Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Giết con chim nhại

Chương 15

Tác giả: Harper Lee

Sau nhiều cú điện thoại, rồi biết bao thỉnh cầu nhân danh bị cáo, và sau khí có một lá thư tha thứ dài từ mẹ nó, Dill mới được phép ở lại. Chúng tôi có một tuần thư thái ở bên nhau. Sau đó, một chút, có vẻ vậy. Một cơn ác mộng ập xuống chúng tôi.

Bắt đầu bằng một tối sau bữa ăn. Dill đã sang, bác Alexandra ngồi trên ghế trong một góc, bố Atticus ngồi ghế của ông. Jem và tôi ngồi đọc dưới sàn nhà. Đó là một tuần bình yên: tôi đã quan tâm đến bác; Jem đã hết thích chơi cái nhà trên cây, nhưng anh giúp tôi và Dill làm một cái thang dây mới cho nó. Dill đã nghĩ ra một kế hoạch chu đáo để dụ cho Boo Radley ra ngoài mà chúng tôi không bị mất mát cái gì (rắc một vệt giọt nước chanh từ cửa sau đến sân trước và ông ta sẽ theo nó, giống như một con kiến). Có tiếng gõ cửa trước và Jem ra mở và báo rằng có ông Heck Tate tới.

“Mời ông ấy vào,” bố Atticus nói.

“Con mời rồi. Còn mấy người nữa ngoài sân, họ muốn bố ra.”

Ở Maycomb, người lớn đứng ngoài sân chỉ với hai lý do: chết và chính trị. Tôi tự hỏi ai đã chết, Jem và tôi đi ra cửa trước, nhưng bố Atticus gọi, “Quay vào trong nhà.”

Jem tắt đèn phòng khách và gí mũi vào lưới cửa sổ. Bác Alexandra phản đối. “Chút xíu thôi, bác, để tụi cháu xem đó là ai,” anh nói.

Dill và tôi chiếm một cửa sổ khác. Một đám đông đang vây quanh bố Atticus. Có vẻ như tất cả đang nói cùng một lúc.

“…. Chuyển hắn đến nhà tù hạt vào ngày mai,” ông Tate nói. “Tôi không muốn có rắc

rối nào, nhưng tôi không thể đảm bảo ở đó sẽ không có bất cứ…”

“Đừng ngốc thế, Heck,” bố Atticus nói. “Đây là Maycomb.”

“…. đã nói tôi chỉ thấy khó chịu thôi.”

“Heck, chúng ta đã được tạm hoãn vụ này chỉ để chắc rằng không có chuyện gì phải khó chịu. Hôm nay thứ Bảy,” bố Atticus nói, “phiên tòa có lẽ diễn ra vào thứ Hai. Anh có thể giữ anh ta một đêm, đúng không? Tôi không nghĩ có bất cứ ai ở Maycomb này bực bội vì tôi có một thân chủ, những lúc gian khó thế này.”

Có tiếng rì rầm vui sướng bất ngờ tắt ngấm khi ông Link Deas nói, “Không ai quanh đây muốn làm bất cứ điều gì bậy bạ cả, tôi chỉ ngại người ở Old Sarum…. Anh không

thể có vụ….gọi là gì vậy, Heck?”

“Thay đổi nơi xử,” ông Tate nói. “Chuyện đó không có cơ sở lắm đâu, đúng không?”

Bố Atticus nói điều gì đó nghe không rõ. Tôi quay sang Jem, anh ra dấu cho tôi im lặng.

“…. Vả lại,” bố Atticus nói, “anh không sợ đám đông đó, phải không?”

“…. Biết họ làm thế nào khi đã xỉn.”

“Họ thường không nhậu vào Chủ nhật, họ đi nhà thờ cả ngày…” bố Atticus nói.

“Dù sao thì đây cũng là một dịp đặc biệt…” Ai đó nói.

Họ bàn tán rì rầm cho đến khi bác Alexandra bảo Jem nếu không bật đèn phòng khách lên anh sẽ khiến người ta chê cười cả nhà. Jem không nghe bác nói.

“… thứ nhất không hiểu tại sao anh lại dính vào chuyện này,” ông Link Deas nói. “Vì vụ này anh đã mất mọi thứ, Atticus. Tôi nói thực là mọi thứ.”

“Ông nghĩ thế thật à?”

Đây là câu hỏi nguy hiểm của bố Atticus. “Con có thực sự nghĩ con muốn đi nước đó không, Scout?” Bam, bam, bam và tôi bị ăn sạch hết các quân cờ. “Con có thực sự nghĩ điều đó không, con trai? Vậy đọc cái này đi.” Thế là Jem sẽ phải vật lộn suốt cả buổi tối đó để đọc cà diễn văn của Henry W. Grandy.

“Link, chàng trai đó có thể lên ghế điện, nhưng anh ta sẽ không lên cho đến khi sự thật được phơi bày.” Giọng của bố Atticus đều đều. “Và ông biết sự thật là gì mà.”

Giữa nhóm người đó dấy lên tiếng rì rầm, làm tình hình xấu đi nhiều khi bố Atticus lui tới bậc thềm và đám người sấn lại gần ông hơn.

Bất chợt Jem hét toáng lên, “Bố Atticus, có điện thoại!”

Đám người đó hơi giật mình và tản ra; họ là những người chúng tôi gặp hàng ngày:

thương nhân, nông dân trong thị trấn; bác sĩ Reynolds cũng ở đó; cả ông Avery nữa.

“Ừ, trả lời điện thoại đi, con trai,” bố Atticus gọi.

Họ bật cười ồ. Khi bố Atticus bật đèn phòng khách, ông thấy Jem đang ở ngay cửa sổ, tái nhợt trừ vết đỏ của cửa lưới in trên mũi anh.

“Sao tụi con ngồi trong bóng tối vậy?” Ông hỏi.

Jem nhìn bố đi đến chiếc ghế của ông và cầm tờ báo buổi chiều lên. Đôi khi tôi nghĩ bố Atticus đã bình tĩnh đánh giá mọi cuộc khủng hoảng của cuộc đời ông đằng sau mấy tờ The Mobile Register, The Birmingham News và The Montgomery Advertiser.

“Họ đang rầy rà bố, phải không?” Jem đi đến bên ông. “Họ muốn bắt bí bố, đúng không?”

Bố Atticus hạ tờ báo xuống nhìn Jem. “Con đã đọc cái gì vậy?” Ông hỏi. Rồi ông nói nhẹ nhàng. “Không, con trai, những người đó là bạn của chúng ta.”

“Đó không phải là một… một băng đảng hả?” Jem liếc nhìn bố.

Bố Atticus cố nén một nụ cười nhưng không được. “Không, chúng ta không có những băng đảng và thứ nhảm nhí đó ở Maycomb. Bố chưa từng nghe nói ở Maycomb có một băng đảng.”

“Có lần băng Ku Klux truy đuổi mấy người Thiên chúa giáo.”

“Bố cũng chưa từng nghe có bất cứ người Thiên chúa giáo nào ở Maycomb,” bố Atticus nói, “con đã nhầm chuyện đó với một điều gì khác. Hồi khoảng năm 1920 có một đảng Klan, nhưng đó là một tổ chức chính trị hơn là bất cứ gì khác. Ngoài ta họ không thể tìm ra bất cứ ai để dọa. Có đêm họ tụ tập ở cạnh nhà ông Sam Levy, nhưng Sam chỉ đứng ở hiên nhà ông và bảo họ mọi thứ đã đến chỗ bi đát, ông đã bán cho họ chính những tấm vải trên lưng họ. Sam đã khiến họ quá xấu hổ về bản thân họ đến họ đã bỏ đi.”

Dòng họ Levy đã hội đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành Những Người Tốt; họ làm việc tốt hết sức mình với ý thức mà họ có được, và họ đã sống trên cùng một khu đất ở Maycomb trong năm thế hệ.

“Đảng Ku Klux đã biến mất,” bố Atticus nói. “Nó sẽ không bao giờ trở lại.”

Tôi đi về nhà cùng Dill và trở lại đúng lúc nghe được bố Atticus nói với bác, “…….

Vì lợi ích của phụ nữ miền Nam cũng như bất cứ ai, nhưng không vì bảo tồn sự giả tạo lịch sự mà làm tổn hại đến mạng sống con người,” một tuyên bố vốn khiến tôi e rằng họ lại cãi nhau nữa.

Tôi đi tìm Jem và thấy anh trong phòng, nằm trên giường chìm sâu vào suy tư. “Họ lại cãi nhau nữa hả?” Tôi hỏi.

