Tại dạ tiệc, dàn ca múa tuy rộn ràng nhưng không có vẻ uyển chuyển tuyệt mỹ như ở Hán cung bởi ca múa của người Hung Nô luôn có một khí chất hào phóng độc đáo riêng. Y Trĩ Tà nâng ly lên, không ngừng trầm trồ khen ngợi, “Tuý Nhân Diện quả nhiên có mùi vị không giống các loại rượu bình thường. Vừa mở bình ra, mùi hương mê say lòng người đã lan tỏa bốn phía. Chưa cần uống, chỉ cần nhẹ nhàng ngửi qua cũng đủ khiến người ta say rồi.”
Tâm tư của Hách Liên Ngự Thuấn thì không hề đặt ở việc xem ca múa, cũng không đặt ở việc xem các dũng sĩ thi đấu mà chỉ im lặng uống rượu, ánh mắt vẫn không ngừng nhìn chằm chằm Y Trĩ Tà cùng Sở Lăng Thường ở cách đó không xa.
Hai người họ đều cùng ngồi ở một bên cho nên nói điều gì thì về căn bản Hách Liên Ngự Thuấn đều có thể nghe được.
Y Trĩ Tà nói rất nhiều chuyện, thỉnh thoảng còn cất tiếng cười sảng khoái, trông thực sự hòa hợp với không khí của buổi ca múa tối nay. Sở Lăng Thường thì ngồi ngay ngắn ở đó, Y Trĩ Tà hỏi cái gì nàng trả lời cái đó. Toàn bộ quá trình chỉ nhẹ nhàng mỉm cười, cảm xúc cũng không biến đổi nhiều, thực giống như một bông hoa lặng lẽ nở rộ. Cho dù ở giữa một đám đông náo nhiệt thì chỉ cần liếc mắt cũng đủ nhận thấy từ nàng toát ra sự khác biệt.
Suốt bữa tiệc, tuy Hách Liên Ngự Thuấn có thân phận là chủ nhân nhưng lại chẳng khác nào người ngoài cuộc, dường như hắn không hợp với sự náo nhiệt nơi này, sắc mặt cũng không dễ coi cho lắm mà chỉ ngồi đó uống từng ngụm rượu.
Sở Lăng Thường không uống được rượu nên dùng trà để thay thế, mà Y Trĩ Tà cũng không hề miễn cưỡng nàng. Ông ta đối với nàng luôn luôn tao nhã khiến nàng thực sự phải nhìn ông ta với con mắt khác trước. Nàng đã từng nghe về Tả Cốc Lễ vương Y Trĩ Tà này từ miệng sư huynh. Ở Hung Nô ông ta có danh hiệu Mỹ ngọc chi vương bởi ông ta là người tính tình ôn nhuận, tao nhã, nói chuyện và làm việc đều có chừng mực. Bởi ông ta không chủ trương dùng võ lực mở rộng biên giới nên với hoàng huynh của mình – Thiền Vu Quân Thần không hợp nhau lắm.
Nay tận mắt nhìn thấy ông ta, nàng có thể cảm nhận được ông ta là người ôn hòa chững chạc, chỉ tiếc thời loạn này vốn chỉ dựa vào võ lực để thu phục người khác, ý nghĩ của ông ta xem chừng cũng chỉ hoài phí mà thôi.
Nhưng mà “Loạn thế xuất anh hùng” vốn là chuyện không có gì bàn cãi. Sở Lăng Thường kín đáo nhìn thoáng qua phía Hách Liên Ngự Thuấn đang ngồi ở vị trí chủ nhân, thấy hắn uống một hơi cạn sạch ly rượu thì tâm tình cũng hơi trùng xuống. Tuy nàng không chịu thừa nhận hắn là anh hùng, nhưng trên thực tế, hắn thực sự là người phù hợp nhất với danh hiệu đó. Một anh hùng sẽ không câu nệ tiểu tiết, làm việc gì cũng có dũng khí để gánh vác hậu quả, so sánh với Tả Cốc Lễ vương, lực tấn công của Hách Liên Ngự Thuấn càng mạnh, sự ôn hòa tạm thời hôm nay cũng không chứng minh được điều gì.
Nhưng không thể không thừa nhận, Tả Cốc Lễ vương Y Trĩ Tà sẽ là một tri kỷ tốt nhất trong đời. Trí tuệ của ông ta, học thức uyên bác của ông ta, sự tao nhã của ông ta tựa như một dòng suối từ trên cao đổ xuống, thấm vào lòng người, khiến người ở bên cạnh không hề cảm thấy áp lực, dường như càng tình nguyện đem tâm sự trong lòng nói ra.
Suốt buổi tiệc, hai người họ nói chuyện rất vui vẻ. Đối với việc Sở Lăng Thường quét sạch mười vạn đại quân, Y Trĩ Tà tuy cực kỳ ngạc nhiên nhưng cũng không bởi thế mà thống hận nàng, mà còn cực kỳ có cảm tình. Sở Lăng Thường nói chuyện cùng ông ta sẽ không có cảm giác quá mệt mỏi, cũng không phải luôn đề phòng như với Hách Liên Ngự Thuấn. Y Trĩ Tà cũng rất thông minh, nhưng không giống như Hách Liên Ngự Thuấn, khiến người ta có một cảm giác thâm sâu khó lường.
Lúc bàn luận đến y thuật, Y Trĩ Tà không kìm lòng được cất tiếng tán thưởng, “Không ngờ Sở công tử lại tâm đắc với y thuật như vậy, học thức của công tử thực khiến nhiều phu tử, đại phu phải kính nể.”
