Y Kha uống một ngụm trà rồi lại chậm rãi lên tiếng trấn an Vu Đan, “Nhị vương tử, chỉ cần chúng ta có Trâu Luân hiệp trợ, binh quyền rơi vào tay ngài chỉ là chuyện ngày một ngày hai.”
“Trâu Luân có tỏ thái độ gì hay không?” Vu Đan tò mò hỏi lại.
“Trâu Luân đối với việc Tả hiền vương cưới Sở Lăng Thường đã cảm thấy rất bất mãn. Ông ta sao có thể để mặc cháu gái mình phải đau lòng chứ? Ngày mai cho dù hôn lễ của Hách Liên Ngự Thuấn có thành công hay không thì thế lực của hắn nhất định sẽ bị nghiêng ngả. Đề Nhã đau lòng như vậy nên cũng không còn gì đáng ngại.”
Y Kha ngừng lời một chút rồi lại tiếp tục đem toàn bộ kế hoạch phân tích tỉ mỉ, “Sở Lăng Thường chết rồi, Hách Liên Ngự Thuấn coi như thành một kẻ phế nhân. Tuy bên cạnh hắn có Tả Cốc Lễ vương Y Trĩ Tà nhưng binh lực trong tay ông ta không nhiều nên cũng chẳng đáng lo. Đến lúc đó, chỉ cần nhị vương tử chủ động mượn cơ hội nhắc tới Ấp Thành đang bị thiên tai, xin Thiền Vu cho binh đến đó đồn trú để trấn an lòng dân. Tuy binh quyền lúc đó vẫn ở trong tay Hách Liên Ngự Thuấn nhưng cho dù Thiền Vu có lòng thiên vị thì cũng không thể nào đem một toà thành giao cho một kẻ chán chường quản lý. Chúng ta mượn cơ hội đó lôi kéo Trâu Luân, để ông ta nói lên việc chuyển giao binh quyền, đến lúc đó ngoài nhị vương tử ra, còn ai có thể đảm nhiệm đây?”
Vu Đan trầm ngâm một hồi rồi khoé môi chậm rãi nhếch lên, “Không sai, đúng là “nhi nữ thường tình, anh hùng khí đoản.” Hách Liên Ngự Thuấn đã bị Sở Lăng Thường làm cho đầu óc mê muội, mà Thiền Vu ghét nhất chính là loại người như vậy. Binh quyền của hắn sớm muộn gì cũng rơi vào trong tay ta.”
Thiết Phạt cười ha ha một tiếng, “Nhị vương tử, tóm lại qua ngày mai, tất cả sẽ được định đoạt!”
Trong bầu không khí hắc ám, những âm mưu thâm độc cứ âm thầm diễn ra…
***
Mùng năm, đại hôn…
Ngày đại hôn này, ánh nắng cũng rực rỡ lạ thường…
Sau hôn lễ, Hoa Dương công chúa sẽ chuyển đến Tiêu Vân điện, vì vậy mấy ngày trước, nơi này đã được trang hoàng lại, trông rực rỡ hẳn lên.
Tấm màn mỏng bao phủ quanh chiếc giường bằng gỗ trầm hương rộng tới sáu thước đã được buông xuống, chiếc đệm gấm trên đó được thêu những bông hoa hải đường cực lớn, chiếc chăn bằng tơ lụa thượng hạng cực kỳ mềm mại được xếp khéo léo phía góc trong.
Trong tân phòng còn đặt một viên trân châu cực kỳ trân quý, ánh mặt trời xuyên qua đó tản ra những ánh sáng lấp lánh tinh khiết tựa vầng trăng. Trên sàn, những cánh hoa được xếp thành hình hoa sen với từng cánh ôm lấy nhuỵ hoa cực kỳ sống động, lớp cánh hoa dày đặc đến nỗi bước chân trần trên đó cũng cảm thấy êm dịu, khiến người ta có cảm giác như đang bước trên một thảm hoa mỹ lệ.