“Đại khái vậy. Bác ấy sẽ không để bố yên với vụ Tom Robinson đâu. Bác ấy gần như nói rằng bố Atticus đã làm nhục cả dòng họ. Scout… Anh sợ.”

“Sợ cái gì?”

“Sợ cho bố Atticus. Ai đó có thể làm tổn thương bố.” Jem thích giữ vẻ bí ẩn; trước những câu hỏi của tôi anh chỉ nói là đi chỗ khác và để anh yên.

Ngày hôm sau là Chủ nhật. Trong lúc nghỉ giữa buổi học giáo lý và lễ nhà thờ khi

giáo đoàn nghỉ giải lao tôi thấy bố Atticus đứng trong sân với một nhóm người khác. Ông Heck Tate cũng có mặt, và tôi tự hỏi phải chăng ông ta đã trở nên sùng đạo. Ông ta chưa bao giờ đến nhà thờ. Cả ông Underwood cũng có mặt ở đó. Ông Underwood không chịu nổi bất cứ tổ chức nào trừ tòa báo The Maycomb Tribune, mà ông là chủ, biên tập viên, kiêm luôn thợ in. Suốt ngày ông ở bên dàn máy sắp chữ, thỉnh thoảng ông lại rót cho mình một ly từ bình rượu dâu nằm thường trực gần đó. Ông hiếm khi đi thu lượm tin tức; người ta đưa nó đến cho ông. Người ta nói rằng ông hình thành mọi số báo The Maycomb Tribune từ trong đầu ông và viết nó ra với dàn máy sắp chữ. Đây là điều có thể tin được. Hẳn có một thứ gì đó đã đến lôi ông Underwood ra.

Tôi thấy bố Atticus bước đến cửa, và nói rằng họ đã chuyển Tom Robinson đến nhà tù Maycomb. Ông cũng nói, với chính ông hơn là với tôi, rằng nếu họ giữ anh ta ở đó ngay từ đầu thì đã không có chuyện nhộn nhạo nào. Tôi nhìn ông kiếm chỗ ngồi ở hàng thứ ba từ trên xuống, và nghe ông lầm bầm, “Chúa ở cùng anh chị em,” chậm hơn tất cả chúng tôi. Ông không bao giờ ngồi cùng với bác Alexandra, Jem và tôi. Ông thích ngồi một mình trong nhà thờ.

Sự thanh bình giả tạo vốn phổ biến vào những ngày Chủ nhật càng trở nên khó chịu hơn với sự có mặt của bác Alexandra. Bố Atticus sẽ lánh thẳng về văn phòng ông ngay sau bữa ăn, ở đó nếu thỉnh thoảng nhìn vào, chúng tôi sẽ thấy ông ngồi dựa lưng vào chiếc ghế xoay và đọc. Bác Alexandra tự cho phép mình chợp mắt hai tiếng và cấm không cho chúng tôi gây bất cứ tiếng động nào trong sân, hàng xóm đang nghỉ ngơi. Jem trong cái tuổi chín chắn của anh đã ôm vào phòng mình một đống tạp chí bóng bầu dục. Vì vậy Dill và tôi dành những ngày Chủ nhật của mình bò quanh tronh bãi Hoẵng sau nhà.

Việc săn bắn vào ngày Chủ nhật bị cấm, vì vậy Dill và tôi đã quả bóng của Jem quanh cánh đồng một lát, một việc chẳng thú vị gì. Dill hỏi tôi liệu tôi có thích chọc ghẹo Boo Radley không. Tôi nói tôi nghĩ chẳng tốt đẹp gì khi quấy rầy ông ta, và dành buổi chiều còn lại để kể cho Dill nghe những sự việc xảy ra hồi mùa đông năm ngoái. Nó bị ấn tượng mạnh.

Chúng tôi chia tay vào giờ ăn tối, và sau bữa ăn khi Jem và tôi đang bắt đầu một buổi tối như thường lệ thì bố Atticus làm một việc khiến chúng tôi chú ý: ông bước vào phòng khách mang theo sợi dây điện dài. Có một bóng đèn ở đầu dây.

“Bố sẽ ra ngoài một lát,” ông nói. “Các con chắc đã ngủ khi bố về, vì vậy bây giờ bố sẽ chúc tụi con ngủ ngon trước.”

Nói xong, ông đội mũ và đi ra cửa sau.

“Bố đi lấy xe,” Jem nói.

Bố chúng tôi có vài thói quen lập dị: một là ông không bao giờ ăn tráng miệng; một điều khác nữa là ông thích đi bộ. Theo trí nhớ của tôi, luôn luôn có một chiếc Chevrolet trong tình trạng cực tốt ở nhà xe, và bố Atticus chỉ dùng đến nó trong những chuyến đi xa vì công việc, nhưng ở Maycomb ông đi bộ tới văn phòng làm việc mỗi ngày bốn lần đi và về, tổng cộng khoảng hai dặm. Ông nói việc tập thể dục duy nhất của ông là đi bộ. Ở Maycomb, nếu một người đi dạo không có mục đích rõ rệt trong đầu, thì người ta tin rằng đầu óc của người đó không có khả năng nghĩ ra một mục đích rõ ràng.

Sau đó, tôi chúc bác và anh trai tôi ngủ ngon rồi chìm đắm vào một cuốn sách, khi đó tôi nghe Jem lục đục trong phòng anh. Những âm thanh trước khi ngủ của anh quá quen thuộc với tôi đến độ tôi gõ cửa phòng anh, “Sao anh chưa đi ngủ?”

“Anh sẽ xuống thị trấn một lát.” Anh đang thay quần.

“Chi vậy? Gần mười giờ rồi, Jem.”

Anh biết điều đó, nhưng anh vẫn đi như thường.

“Vậy em sẽ đi với anh. Nếu anh nói em đừng đi, thì em cũng cứ đi, nghe không?”

Jem thấy rằng anh phải đánh nhau với tôi để buộc tôi ở nhà, và tôi cho rằng anh nghĩ việc đánh nhau sẽ làm phiền bác, nên anh miễn cưỡng cho tôi đi theo.

Tôi mặc đồ thật nhanh. Chúng tôi chờ cho đến khi đèn của bác tắt, và chúng tôi đi thật nhẹ xuống những bậc thềm sau nhà. Tối nay không có trăng.

“Dill sẽ muốn đi đó,” tôi thì thào.

“Thì nó cứ muốn,” Jem rầu rĩ nói.

Chúng tôi phóng qua bức tường cạnh đường xe chạy, đi qua sân bên hông nhà cô Rachel đến cửa sổ phòng Dill. Jem huýt sáo. Khuôn mặt Dill xuất hiện ngay khung cửa lưới, biến mất, và năm phút sau cậu ta mở chốt cửa lưới và bò ra. Là một tay lão luyện, nó không nói gì cho đến khi chúng tôi ra đến vỉa hè. “Đi đâu?”

“Jem đi lòng vòng chơi,” một tình trạng mà Calpurnia nói tất cả bọn con trai đều mắc phải ở tuổi anh.

“Tớ chỉ mới có cảm giác này,” Jem nói, “đúng cái cảm giác này.”

Chúng tôi đi ngang nhà bà Dubose, nó vắng vẻ và các cánh cửa đóng kín, những cây hoa trà của bà mọc chen lẫn cỏ dại. Còn tám ngôi nhà nữa mới tới góc phố bưu điện.

Cạnh Nam của quảng trường vắng hoe. Những bụi cây bách tán khổng lồ che phủ một góc đường, và chạy giữa chúng là một con đường sắt lấp lánh dưới ánh sáng đèn đường. Một ngọn đèn chiếu sáng trong nhà vệ sinh của hạt, thường thì phía đó của tòa án tối om om. Một vòng lớn hơn gồm các cửa hàng vây quanh quảng trường tòa án; những ngọn đèn sáng mờ mờ ở sâu bên trong những cửa hàng đó.

Văn phòng của bố Atticus nằm bên trong tòa án hồi ông bắt đầu hành nghề, nhưng sau vài năm ông chuyển đến một khu yên tĩnh hơn trong tòa nhà ngân hàng Maycomb. Khi quẹo ở góc quảng trường, chúng tôi thấy xe của ông đậu trước cửa ngân hàng. “Bố ở trong đó,” Jem nói.

Nhưng ông không có ở đó. Muốn đến văn phòng ông phải đi qua một hành lang dài. Nhìn theo hành lang, chúng tôi thường thấy dòng Atticus Finch, Luật sư bằng những

chữ nhỏ thanh tú nổi bật trên ánh sáng từ bên trong cánh cửa phòng ông. Lúc này nó tối thui.

