà trên cây xuống và ông không bao giờ mất đi tình bạn của tụi tôi. Bác sĩ Reynolds nói, nếu chúng tôi thuộc loại dễ bị nổi nhọt thì mọi chuyện sẽ khác, nhưng chúng tôi không tin điều đó.
Ông bước đến cửa và nói, “Chúa ơi.” Ông bước về phía tôi và nói, “cháu vẫn đứng vững được,” và đổi hướng. Ông biết mọi căn phòng trong nhà này. Ông cũng biết ngay tôi có gặp tình trạng tệ hại hay không, và biết cả Jem nữa.
Sau mười phút dài đằng đẵng bác sĩ Reynolds trở ra. “Jem chết rồi hả?” Tôi hỏi.
“Còn lâu lắm,” ông nói, quỳ xuống cạnh tôi. “Cậu ấy bị một cục u trên đầu giống như cục u của cháu vậy, và gãy một cánh tay. Scout, nhìn hướng đó – không, đừng quay đầu, chỉ đảo mắt thôi. Bây giờ nhìn ra đằng kia. Cậu ấy bị gãy tay nặng lắm, giờ bác
chỉ có nói là ngay khuỷu tay. Kiểu như ai đó đã cố ý bỏ tay cậu ấy…. Giờ thì nhìn bác
nè!”
“Vậy anh ấy không chết hả?”
“Khô-ng!” bác sĩ Reynolds đứng lên. “Tối nay mình không làm gì được nhiều,” ông nói, “trừ việc làm cho cậu bé thoải mái hết sức. Mình sẽ phải chụp X quang cánh tay cậu ấy – chắc chắn cậu ấy phải treo cánh tay xa một bên hông trong ít lâu. Dù gì cũng đừng lo, cậu ta sẽ lành lại thôi. Con trai ở tuổi cậu ấy sẽ lành nhanh lắm.”
Trong khi nói, bác sĩ Reynolds nhìn tôi chăm chú, nhẹ nhàng rờ cục u trên trán tôi. “Cháu không thấy có chỗ nào bị sứt mẻ hết hả?”
Trò đùa nho nhỏ của bác sĩ Reynolds làm tôi cười. “Vậy cháu không nghĩ là anh cháu chết chưa hén?”
Ông đội mũ lên. “Bây giờ có thể bác sai, dĩ nhiên, nhưng bác nghĩ cậu ấy còn rất khỏe. Thể hiện được mọi dấu hiệu của sự sống. Vào thăm anh cháu đi, và khi bác quay lại mình gặp nhau rồi quyết định.”
Bước chân của bác sĩ Reynolds trẻ trung và nhanh nhẹn. Bước chân của ông Heck Tate thì không. Đôi ủng nặng nề của ông hành hạ hàng hiên và ông mở cửa một cách vụng về, nhưng ông nói y câu của bác sĩ Reynolds kh bước vào. Rồi ông thêm, “Cháu ổn chứ, Scout!”
“Ổn, thưa ông, cháu sẽ vào thăm Jem. Bố Atticus với mọi người đang ở trong đó.”
“Ta sẽ đi với cháu.” Ông Tate nói.
Bác Alexandra đã che đèn đọc sách của Jem bằng một cái khăn và phòng anh mờ mờ, Jem đang nằm ngửa. Có một vết xấu xí chạy dọc một bên mặt anh. Cánh tay trái của anh dang xa khỏi thân người; khuỷu tay hơi cong lại, nhưng theo một hướng kỳ cục. Jem đang nhíu mày.
“Jem…?”
Bố Atticus nói. “Anh con không nghe tiếng con đâu, Scout, anh bị ngất. Anh sắp tỉnh lại, nhưng bác sĩ Reynolds làm anh mê trở lại.”
“Vâng, thưa bố,” tôi rút lui. Phòng của Jem to và vuông. Bác Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế đu cạnh lò sưởi. Người đàn ông cõng Jem đứng trong một góc, tựa lưng vào tường. Ông ta là một nông dân nông thôn nào đó tôi không biết, có lẽ ông ta có mặt tại buổi hoạt cảnh, và ở gần đâu đó khi sự việc xảy ra. Hẳn ông ta đã nghe tiếng rú của chúng tôi và chạy đến.
Bố Atticus đứng cạnh giường của Jem.
Ông Heck Tate đứng ngay khung cửa. Mũ ông trên tay, và chiếc đèn pin cộm lên trong túi quần. Ông đang mặc cảnh phục.
“Vào đây, Heck,” bố Atticus nói. “Anh có tìm thấy gì không? Tôi không nghĩ ra ai lại hèn mạt đến độ làm một chuyện như vầy, nhưng tôi hy vọng anh tìm ra hắn.”
Ông Tate khịt mũi. Ông nhìn sắc lẻm vào người đàn ông trong góc phòng, gật đầu với ông ta, rồi nhìn quanh phòng… vào Jem, vào bác Alexandra và vào bố Atticus.
“Ngồi xuống đi, ông Finch,” ông nói một cách thoải mái.
Bố Atticus nói, “Mình ngồi cả đi. Có cái ghế đó, Heck. Để tôi ra phòng khách lấy một cái nữa.”
Ông Heck ngồi xuống chiếc ghế ngay bàn của Jem. Ông chờ cho tới khi bố Atticus trở vào và ngồi xuống. Tôi tự hỏi sao bố Atticus không mang một cái ghế nữa cho người đàn ông trong góc, nhưng bố Atticus hiểu rõ cung cách của dân nông thôn hơn tôi nhiều. Một số thân chủ nông thôn của ông sẽ cột mấy con lừa tai dài của họ bên mấy cây đào ở sân sau, và bố Atticus vẫn thường trao đổi với họ ở ngay bậc thềm sau nhà. Người đàn ông này chắc chắn thoải mái hơn khi đứng ở đó.
“Ông Finch,” ông Tate nói, “để cho tôi cho ông biết tôi đã tìm thấy gì. Tôi tìm thấy một cái váy của bé gái – nó ở ngoài xe tôi. Cái váy đó của cháu hả, Scout?”
“Phải, thưa ông, nếu đó là váy hồng có xếp nhiều nếp nhún,” tôi nó. Ông Tate cư xử như đang ở trên bục nhân chứng. Ông thích kể mọi chuyện theo cách của riêng ông, không bị bên công tố hay luật sư cản trở, và đôi khi việc đó làm ông tốn thời gian.
“Tôi tìm thấy mấy miếng vải lấm bùn trông kỳ cục và………….”
“Đó là đồ hóa trang của cháu, ông Tate.”
Ông Tate lần tay xuống đùi. Ông chà xát cánh tay phải và nghiên cứu bệ lò sưởi của Jem, rồi có vẻ ông quan tâm đến lò sưởi. Nhưng ngón tay của ông sờ lên sống mũi dài của ông.
“Có gì nữa vậy hả, Hate?” Bố Atticus hỏi.
Ông Tate mò xuống cổ và chà xát nó. “Bob Ewell nằm dưới đất dưới tán cây đằng đó với một con dao làm bếp cắm sâu vào sườn. Hắn chết rồi, ông Finch ạ.”