Đại hôn của hai vị vương tử có thể nói là chuyện chấn động nhất Hung Nô, toàn thành mở tiệc ăn mừng suốt ba ngày ba đêm. Bên ngoài cung, rượu ngon thịt béo cũng được chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần là dân trong thành đều có thể tự rót tự uống, không cần phải dâng lên lễ vật hay quà tặng gì quý giá mà chỉ cần nói lời chúc cát tường là được.
Trong mấy ngày này, bên ngoài cung mọi người tụ tập ăn mừng, xem náo nhiệt cùng uống rượu cũng càng lúc càng nhiều.
Đèn lồng đỏ đã được chăng khắp các cung điện và kéo dài ra đến tận cửa cung. Không khí khắp trên dưới trong ngoài thành đều mang theo hỉ khí, cánh hoa đào cũng được sử dụng rất nhiều. Có người còn đem cánh hoa đào trải đường từ nội cung tới tận phủ của Tả hiền vương. Hỏi thăm ra mới biết được nguyên nhân đầu tiên là do người dân trong thành làm xuất phát từ lòng kính yêu đối với Hách Liên Ngự Thuấn, hai là có liên quan đến việc nụ cười của hồng nhan trong lòng Tả hiền vương của bọn họ. Chuyện sai người trồng tới mười dặm hoa đào đã sớm truyền ra ngoài, hôm nay lại là ngày đại hỷ của hai người họ nên dân chúng cũng cao hứng làm theo.
Giờ lành vừa đến, tiếng kèn hỉ cũng lập tức vang lên theo đoàn rước kiệu hoa, một nhóm nha hoàn đi phía trước kiệu, trong tay bưng một lẵng đầy cánh hoa đào rải dọc theo hai bên đường đi cùng với túi thơm có bạc hỉ, phân phát cho dân chúng hai bên đường, khiến bọn họ rối rít hô to những tiếng chúc mừng.
Hách Liên Ngự Thuấn cưỡi trên một con tuấn mã cao lớn, ánh mắt dường như có thêm vài phần lấp lánh. Trước ngực hắn có đeo một bông hoa đỏ cùng với hỉ phục bằng lụa quý. Từ trên cao nhìn xuống dân chúng trong thành đang quỳ gối hai bên đường, khoé môi mỏng của hắn hơi nhếch lên tản ra khí phách mạnh mẽ cùng thô ráp, cả người cũng tràn ngập khí chất cao ngạo lạnh lùng của bậc quân vương.
Phía sau hắn là chiếc kiệu lớn tám người khiêng, mái kiệu còn khảm vàng ròng cực kỳ xa hoa tinh tế, khung kiệu làm bằng gỗ quý được chạm khắc tinh xảo, từng đám mây trắng lững lờ trôi phía xa xa khiến người ta nhìn vào có cảm giác như có một mỹ nhân đang nhẹ nhàng kiêu vũ trên nền trời xanh trong.
Hộ vệ hai bên kiệu hoa cũng không hề tỏ ra lơi là mà vẫn cực kỳ nghiêm cẩn làm việc, ánh mắt mỗi người đều không ngừng quan sát tứ phía, một mực ở trong tình trạng cảnh giác cao độ, dù sao hôn lễ lần này cũng là chuyện lớn, cho dù tân lang hay tân nương đều có thân phận không tầm thường.
Rất nhanh chóng, đoàn rước kiệu hoa đi vào trong rung rồi cửa cung chậm rãi đóng lại, tầm mắt mọi người vẫn háo hức dõi theo cũng theo đó bị ngăn chặn.
Bên trong hoàng thành lại là một cảnh tượng khác. Theo đúng quy củ, trước lúc thành hôn cần phải tế trời. Bên ngoài quảng trường của đại điện đã sớm đặt xong bàn tế trời, gỗ mộc cùng đồng xanh đã được chế tác thành biểu tượng tín ngưỡng hình con sói có cánh trông cực kỳ sống động, nhìn vào cũng cảm thấy kinh hãi dị thường.