Jem nhìn vào cửa ngân hàng cho chắc ăn. Anh xoay nắm cửa. Cửa đã khóa. “Mình đi tiếp. Chắc bố đến gặp ông Underwood.”

Ông Underwood không chỉ điều hành tòa soạn từ The Maycomb Tribune, ông còn sống trong đó. Đúng ra là ở tầng trên đó. Ông tường thuật tin tức tòa án và nhà tù đơn giản bằng cách nhìn qua cửa sổ trên lầu của mình. Ngôi nhà tòa soạn nằm ở góc Tây Bắc cửa quảng trường, và muốn tới đó chúng tôi phải đi qua nhà tù.

Nhà tù Maycomb là một trong những tòa nhà đáng ngán nhất và khủng khiếp nhất trong số các công sở của hạt. Bố Atticus nói có vẻ như nó do người bà con Joshua St. Clair thiết kế. Nó chắc chắn là ước mơ của ai đó. Hoàn toàn lạc điệu trong một thị trấn gồm những cửa hàng quay mặt ra quảng trường và những ngôi nhà mái dốc, nhà tù Maycomb là một trò đùa kiểu Gothic thu nhỏ với chiều ngang bằng một xà lim và cao bằng hai xà lim rồi có cả những lỗ châu mai nhỏ xíu và cột vòm chống đỡ tường. Sự tưởng tượng của nó được tăng thêm bởi mặt tiền xây bằng gạch đỏ và những thanh chắn bằng thép dày tại các cửa sổ kiểu nhà thờ. Nó không nằm trên một ngọn đồi trơ trụi, mà chen giữa Cửa hàng kim khí Tyndal và tòa soạn tờ The Maycomb Tribune. Nhà tù là câu chuyện đáng bàn duy nhất của Maycomb: những kẻ chê bai nói nó giống một nhà vệ sinh thời Victoria;những kẻ ủng hộ nói nó tạo cho thị trấn một vẻ nghiêm trang rõ rệt, và không một người lạ nào từng nghi ngờ chuyện nó chứa đầy bọn mọi đen.

Khi đi theo vỉa hè, chúng tôi thấy một ánh đèn lẻ loi sáng ở đằng xa. “Thật buồn cười,” Jem nói, “nhà tù không có đèn phía ngoài.”

“Nhìn như có đèn phía trên cánh cửa,” Dill nói.

Một đoạn dây điện dài chui qua song sắt của cửa sổ xà lim tầng hai và thả xuống hông tòa nhà. Trong ánh sáng từ bóng đèn trần trụi ở đầu dây, bố Atticus đang ngồi

dựa vào cửa trước. Ông ngồi trên một trong những chiếc văn phòng của ông, và ông đang đọc, không để ý đến những con thiêu thân bay lảng vảng trên đầu ông.

Tôi định chạy đến, nhưng Jem ngăn lại. “Đừng đến chỗ bố,” anh nói, “có thể bố không thích thế. Bố ổn cả, tụi mình về đi. Anh chỉ muốn biết bố ở đâu thôi.”

Khi chúng tôi đi tắt qua quảng trường thì có bốn chiếc xe hơi đầy bụi đường xuất hiện từ phía xa lộ Medirian, chạy chầm chậm thành một hàng. Chúng chạy vòng quảng trường, qua tòa nhà ngân hàng, và dừng lại trước nhà tù.

Không ai bước ra. Tôi thấy bố Atticus rời mắt khỏi tờ báo ngước nhìn lên. Ông gấp nó lại, cuộn nó một cách cẩn thận, đặt lên đùi, và đẩy mũ ngược ra sau đầu. Có vẻ ông đang đợi họ.

“Tới coi,” Jem thì thào. Chúng tôi phóng qua quảng trường, băng qua đường, và núp ngay cửa siêu thị Jitney Jungle. Jem nhìn theo lề đường. “Tụi mình có thể đến gần hơn,” anh nói. Chúng tôi chạy đến khung cửa của Cửa hàng kim khí Tyndal – đủ gần, mà vẫn kín đáo.

Từng người hoặc từng hai người một bước ra khỏi xe. Những cái bóng biến thành hình khối cụ thể khi ánh đèn cho thấy các hình dáng rõ ràng di chuyển về phía cửa nhà tù. Bố Atticus vẫn đứng chỗ cũ. Những người đàn ông đó ché khuất ông khỏi tầm mắt chúng tôi.

“Hắn ở trong đó hả, ông Finch?” Một người hỏi.

“Phải,” chúng tôi nghe bố Atticus trả lời, “anh ta ngủ. Đừng đánh thức anh ta.”

Nghe lời bố tôi, sự việc diễn ra sau đó là điều mà sau này tôi hiểu ra là một khía cạnh khôi hài đáng ngán của một tình huống không vui vẻ gì: những người đó nói chuyện gần như thì thào.

“Ông biết chúng tôi muốn gì mà,” một người khác nói. “Tránh khỏi cái cửa đó đi, ông

Finch.”

“Ông có thể quay lưng về nhà đi, Walter,” bố Atticus nói một cách thoải mái, “Heck Tate đang ở quanh đâu đây.”

“Mặc xác ông ta,” người khác đó nói. “Cả đám của Heck đã vào tuốt trong rừng và tới sáng họ mới về.”

“Thật ư? Sao lại thế?”

“Bọn họ đi săn dẽ giun[56] rồi,” một câu trả lời ngắn gọn. “Ông chưa hề nghĩ về trò đó hả, ông Finch?”

“Từng nghĩ đến, nhưng không tin. Vậy,” giọng bố tôi vẫn đều đều, “điều đó làm thay đổi mọi việc, phải không?”

“Vậy đó,” một giọng khác lên tiếng. Người nói là một bóng đen.

“Ông thực sự nghĩ thế à?”

Đây là lần thứ hai tôi nghe bố Atticus hỏi câu hỏi đó trong hai ngày, và điều đó nghĩa là người của ai đó sẽ phải nhảy dựng lên. Vụ này quá hay không thể bỏ lỡ. Tôi bỏ Jem và phóng thật nhanh đến chỗ bố Atticus.

Jem hét lên và cố túm tôi lại, nhưng tôi đã bỏ xa anh và Dill. Tôi chen lấn qua những thân thể hôi hám tối thui và ào vào vòng ánh sáng.

“Ch…ào bố Atticus!”

Tôi nghĩ ông sẽ ngạc nhiên thú vị, nhưng khuôn mặt ông giết chết niềm vui của tôi. Một vẻ sợ hãi hiện ra trong mắt ông, nhưng biến mất khi thấy Jem và Dill chen vào chỗ ánh đèn.

Có mùi Whisky lên men và mùi chuồng heo phảng phất, khi nhìn quanh tôi phát hiện

ra rằng những người này toàn là những kẻ lạ hoắc. Họ không phải là người tôi đã thấy tối qua. Tôi hết sức lúng túng: tôi đã phóng một cách đắc thắng vào đám người mà tôi chưa từng gặp trước đây.

Bố Atticus đứng dậy khỏi ghế, nhưng ông di chuyển một cách chậm chạp, giống một ông già. Ông đặt tờ báo xuống một cách cẩn thận, sửa những nếp gấp của nó bằng những ngón tay chần chừ. Chúng hơi run.

“Về nhà đi, Jem,” ông nói. “Dẫn Scout với Dill về.”

Chúng tôi đã quan với việc nhắc nhở, nhưng không phải lúc nào cũng vui vẻ nghe theo những chỉ thị của bố Atticus, nhưng theo kiểu anh ấy đứng thì Jem không nghĩ đến việc nhúc nhích.

“Bố bảo về nhà.”

Jem lắc đầu. Khi bố Atticus chống nạnh, Jem cũng chống nạnh, và khi họ đối mặt nhau tôi có thể thấy họ ít giống nhau: đôi mắt và mái tóc nâu mềm mại của Jem, khuôn mặt trái xoan và đôi tai ép sát của anh là của mẹ chúng tôi, tương phản kỳ lạ với mái tóc xám bạc và những đường nét cương nghị của bố Atticus, nhưng họ giống nhau theo kiểu nào đó. Sự thách thức lẫn nhau khiến họ giống nhau.

“Con trai, bố bảo về nhà.”

Jem lắc đầu.

“Tôi sẽ đưa cậu ta về nhà,” một người đàn ông lực lưỡng nói, và thô bạo chộp lấy cổ áo Jem. Ông ta gần như nhấc hẳn Jem lên khỏi mặt đất.