Đối với những lời tán thưởng, Sở Lăng Thường chưa bao giờ tỏ ra kiêu hãnh, nàng chỉ nhẹ nhàng cong môi, nở nụ cười yếu ớt để chống đỡ. Y Trĩ Tà thực rất biết chăm sóc người khác, xem ra đã sớm biết thân phận nữ nhi của nàng nhưng lại không hề vạch trần nàng.
“Sở công tử không để ý chuyện quan lại trong Hán cung phản đối, vẫn dùng tuyệt học trị liệu cho Cảnh Đế, chuyện đó ta cũng nghe được, đủ để thấy y thuật của công tử rất cao siêu.” Y Trĩ Tà nhẹ nâng chén rượu, “Không bằng xem giúp xem ta có bệnh ngầm gì hay không?”
Sở Lăng Thường thấy ông ta có ý mời rượu, liền nhẹ nhàng nâng chén trà lên, ngón tay trắng muốt mềm mại cầm lấy ly trà nhẹ nhàng chạm với ly rượu của ông ta, dịu dàng cười, “Nhìn sắc mặt của vương gia thì không có bệnh ngầm gì.”
“Ta nghe nói y thuật vốn coi trọng “vọng (nhìn, quan sát), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi bệnh), thiết (sờ nắn, bắt mạch)”. Sở công tử chỉ liếc nhìn như vậy sao có thể biết được có bệnh hay không?” Y Trĩ Tà cười nhẹ, hỏi lại nàng.
“Y thuật quả thực coi trọng “vọng, văn, vấn, thiết”, nguyên nhân là bởi trên thân thể có thể ẩn dấu được bệnh tật nhưng sắc mặt sẽ thể hiện cực kỳ rõ ràng. Đây cũng chính là “vọng” xếp hàng đầu trong đạo lý chẩn bệnh. Sắc mặt vương gia hồng hào khỏe mạnh, tiếng nói ôn nhuận hữu lực, thực sự là người khỏe manh.” Sở Lăng Thường nhẹ nhàng đáp lại.
Y Trĩ Tà gật đầu cười, “Sở công tử nói vậy thật khiến ta nghĩ tới một người, đó chính là thần y Biển Thước của người Hán các vị. Nghe nói y thuật của Biển Thước cực cao, thời Chiến quốc thường du tẩu khắp các nước chư hầu, từng ba lần nói Thái Hoàn Công có bệnh kín, chỉ tiếc Thái Hoàn Công chẳng những không nghe mà còn chế nhạo ông ấy, cuối cùng bệnh của Thái Hoàn Công không có thuốc nào chữa khỏi mà chết đi, thật sự đáng tiếc.”
“Thời Chiến quốc có nhiều người tài, tôi chỉ là một người lỗ mãng, đâu dám sánh với thần y Biển Thước. Con người vốn có tâm lý không thích nói về chuyện bệnh tật, lúc trước Thái Hoàn Công cũng vậy. Bệnh ngoài da không trị dứt sẽ để lại sẹo, bệnh bên trong không trị thì sẽ vô vọng, đến cuối cùng ngay cả thần y cũng vô lực cứu chữa. Cho nên có bệnh thì phải trị liệu càng sớm càng tốt. đúng như thần y Biển Thước đã nói, “Bệnh ngoài da trị ngay sẽ mau khỏi, bệnh ở cơ bắp không trị sẽ gây đau nhức, bệnh ở tràng vị sẽ gây bức bối, bệnh ở cốt tủy ắt nguy hiểm tính mạng. Làm nghề y sợ nhất là gặp loại bệnh như của Thái Hoàn Công vậy.”
“Nghe công tử nói chuyện còn hơn là đọc sách mười năm. Hôm nay thực khiến ta được mở mang kiến thức.” Ánh mắt Y Trĩ Tà nhìn nàng càng thêm khâm phục cùng mê luyến rồi lại tiếp tục cất lời, “Biển Thước cũng là nhân tài mà Hung Nô ta từng muốn thu nạp, chỉ tiếc là không có cơ hội.” Nay y thuật của Sở công tử cao minh như vậy, chẳng bằng để ta dẫn tiến, cùng vào hoàng thành, công tử thấy sao?”
“A? Trái tim Sở Lăng Thường không khỏi đập rộn lên nhưng lại cố ý giả ngốc lên tiếng, “Chẳng lễ thân thể của Thiền Vu có chỗ nào không khỏe?”
“Thiền Vu thường xuyên đau đầu không chịu nổi, ngự y trong hoàng thành cũng không có biện pháp trị dứt. Sở công tử chẳng bằng đi xem thử một chuyến.” Y Trĩ Tà cười nói thêm, “Thiền Vu luôn là người coi trọng anh tài, nếu có được sự tương trợ của Sở công tử, Hung Nô ta sẽ càng thêm quốc thái dân an, cơm no áo ấm, không phải sao?”
Xem bệnh chỉ là một lý do, điều quan trọng hơn chính là muốn nàng xuất đầu lộ diện.
Sở Lăng Thường chỉ cười nhẹ, không nói gì nữa. Tuy rằng mục đích của nàng và ông ta không giống nhau, nhưng có thể vào hoàng thành theo cách đó cũng là một biện pháp.
“Khó có được người Hung Nô có lòng như vương gia.” Nàng thản nhiên nói, cố ý không nhìn Y Trĩ Tà, chỉ nhẹ nhàng đưa ly trà lên nhấp một ngụm.
Muốn câu cá lớn ắt phải thả sợ dây dài, nàng muốn ra khỏi vương phủ này nhưng ra ngoài cũng cần phải có sách lược. Thứ nàng muốn rất đơn giản, chính là quang minh chính đại đi ra khỏi vương phủ này.
Y Trĩ Tà thấy nàng không nói gì nữa cũng cười cười, không cố miễn cưỡng, lại bắt đầu nâng ly uống rượu.