Thiền Vu Quân Thần, Hách Liên Ngự Thuấn cùng Vu Đan đồng thời tiến lên hoàn thành nghi thức tế trời, cùng chung kỳ nguyện xin trời cao phù hộ cho Hung Nô quốc thái dân an, ngũ cốc được mùa.
Bách quan cùng các tướng lĩnh đều cẩn thận quan sát từng cử chỉ của Thiền Vu Quân Thần. Tế trời là việc mà Lão Thiền Vu luôn đưa thái tử theo để thực hiện, nhưng Thiền Vu Quân Thần đồng thời mang theo hai đứa con trai chứng tỏ trong lòng ông ta vẫn đang có sự cân nhắc.
Suy đoán của bách quan cũng không hề sai lầm. Khi Thiền Vu Quân Thần đem một nén nhang cung kính tế trời, trong đôi mắt đã trải qua không ít phong sương bão táp của ông ta cũng lộ ra một tia mệt mỏi nhìn hai đứa con trai này. Một là lòng bàn tay, một là mu bàn tay, nếu chúng có thể xoá bỏ thù địch cùng nhau đoàn kết thì sẽ khiến Hung Nô ngày càng phồn thịnh, nhưng chuyện này đâu thể được như nguyện.
Không phải ông ta không biết hai đứa con trai mình đang không ngừng minh tranh ám đấu cực kỳ khốc liệt, nhưng đối mặt với chuyện đó, ông ta cũng chỉ có thể nhắm một mắt mở một mắt. Hách Liên Ngự Thuấn là đứa con trai do nữ nhân mà cả đời này ông ta yêu thương nhất sinh ra, cho nên ông ta càng thương hắn, hơn nữa trong xương cốt hắn cũng chảy dòng máu kiêu dũng thiện chiến khiến ông ta càng cảm thấy vui mừng. Vu Đan là do Yên thị sinh ra, tuy Yên thị không phải là người ông ta yêu sâu đậm, nhưng dù sao cũng là người mà ông ta cưới hỏi đàng hoàng, cho dù năm xưa bà ta cũng đã làm một số chuyện không thuận mắt thuận tình nhưng cũng là nhằm duy trì lợi ích gia tộc. Nhiều năm như vậy Yên thị ở bên cạnh ông ta, cho dù không có công lao thì cũng có khổ lao, nể tình của Yên thị, nên ông ta cũng không thể coi thường cảm nhận của Vu Đan.
Tế trời xong, Vu Đan cùng Hách Liên Ngự Thuấn chia ra đứng ở hai bên đại điện. Trên đại điện chia ra ngồi theo thứ tự có Thiền Vu Quân Thần rồi đến Yên thị, vị trí thượng toạ có thêm Dạ Nhai Tích, bên kia thì là chính thất của Hách Liên Ngự Thuấn – Nam Hoa công chúa.
Vu Đan vẫn chưa thành thân chính thức nên vị trí chính thất phía sau hắn vẫn bỏ trống.
Hai vị vương tử chậm rãi đi xuống bậc thang, chia ra hai hướng quảng trường ở nơi kiệu hoa dừng lại rồi bước tới, nha hoàn của mỗi bên đưa tay vén màn kiệu lên, trong kiệu có hai người mặc hỉ bào, đầu đội khăn hỉ, trang sức lộng lẫy dành cho tân nương bước xuống.
Theo như tập tục, Vu Đan cưới chính thất cho nên nắm tay tân nương của mình đi ở phía trước, Hách Liên Ngự Thuấn đi tiếp theo rồi đến phía sau là cung nhân cùng nha hoàn của mỗi bên chậm rãi bước theo cho đến trước bậc thang chính thì dừng lại.