“Ông không được đụng vào anh ấy!” Tôi lẹ làng đá người đó. Chỉ có chân trần, tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta lui lại với vẻ đau đớn thật sự. Tôi định đá vào xương ống chân ông ta, nhưng lại nhắm quá cao.

“Thôi đi, Scout,” bố Atticus đặt tay lên vai tôi. “Đừng đã người ta. Đừng…” Ông nói,

khi tôi đang kiếm cớ bào chữa.

“Không ai được đối đãi với Jem kiểu đó,” tôi nói.

“Được rồi, ông Finch, đưa chúng tránh khỏi chỗ này,” ai đó gầm gừ. “Ông có mười lăm giây để đưa chúng khỏi chỗ này.”

Giữa nhóm người lạ này, bố Atticus cố làm cho Jem nghe lời ông. “Con không đi,” là câu trả lời kiên quyết của anh trước những đe dọa, yêu cầu, và cuối cùng là câu, “Bố xin con, Jem, đưa tụi nó về nhà đi,” của bố Atticus.

Tôi cảm thấy hơi mệt với chuyện này, nhưng cảm thấy Jem có những lý do của anh ấy để phản ứng như anh đã làm, trước viễn cảnh của anh một khi bố Atticus lôi được anh về nhà. Tôi nhìn quanh đám đông. Đó là một đêm hè, nhưng hầu hết những người này mặc quần áo bảo hộ lao động và áo sơ mi cài nút đến tận cổ. Tôi nghĩ những người này bị lạnh bẩm sinh, vì họ không xắn tay áo lên mà cài nút tới tận cổ tay. Một số đội mũ kéo sụp đến tận tai. Họ là những con người trông cau có, mắt ngái ngủ có vẻ không quen thức khuya. Tôi lại đảo mắt tìm một khuôn mặt quen thuộc, và ngay giữa đám người đứng thành vòng cung tôi tìm thấy một khuôn mặt như thế.

“Chào ông Cunningham.”

Có vẻ như người đó không nghe tiếng tôi.

“Chào ông Cunningham. Vụ tài sản thừa kế của ông tới đâu rồi?”

Những sự vụ pháp lý của ông Walter Cunningham tôi đã quá rành; bố Atticus có lần mô tả chúng rất kỹ. Người đàn ông to lớn này nhấp nháy mắt và móc ngón tay cái của ông ta và dây quai của bộ đồ bảo hộ lao động. Ông ta có vẻ không thoải mái; ông ta hắng giọng và nhìn chỗ khác. Khúc dạo đầu thân thiện của tôi đã thất bại.

Ông Cunningham không đội mũ, và nửa trán phía trên của ông ta trắng bệch tương phản với khuôn mặt rám nắng của ông, điều đó khiến tôi tin rằng ông ta hầu như ngày

nào cũng đội mũ. Ông nhúc nhích bàn chân trong đôi giày lao động nặng nề.

“Ông không nhớ cháu hả, ông Cunningham? Cháu là Jean Louise Finch. Có một lần ông đã mang cho tụi cháu một mớ hồ đào, nhớ không?” Tôi bắt đầu cảm thấy sự vô ích mà người ta cảm thấy khi một người quen tình cờ không nhận ra họ.

“Cháu đi học cùng với Walter,” tôi lại bắt đầu. “Nó là con trai của ông, đúng không? Đúng không, ông?”

Ông Cunningham miễn cưỡng gật đầu. Rốt cuộc là ông có biết tôi.

“Bạn ấy học chung với cháu,” tôi nói, “bạn ấy học khá. Bạn ấy tốt lắm,” tôi nói thêm, “một cậu trai thực sự tốt. Có lần tụi rủ bạn ấy về nhà ăn trưa. Có lẽ bạn ấy có nói với ông về cháu, có lần cháu đánh bạn ấy, nhưng bạn ấy vẫn thật thoải mái với chuyện đó. Nhờ ông cho cháu gửi lời chào bạn ấy, được không?”

Bố Atticus đã từng nói rằng lịch sự là nói với người khác về những gì họ quan tâm, chứ không nói về những gì mình quan tâm. Ông Cunningham không biểu lộ sự quan tâm đến con trai ông, vì vậy tôi nói về vụ hạn chế thừa kế của ông ấy một lần nữa trong nỗ lực cuối cùng để khiến ông ấy cảm thấy thoải mái.

“Những khoản hạn chế thừa kế thì thiệt tệ,” tôi góp ý với ông ta, rồi tôi từ từ nhận ra rằng tôi đang nói chuyện với cả nhóm người đó. Tất cả đều nhìn tôi, một số người há hốc miệng. Bố Atticus đã thôi thúc giục Jem: họ đang đứng bên cạnh Dill. Sự chú ý của họ đã lên tới mức ngây cả người. Miệng bố Atticus thậm chí hơi há ra, một cử chỉ mà ông từng mô tả là thô lậu. Mắt chúng tôi chạm nhau và ông nhắm lại.

“Bố Atticus, con đang nói với ông Cunningham rằng vụ hạn chế thừa kế thiệt là tệ, và nhiều điều khác nữa, nhưng bố đã nói là đừng lo, đôi khi nó mất nhiều thời gian.. rằng…bố với ông ấy sẽ xoay xở vượt qua được….” Tôi từ từ ngừng nói, tự hỏi mình

đã phạm phải sự ngu xuẩn lớn lao gì đây. Vụ hạn chế thừa kế có vẻ như rất phù hợp cho một cuộc nói chuyện ở phòng khách.

Tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi túa ra từ chân tóc, tôi có thể chịu đựng mọi thứ trừ chuyện một nhóm người cứ nhìn tôi chòng chọc. Họ đứng im hoàn toàn.

“Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

Bố Atticus chẳng nói gì. Tôi nhìn quanh và nhìn lên ông Cunningham, khuôn mặt của ông cũng không để lộ cảm xúc nào. Rồi ông làm một việc lạ kỳ. Ông ngồi xuống nắm hai vai tôi.

“Tôi sẽ nói với nó cô gửi lời chào, quý cô bé bỏng,” ông nói.

Rồi ông đứng thẳng dậy, vẫy bàn tay to bè. “Chúng ta giải tán,” ông gọi to. “Chúng ta đi thôi, các bạn.”

Như khi họ đến, từng người hoặc từng hai người lại chui vào những chiếc xe cũ nát của họ. Cửa đóng sầm lại, máy nổ khục khặc, và họ đi mất.

Tôi quay sang bố Atticus, nhưng bố Atticus đã đi đến nhà tù và tựa người quay mặt vào tường. Tôi đến bên ông kéo tay áo ông. “Mình về nhà bây giờ được chưa?” Ông gật đầu, lấy khăn tay ra lau khắp mặt và thở phì thật mạnh.

“Ông Finch?”

Một giọng khàn khàn nhỏ nhẹ từ chỗ tối bên trên, “Họ đi rồi hả?”

Bố Atticus lùi lại, nhìn lên. “Họ đi hết rồi,” ông nói. “Ráng ngủ chút đi, Tom. Họ sẽ không quấy rầy anh nữa đâu.”

Từ hướng khác, một giọng nói nữa cắt thẳng qua bóng đêm. “Ông đúng quá rồi chúng sẽ không quấy rầy nữa đâu. Tôi rình sẵn yểm trợ ông nãy giờ đó, Atticus.”

Ông Underwood và khẩu súng hai nòng thò ra cửa sổ bên trên tòa soạn tờ The Maycomb Tribune.

Đã quá giờ ngủ của tôi lâu rồi và tôi càng lúc càng mệt; có vẻ như bố Atticus với ông Underwood sẽ nói chuyện suốt đêm. Ông Underwood từ cửa sổ chõ xuống và bố Atticus nói vọng lên chỗ ông ta. Cuối cùng bố Atticus quay lại, tắt ngọn đèn bên trên cửa nhà tù, và cầm ghế của ông lên.

“Để cháu mang nó cho, ông Finch,” Dill nói. Nãy giờ nó không nói một lời.

“Ô, cảm ơn, con trai.”

Đi về phía văn phòng, Dill và tôi đi sau bố Atticus và Jem. Dill bị cái ghế làm vướng chân nên bước đi của nó chậm hơn. Bố Atticus và Jem đã bỏ xa chúng tôi, và tôi cho rằng bố Atticus đang rầy la anh vì không chịu về nhà, nhưng tôi đã lầm. Khi họ đi qua dưới anh đèn đường, bố Atticus đưa tay xoa đầu Jem, một cử chỉ trìu mến của ông.

Sau nhiều cú điện thoại, rồi biết bao thỉnh cầu nhân danh bị cáo, và sau khí có một lá thư tha thứ dài từ mẹ nó, Dill mới được phép ở lại. Chúng tôi có một tuần thư thái ở bên nhau. Sau đó, một chút, có vẻ vậy. Một cơn ác mộng ập xuống chúng tôi.

Bắt đầu bằng một tối sau bữa ăn. Dill đã sang, bác Alexandra ngồi trên ghế trong một góc, bố Atticus ngồi ghế của ông. Jem và tôi ngồi đọc dưới sàn nhà. Đó là một tuần bình yên: tôi đã quan tâm đến bác; Jem đã hết thích chơi cái nhà trên cây, nhưng anh giúp tôi và Dill làm một cái thang dây mới cho nó. Dill đã nghĩ ra một kế hoạch chu đáo để dụ cho Boo Radley ra ngoài mà chúng tôi không bị mất mát cái gì (rắc một vệt giọt nước chanh từ cửa sau đến sân trước và ông ta sẽ theo nó, giống như một con kiến). Có tiếng gõ cửa trước và Jem ra mở và báo rằng có ông Heck Tate tới.

“Mời ông ấy vào,” bố Atticus nói.

“Con mời rồi. Còn mấy người nữa ngoài sân, họ muốn bố ra.”

Ở Maycomb, người lớn đứng ngoài sân chỉ với hai lý do: chết và chính trị. Tôi tự hỏi ai đã chết, Jem và tôi đi ra cửa trước, nhưng bố Atticus gọi, “Quay vào trong nhà.”

Jem tắt đèn phòng khách và gí mũi vào lưới cửa sổ. Bác Alexandra phản đối. “Chút xíu thôi, bác, để tụi cháu xem đó là ai,” anh nói.

Dill và tôi chiếm một cửa sổ khác. Một đám đông đang vây quanh bố Atticus. Có vẻ như tất cả đang nói cùng một lúc.

“…. Chuyển hắn đến nhà tù hạt vào ngày mai,” ông Tate nói. “Tôi không muốn có rắc

rối nào, nhưng tôi không thể đảm bảo ở đó sẽ không có bất cứ…”

“Đừng ngốc thế, Heck,” bố Atticus nói. “Đây là Maycomb.”

“…. đã nói tôi chỉ thấy khó chịu thôi.”

“Heck, chúng ta đã được tạm hoãn vụ này chỉ để chắc rằng không có chuyện gì phải khó chịu. Hôm nay thứ Bảy,” bố Atticus nói, “phiên tòa có lẽ diễn ra vào thứ Hai. Anh có thể giữ anh ta một đêm, đúng không? Tôi không nghĩ có bất cứ ai ở Maycomb này bực bội vì tôi có một thân chủ, những lúc gian khó thế này.”

Có tiếng rì rầm vui sướng bất ngờ tắt ngấm khi ông Link Deas nói, “Không ai quanh đây muốn làm bất cứ điều gì bậy bạ cả, tôi chỉ ngại người ở Old Sarum…. Anh không

thể có vụ….gọi là gì vậy, Heck?”

“Thay đổi nơi xử,” ông Tate nói. “Chuyện đó không có cơ sở lắm đâu, đúng không?”

Bố Atticus nói điều gì đó nghe không rõ. Tôi quay sang Jem, anh ra dấu cho tôi im lặng.

“…. Vả lại,” bố Atticus nói, “anh không sợ đám đông đó, phải không?”

“…. Biết họ làm thế nào khi đã xỉn.”

“Họ thường không nhậu vào Chủ nhật, họ đi nhà thờ cả ngày…” bố Atticus nói.

“Dù sao thì đây cũng là một dịp đặc biệt…” Ai đó nói.

Họ bàn tán rì rầm cho đến khi bác Alexandra bảo Jem nếu không bật đèn phòng khách lên anh sẽ khiến người ta chê cười cả nhà. Jem không nghe bác nói.

“… thứ nhất không hiểu tại sao anh lại dính vào chuyện này,” ông Link Deas nói. “Vì vụ này anh đã mất mọi thứ, Atticus. Tôi nói thực là mọi thứ.”

“Ông nghĩ thế thật à?”

Đây là câu hỏi nguy hiểm của bố Atticus. “Con có thực sự nghĩ con muốn đi nước đó không, Scout?” Bam, bam, bam và tôi bị ăn sạch hết các quân cờ. “Con có thực sự nghĩ điều đó không, con trai? Vậy đọc cái này đi.” Thế là Jem sẽ phải vật lộn suốt cả buổi tối đó để đọc cà diễn văn của Henry W. Grandy.

“Link, chàng trai đó có thể lên ghế điện, nhưng anh ta sẽ không lên cho đến khi sự thật được phơi bày.” Giọng của bố Atticus đều đều. “Và ông biết sự thật là gì mà.”

Giữa nhóm người đó dấy lên tiếng rì rầm, làm tình hình xấu đi nhiều khi bố Atticus lui tới bậc thềm và đám người sấn lại gần ông hơn.

Bất chợt Jem hét toáng lên, “Bố Atticus, có điện thoại!”

Đám người đó hơi giật mình và tản ra; họ là những người chúng tôi gặp hàng ngày:

thương nhân, nông dân trong thị trấn; bác sĩ Reynolds cũng ở đó; cả ông Avery nữa.

“Ừ, trả lời điện thoại đi, con trai,” bố Atticus gọi.

Họ bật cười ồ. Khi bố Atticus bật đèn phòng khách, ông thấy Jem đang ở ngay cửa sổ, tái nhợt trừ vết đỏ của cửa lưới in trên mũi anh.

“Sao tụi con ngồi trong bóng tối vậy?” Ông hỏi.

Jem nhìn bố đi đến chiếc ghế của ông và cầm tờ báo buổi chiều lên. Đôi khi tôi nghĩ bố Atticus đã bình tĩnh đánh giá mọi cuộc khủng hoảng của cuộc đời ông đằng sau mấy tờ The Mobile Register, The Birmingham News và The Montgomery Advertiser.

“Họ đang rầy rà bố, phải không?” Jem đi đến bên ông. “Họ muốn bắt bí bố, đúng không?”

Bố Atticus hạ tờ báo xuống nhìn Jem. “Con đã đọc cái gì vậy?” Ông hỏi. Rồi ông nói nhẹ nhàng. “Không, con trai, những người đó là bạn của chúng ta.”

“Đó không phải là một… một băng đảng hả?” Jem liếc nhìn bố.

Bố Atticus cố nén một nụ cười nhưng không được. “Không, chúng ta không có những băng đảng và thứ nhảm nhí đó ở Maycomb. Bố chưa từng nghe nói ở Maycomb có một băng đảng.”

“Có lần băng Ku Klux truy đuổi mấy người Thiên chúa giáo.”

“Bố cũng chưa từng nghe có bất cứ người Thiên chúa giáo nào ở Maycomb,” bố Atticus nói, “con đã nhầm chuyện đó với một điều gì khác. Hồi khoảng năm 1920 có một đảng Klan, nhưng đó là một tổ chức chính trị hơn là bất cứ gì khác. Ngoài ta họ không thể tìm ra bất cứ ai để dọa. Có đêm họ tụ tập ở cạnh nhà ông Sam Levy, nhưng Sam chỉ đứng ở hiên nhà ông và bảo họ mọi thứ đã đến chỗ bi đát, ông đã bán cho họ chính những tấm vải trên lưng họ. Sam đã khiến họ quá xấu hổ về bản thân họ đến họ đã bỏ đi.”

Dòng họ Levy đã hội đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành Những Người Tốt; họ làm việc tốt hết sức mình với ý thức mà họ có được, và họ đã sống trên cùng một khu đất ở Maycomb trong năm thế hệ.

“Đảng Ku Klux đã biến mất,” bố Atticus nói. “Nó sẽ không bao giờ trở lại.”

Tôi đi về nhà cùng Dill và trở lại đúng lúc nghe được bố Atticus nói với bác, “…….

Vì lợi ích của phụ nữ miền Nam cũng như bất cứ ai, nhưng không vì bảo tồn sự giả tạo lịch sự mà làm tổn hại đến mạng sống con người,” một tuyên bố vốn khiến tôi e rằng họ lại cãi nhau nữa.

Tôi đi tìm Jem và thấy anh trong phòng, nằm trên giường chìm sâu vào suy tư. “Họ lại cãi nhau nữa hả?” Tôi hỏi.

“Đại khái vậy. Bác ấy sẽ không để bố yên với vụ Tom Robinson đâu. Bác ấy gần như nói rằng bố Atticus đã làm nhục cả dòng họ. Scout… Anh sợ.”

“Sợ cái gì?”

“Sợ cho bố Atticus. Ai đó có thể làm tổn thương bố.” Jem thích giữ vẻ bí ẩn; trước những câu hỏi của tôi anh chỉ nói là đi chỗ khác và để anh yên.

Ngày hôm sau là Chủ nhật. Trong lúc nghỉ giữa buổi học giáo lý và lễ nhà thờ khi

giáo đoàn nghỉ giải lao tôi thấy bố Atticus đứng trong sân với một nhóm người khác. Ông Heck Tate cũng có mặt, và tôi tự hỏi phải chăng ông ta đã trở nên sùng đạo. Ông ta chưa bao giờ đến nhà thờ. Cả ông Underwood cũng có mặt ở đó. Ông Underwood không chịu nổi bất cứ tổ chức nào trừ tòa báo The Maycomb Tribune, mà ông là chủ, biên tập viên, kiêm luôn thợ in. Suốt ngày ông ở bên dàn máy sắp chữ, thỉnh thoảng ông lại rót cho mình một ly từ bình rượu dâu nằm thường trực gần đó. Ông hiếm khi đi thu lượm tin tức; người ta đưa nó đến cho ông. Người ta nói rằng ông hình thành mọi số báo The Maycomb Tribune từ trong đầu ông và viết nó ra với dàn máy sắp chữ. Đây là điều có thể tin được. Hẳn có một thứ gì đó đã đến lôi ông Underwood ra.

Tôi thấy bố Atticus bước đến cửa, và nói rằng họ đã chuyển Tom Robinson đến nhà tù Maycomb. Ông cũng nói, với chính ông hơn là với tôi, rằng nếu họ giữ anh ta ở đó ngay từ đầu thì đã không có chuyện nhộn nhạo nào. Tôi nhìn ông kiếm chỗ ngồi ở hàng thứ ba từ trên xuống, và nghe ông lầm bầm, “Chúa ở cùng anh chị em,” chậm hơn tất cả chúng tôi. Ông không bao giờ ngồi cùng với bác Alexandra, Jem và tôi. Ông thích ngồi một mình trong nhà thờ.

Sự thanh bình giả tạo vốn phổ biến vào những ngày Chủ nhật càng trở nên khó chịu hơn với sự có mặt của bác Alexandra. Bố Atticus sẽ lánh thẳng về văn phòng ông ngay sau bữa ăn, ở đó nếu thỉnh thoảng nhìn vào, chúng tôi sẽ thấy ông ngồi dựa lưng vào chiếc ghế xoay và đọc. Bác Alexandra tự cho phép mình chợp mắt hai tiếng và cấm không cho chúng tôi gây bất cứ tiếng động nào trong sân, hàng xóm đang nghỉ ngơi. Jem trong cái tuổi chín chắn của anh đã ôm vào phòng mình một đống tạp chí bóng bầu dục. Vì vậy Dill và tôi dành những ngày Chủ nhật của mình bò quanh tronh bãi Hoẵng sau nhà.

Việc săn bắn vào ngày Chủ nhật bị cấm, vì vậy Dill và tôi đã quả bóng của Jem quanh cánh đồng một lát, một việc chẳng thú vị gì. Dill hỏi tôi liệu tôi có thích chọc ghẹo Boo Radley không. Tôi nói tôi nghĩ chẳng tốt đẹp gì khi quấy rầy ông ta, và dành buổi chiều còn lại để kể cho Dill nghe những sự việc xảy ra hồi mùa đông năm ngoái. Nó bị ấn tượng mạnh.

Chúng tôi chia tay vào giờ ăn tối, và sau bữa ăn khi Jem và tôi đang bắt đầu một buổi tối như thường lệ thì bố Atticus làm một việc khiến chúng tôi chú ý: ông bước vào phòng khách mang theo sợi dây điện dài. Có một bóng đèn ở đầu dây.

“Bố sẽ ra ngoài một lát,” ông nói. “Các con chắc đã ngủ khi bố về, vì vậy bây giờ bố sẽ chúc tụi con ngủ ngon trước.”

Nói xong, ông đội mũ và đi ra cửa sau.

“Bố đi lấy xe,” Jem nói.

Bố chúng tôi có vài thói quen lập dị: một là ông không bao giờ ăn tráng miệng; một điều khác nữa là ông thích đi bộ. Theo trí nhớ của tôi, luôn luôn có một chiếc Chevrolet trong tình trạng cực tốt ở nhà xe, và bố Atticus chỉ dùng đến nó trong những chuyến đi xa vì công việc, nhưng ở Maycomb ông đi bộ tới văn phòng làm việc mỗi ngày bốn lần đi và về, tổng cộng khoảng hai dặm. Ông nói việc tập thể dục duy nhất của ông là đi bộ. Ở Maycomb, nếu một người đi dạo không có mục đích rõ rệt trong đầu, thì người ta tin rằng đầu óc của người đó không có khả năng nghĩ ra một mục đích rõ ràng.

Sau đó, tôi chúc bác và anh trai tôi ngủ ngon rồi chìm đắm vào một cuốn sách, khi đó tôi nghe Jem lục đục trong phòng anh. Những âm thanh trước khi ngủ của anh quá quen thuộc với tôi đến độ tôi gõ cửa phòng anh, “Sao anh chưa đi ngủ?”

“Anh sẽ xuống thị trấn một lát.” Anh đang thay quần.

“Chi vậy? Gần mười giờ rồi, Jem.”

Anh biết điều đó, nhưng anh vẫn đi như thường.

“Vậy em sẽ đi với anh. Nếu anh nói em đừng đi, thì em cũng cứ đi, nghe không?”

Jem thấy rằng anh phải đánh nhau với tôi để buộc tôi ở nhà, và tôi cho rằng anh nghĩ việc đánh nhau sẽ làm phiền bác, nên anh miễn cưỡng cho tôi đi theo.

Tôi mặc đồ thật nhanh. Chúng tôi chờ cho đến khi đèn của bác tắt, và chúng tôi đi thật nhẹ xuống những bậc thềm sau nhà. Tối nay không có trăng.

“Dill sẽ muốn đi đó,” tôi thì thào.

“Thì nó cứ muốn,” Jem rầu rĩ nói.

Chúng tôi phóng qua bức tường cạnh đường xe chạy, đi qua sân bên hông nhà cô Rachel đến cửa sổ phòng Dill. Jem huýt sáo. Khuôn mặt Dill xuất hiện ngay khung cửa lưới, biến mất, và năm phút sau cậu ta mở chốt cửa lưới và bò ra. Là một tay lão luyện, nó không nói gì cho đến khi chúng tôi ra đến vỉa hè. “Đi đâu?”

“Jem đi lòng vòng chơi,” một tình trạng mà Calpurnia nói tất cả bọn con trai đều mắc phải ở tuổi anh.

“Tớ chỉ mới có cảm giác này,” Jem nói, “đúng cái cảm giác này.”

Chúng tôi đi ngang nhà bà Dubose, nó vắng vẻ và các cánh cửa đóng kín, những cây hoa trà của bà mọc chen lẫn cỏ dại. Còn tám ngôi nhà nữa mới tới góc phố bưu điện.

Cạnh Nam của quảng trường vắng hoe. Những bụi cây bách tán khổng lồ che phủ một góc đường, và chạy giữa chúng là một con đường sắt lấp lánh dưới ánh sáng đèn đường. Một ngọn đèn chiếu sáng trong nhà vệ sinh của hạt, thường thì phía đó của tòa án tối om om. Một vòng lớn hơn gồm các cửa hàng vây quanh quảng trường tòa án; những ngọn đèn sáng mờ mờ ở sâu bên trong những cửa hàng đó.

Văn phòng của bố Atticus nằm bên trong tòa án hồi ông bắt đầu hành nghề, nhưng sau vài năm ông chuyển đến một khu yên tĩnh hơn trong tòa nhà ngân hàng Maycomb. Khi quẹo ở góc quảng trường, chúng tôi thấy xe của ông đậu trước cửa ngân hàng. “Bố ở trong đó,” Jem nói.

Nhưng ông không có ở đó. Muốn đến văn phòng ông phải đi qua một hành lang dài. Nhìn theo hành lang, chúng tôi thường thấy dòng Atticus Finch, Luật sư bằng những

chữ nhỏ thanh tú nổi bật trên ánh sáng từ bên trong cánh cửa phòng ông. Lúc này nó tối thui.

Jem nhìn vào cửa ngân hàng cho chắc ăn. Anh xoay nắm cửa. Cửa đã khóa. “Mình đi tiếp. Chắc bố đến gặp ông Underwood.”

Ông Underwood không chỉ điều hành tòa soạn từ The Maycomb Tribune, ông còn sống trong đó. Đúng ra là ở tầng trên đó. Ông tường thuật tin tức tòa án và nhà tù đơn giản bằng cách nhìn qua cửa sổ trên lầu của mình. Ngôi nhà tòa soạn nằm ở góc Tây Bắc cửa quảng trường, và muốn tới đó chúng tôi phải đi qua nhà tù.

Nhà tù Maycomb là một trong những tòa nhà đáng ngán nhất và khủng khiếp nhất trong số các công sở của hạt. Bố Atticus nói có vẻ như nó do người bà con Joshua St. Clair thiết kế. Nó chắc chắn là ước mơ của ai đó. Hoàn toàn lạc điệu trong một thị trấn gồm những cửa hàng quay mặt ra quảng trường và những ngôi nhà mái dốc, nhà tù Maycomb là một trò đùa kiểu Gothic thu nhỏ với chiều ngang bằng một xà lim và cao bằng hai xà lim rồi có cả những lỗ châu mai nhỏ xíu và cột vòm chống đỡ tường. Sự tưởng tượng của nó được tăng thêm bởi mặt tiền xây bằng gạch đỏ và những thanh chắn bằng thép dày tại các cửa sổ kiểu nhà thờ. Nó không nằm trên một ngọn đồi trơ trụi, mà chen giữa Cửa hàng kim khí Tyndal và tòa soạn tờ The Maycomb Tribune. Nhà tù là câu chuyện đáng bàn duy nhất của Maycomb: những kẻ chê bai nói nó giống một nhà vệ sinh thời Victoria;những kẻ ủng hộ nói nó tạo cho thị trấn một vẻ nghiêm trang rõ rệt, và không một người lạ nào từng nghi ngờ chuyện nó chứa đầy bọn mọi đen.

Khi đi theo vỉa hè, chúng tôi thấy một ánh đèn lẻ loi sáng ở đằng xa. “Thật buồn cười,” Jem nói, “nhà tù không có đèn phía ngoài.”

“Nhìn như có đèn phía trên cánh cửa,” Dill nói.

Một đoạn dây điện dài chui qua song sắt của cửa sổ xà lim tầng hai và thả xuống hông tòa nhà. Trong ánh sáng từ bóng đèn trần trụi ở đầu dây, bố Atticus đang ngồi

dựa vào cửa trước. Ông ngồi trên một trong những chiếc văn phòng của ông, và ông đang đọc, không để ý đến những con thiêu thân bay lảng vảng trên đầu ông.

Tôi định chạy đến, nhưng Jem ngăn lại. “Đừng đến chỗ bố,” anh nói, “có thể bố không thích thế. Bố ổn cả, tụi mình về đi. Anh chỉ muốn biết bố ở đâu thôi.”

Khi chúng tôi đi tắt qua quảng trường thì có bốn chiếc xe hơi đầy bụi đường xuất hiện từ phía xa lộ Medirian, chạy chầm chậm thành một hàng. Chúng chạy vòng quảng trường, qua tòa nhà ngân hàng, và dừng lại trước nhà tù.

Không ai bước ra. Tôi thấy bố Atticus rời mắt khỏi tờ báo ngước nhìn lên. Ông gấp nó lại, cuộn nó một cách cẩn thận, đặt lên đùi, và đẩy mũ ngược ra sau đầu. Có vẻ ông đang đợi họ.

“Tới coi,” Jem thì thào. Chúng tôi phóng qua quảng trường, băng qua đường, và núp ngay cửa siêu thị Jitney Jungle. Jem nhìn theo lề đường. “Tụi mình có thể đến gần hơn,” anh nói. Chúng tôi chạy đến khung cửa của Cửa hàng kim khí Tyndal – đủ gần, mà vẫn kín đáo.

Từng người hoặc từng hai người một bước ra khỏi xe. Những cái bóng biến thành hình khối cụ thể khi ánh đèn cho thấy các hình dáng rõ ràng di chuyển về phía cửa nhà tù. Bố Atticus vẫn đứng chỗ cũ. Những người đàn ông đó ché khuất ông khỏi tầm mắt chúng tôi.

“Hắn ở trong đó hả, ông Finch?” Một người hỏi.

“Phải,” chúng tôi nghe bố Atticus trả lời, “anh ta ngủ. Đừng đánh thức anh ta.”

Nghe lời bố tôi, sự việc diễn ra sau đó là điều mà sau này tôi hiểu ra là một khía cạnh khôi hài đáng ngán của một tình huống không vui vẻ gì: những người đó nói chuyện gần như thì thào.

“Ông biết chúng tôi muốn gì mà,” một người khác nói. “Tránh khỏi cái cửa đó đi, ông

Finch.”

“Ông có thể quay lưng về nhà đi, Walter,” bố Atticus nói một cách thoải mái, “Heck Tate đang ở quanh đâu đây.”

“Mặc xác ông ta,” người khác đó nói. “Cả đám của Heck đã vào tuốt trong rừng và tới sáng họ mới về.”

“Thật ư? Sao lại thế?”

“Bọn họ đi săn dẽ giun[56] rồi,” một câu trả lời ngắn gọn. “Ông chưa hề nghĩ về trò đó hả, ông Finch?”

“Từng nghĩ đến, nhưng không tin. Vậy,” giọng bố tôi vẫn đều đều, “điều đó làm thay đổi mọi việc, phải không?”

“Vậy đó,” một giọng khác lên tiếng. Người nói là một bóng đen.

“Ông thực sự nghĩ thế à?”

Đây là lần thứ hai tôi nghe bố Atticus hỏi câu hỏi đó trong hai ngày, và điều đó nghĩa là người của ai đó sẽ phải nhảy dựng lên. Vụ này quá hay không thể bỏ lỡ. Tôi bỏ Jem và phóng thật nhanh đến chỗ bố Atticus.

Jem hét lên và cố túm tôi lại, nhưng tôi đã bỏ xa anh và Dill. Tôi chen lấn qua những thân thể hôi hám tối thui và ào vào vòng ánh sáng.

“Ch…ào bố Atticus!”

Tôi nghĩ ông sẽ ngạc nhiên thú vị, nhưng khuôn mặt ông giết chết niềm vui của tôi. Một vẻ sợ hãi hiện ra trong mắt ông, nhưng biến mất khi thấy Jem và Dill chen vào chỗ ánh đèn.

Có mùi Whisky lên men và mùi chuồng heo phảng phất, khi nhìn quanh tôi phát hiện

ra rằng những người này toàn là những kẻ lạ hoắc. Họ không phải là người tôi đã thấy tối qua. Tôi hết sức lúng túng: tôi đã phóng một cách đắc thắng vào đám người mà tôi chưa từng gặp trước đây.

Bố Atticus đứng dậy khỏi ghế, nhưng ông di chuyển một cách chậm chạp, giống một ông già. Ông đặt tờ báo xuống một cách cẩn thận, sửa những nếp gấp của nó bằng những ngón tay chần chừ. Chúng hơi run.

“Về nhà đi, Jem,” ông nói. “Dẫn Scout với Dill về.”

Chúng tôi đã quan với việc nhắc nhở, nhưng không phải lúc nào cũng vui vẻ nghe theo những chỉ thị của bố Atticus, nhưng theo kiểu anh ấy đứng thì Jem không nghĩ đến việc nhúc nhích.

“Bố bảo về nhà.”

Jem lắc đầu. Khi bố Atticus chống nạnh, Jem cũng chống nạnh, và khi họ đối mặt nhau tôi có thể thấy họ ít giống nhau: đôi mắt và mái tóc nâu mềm mại của Jem, khuôn mặt trái xoan và đôi tai ép sát của anh là của mẹ chúng tôi, tương phản kỳ lạ với mái tóc xám bạc và những đường nét cương nghị của bố Atticus, nhưng họ giống nhau theo kiểu nào đó. Sự thách thức lẫn nhau khiến họ giống nhau.

“Con trai, bố bảo về nhà.”

Jem lắc đầu.

“Tôi sẽ đưa cậu ta về nhà,” một người đàn ông lực lưỡng nói, và thô bạo chộp lấy cổ áo Jem. Ông ta gần như nhấc hẳn Jem lên khỏi mặt đất.

“Ông không được đụng vào anh ấy!” Tôi lẹ làng đá người đó. Chỉ có chân trần, tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta lui lại với vẻ đau đớn thật sự. Tôi định đá vào xương ống chân ông ta, nhưng lại nhắm quá cao.

“Thôi đi, Scout,” bố Atticus đặt tay lên vai tôi. “Đừng đã người ta. Đừng…” Ông nói,

khi tôi đang kiếm cớ bào chữa.

“Không ai được đối đãi với Jem kiểu đó,” tôi nói.

“Được rồi, ông Finch, đưa chúng tránh khỏi chỗ này,” ai đó gầm gừ. “Ông có mười lăm giây để đưa chúng khỏi chỗ này.”

Giữa nhóm người lạ này, bố Atticus cố làm cho Jem nghe lời ông. “Con không đi,” là câu trả lời kiên quyết của anh trước những đe dọa, yêu cầu, và cuối cùng là câu, “Bố xin con, Jem, đưa tụi nó về nhà đi,” của bố Atticus.

Tôi cảm thấy hơi mệt với chuyện này, nhưng cảm thấy Jem có những lý do của anh ấy để phản ứng như anh đã làm, trước viễn cảnh của anh một khi bố Atticus lôi được anh về nhà. Tôi nhìn quanh đám đông. Đó là một đêm hè, nhưng hầu hết những người này mặc quần áo bảo hộ lao động và áo sơ mi cài nút đến tận cổ. Tôi nghĩ những người này bị lạnh bẩm sinh, vì họ không xắn tay áo lên mà cài nút tới tận cổ tay. Một số đội mũ kéo sụp đến tận tai. Họ là những con người trông cau có, mắt ngái ngủ có vẻ không quen thức khuya. Tôi lại đảo mắt tìm một khuôn mặt quen thuộc, và ngay giữa đám người đứng thành vòng cung tôi tìm thấy một khuôn mặt như thế.

“Chào ông Cunningham.”

Có vẻ như người đó không nghe tiếng tôi.

“Chào ông Cunningham. Vụ tài sản thừa kế của ông tới đâu rồi?”

Những sự vụ pháp lý của ông Walter Cunningham tôi đã quá rành; bố Atticus có lần mô tả chúng rất kỹ. Người đàn ông to lớn này nhấp nháy mắt và móc ngón tay cái của ông ta và dây quai của bộ đồ bảo hộ lao động. Ông ta có vẻ không thoải mái; ông ta hắng giọng và nhìn chỗ khác. Khúc dạo đầu thân thiện của tôi đã thất bại.

Ông Cunningham không đội mũ, và nửa trán phía trên của ông ta trắng bệch tương phản với khuôn mặt rám nắng của ông, điều đó khiến tôi tin rằng ông ta hầu như ngày

nào cũng đội mũ. Ông nhúc nhích bàn chân trong đôi giày lao động nặng nề.

“Ông không nhớ cháu hả, ông Cunningham? Cháu là Jean Louise Finch. Có một lần ông đã mang cho tụi cháu một mớ hồ đào, nhớ không?” Tôi bắt đầu cảm thấy sự vô ích mà người ta cảm thấy khi một người quen tình cờ không nhận ra họ.

“Cháu đi học cùng với Walter,” tôi lại bắt đầu. “Nó là con trai của ông, đúng không? Đúng không, ông?”

Ông Cunningham miễn cưỡng gật đầu. Rốt cuộc là ông có biết tôi.

“Bạn ấy học chung với cháu,” tôi nói, “bạn ấy học khá. Bạn ấy tốt lắm,” tôi nói thêm, “một cậu trai thực sự tốt. Có lần tụi rủ bạn ấy về nhà ăn trưa. Có lẽ bạn ấy có nói với ông về cháu, có lần cháu đánh bạn ấy, nhưng bạn ấy vẫn thật thoải mái với chuyện đó. Nhờ ông cho cháu gửi lời chào bạn ấy, được không?”

Bố Atticus đã từng nói rằng lịch sự là nói với người khác về những gì họ quan tâm, chứ không nói về những gì mình quan tâm. Ông Cunningham không biểu lộ sự quan tâm đến con trai ông, vì vậy tôi nói về vụ hạn chế thừa kế của ông ấy một lần nữa trong nỗ lực cuối cùng để khiến ông ấy cảm thấy thoải mái.

“Những khoản hạn chế thừa kế thì thiệt tệ,” tôi góp ý với ông ta, rồi tôi từ từ nhận ra rằng tôi đang nói chuyện với cả nhóm người đó. Tất cả đều nhìn tôi, một số người há hốc miệng. Bố Atticus đã thôi thúc giục Jem: họ đang đứng bên cạnh Dill. Sự chú ý của họ đã lên tới mức ngây cả người. Miệng bố Atticus thậm chí hơi há ra, một cử chỉ mà ông từng mô tả là thô lậu. Mắt chúng tôi chạm nhau và ông nhắm lại.

“Bố Atticus, con đang nói với ông Cunningham rằng vụ hạn chế thừa kế thiệt là tệ, và nhiều điều khác nữa, nhưng bố đã nói là đừng lo, đôi khi nó mất nhiều thời gian.. rằng…bố với ông ấy sẽ xoay xở vượt qua được….” Tôi từ từ ngừng nói, tự hỏi mình

đã phạm phải sự ngu xuẩn lớn lao gì đây. Vụ hạn chế thừa kế có vẻ như rất phù hợp cho một cuộc nói chuyện ở phòng khách.

Tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi túa ra từ chân tóc, tôi có thể chịu đựng mọi thứ trừ chuyện một nhóm người cứ nhìn tôi chòng chọc. Họ đứng im hoàn toàn.

“Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

Bố Atticus chẳng nói gì. Tôi nhìn quanh và nhìn lên ông Cunningham, khuôn mặt của ông cũng không để lộ cảm xúc nào. Rồi ông làm một việc lạ kỳ. Ông ngồi xuống nắm hai vai tôi.

“Tôi sẽ nói với nó cô gửi lời chào, quý cô bé bỏng,” ông nói.

Rồi ông đứng thẳng dậy, vẫy bàn tay to bè. “Chúng ta giải tán,” ông gọi to. “Chúng ta đi thôi, các bạn.”

Như khi họ đến, từng người hoặc từng hai người lại chui vào những chiếc xe cũ nát của họ. Cửa đóng sầm lại, máy nổ khục khặc, và họ đi mất.

Tôi quay sang bố Atticus, nhưng bố Atticus đã đi đến nhà tù và tựa người quay mặt vào tường. Tôi đến bên ông kéo tay áo ông. “Mình về nhà bây giờ được chưa?” Ông gật đầu, lấy khăn tay ra lau khắp mặt và thở phì thật mạnh.

“Ông Finch?”

Một giọng khàn khàn nhỏ nhẹ từ chỗ tối bên trên, “Họ đi rồi hả?”

Bố Atticus lùi lại, nhìn lên. “Họ đi hết rồi,” ông nói. “Ráng ngủ chút đi, Tom. Họ sẽ không quấy rầy anh nữa đâu.”

Từ hướng khác, một giọng nói nữa cắt thẳng qua bóng đêm. “Ông đúng quá rồi chúng sẽ không quấy rầy nữa đâu. Tôi rình sẵn yểm trợ ông nãy giờ đó, Atticus.”

Ông Underwood và khẩu súng hai nòng thò ra cửa sổ bên trên tòa soạn tờ The Maycomb Tribune.

Đã quá giờ ngủ của tôi lâu rồi và tôi càng lúc càng mệt; có vẻ như bố Atticus với ông Underwood sẽ nói chuyện suốt đêm. Ông Underwood từ cửa sổ chõ xuống và bố Atticus nói vọng lên chỗ ông ta. Cuối cùng bố Atticus quay lại, tắt ngọn đèn bên trên cửa nhà tù, và cầm ghế của ông lên.

“Để cháu mang nó cho, ông Finch,” Dill nói. Nãy giờ nó không nói một lời.

“Ô, cảm ơn, con trai.”

Đi về phía văn phòng, Dill và tôi đi sau bố Atticus và Jem. Dill bị cái ghế làm vướng chân nên bước đi của nó chậm hơn. Bố Atticus và Jem đã bỏ xa chúng tôi, và tôi cho rằng bố Atticus đang rầy la anh vì không chịu về nhà, nhưng tôi đã lầm. Khi họ đi qua dưới anh đèn đường, bố Atticus đưa tay xoa đầu Jem, một cử chỉ trìu mến của ông.

Bình luận