Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật Giang Hồ

Chương 25

Tác giả: Jeffrey Archer

Phiên họp khẩn cấp thứ hai, giữa Bộ trưởng Ngoại giao và viên Thứ trưởng diễn ra vào sáng thứ ba, cũng chỉ được báo trước trong một thời gian ngắn. Lần này là một cú điện thoại trực tiếp hết sức bất ngờ từ Tổng thống khiến cho cả hai viên Bộ trưởng và Thứ trưởng phải chạy ngay tới dinh.

Tất cả những gì Hannah có thể tìm hiểu được qua mấy cú điện thoại gọi tới gọi lui trong buổi sáng hôm ấy là vào một lúc nào đó người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam đã gọi về từ Geneva, và kể từ lúc đó, viên Thứ trưởng Ngoại giao dường như quên bẵng bản phúc trình mà ông ta đang chuẩn bị về vụ Mỹ oanh tạc đại bản doanh của Mukhbarat. Ông ta hoảng hốt chạy ra khỏi phòng, bỏ mặc những giấy tờ mật vung vãi khắp mặt bàn làm việc.

Hannah vẫn ngồi ở bàn của nàng với hy vọng nàng sẽ thu lượm thêm một thông tin nào đó. Trong lúc cả hai viên Bộ, Thứ trưởng ở trong dinh, nàng tiếp tục kiểm tra kỹ các hồ sơ lưu trữ cũ, biết rằng giờ đây nàng đã có đủ tài liệu để chất đầy mấy tủ hồ sơ ở đại bản doanh Mossad, nhưng không có ai để cho nàng chuyển giao.

Hai viên Bộ, Thứ trưởng từ dinh trở về vào cuối buổi chiều, và viên Thứ trưởng Ngoại giao có vẻ nhẹ nhõm khi thấy cô Saib vẫn còn ngồi ở bàn làm việc.

– Tôi cần lập một bản phúc trình về việc đã được thoả thuận trong phiên họp sáng hôm nay với Tổng thống, – ông ta nói, – và tôi không cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng về sự bí mật trong vấn đề này. Sẽ không quá đáng chút nào khi tôi bảo cô rằng nếu bất cứ điều gì mà tôi kể cho cô sẽ bị tiết lộ ra ngoài công chúng, thì cả hai chúng ta sẽ chấm dứt cuộc đời trong nhà tù, hoặc tồi tệ hơn thế nữa.

Hannah nói trong lúc nàng mang kính trở lại:

– Tôi hy vọng trong suốt thời gian qua đã không bao giờ khiến cho ông Thứ trưởng phải lo ngại.

Viên Thứ trưởng chăm chú nhìn nàng và bắt đầu đọc cho nàng viết với tốc độ nhanh:

“Tổng thống đã mời Bộ trưởng Ngoại giao và tôi đến dự một phiên họp mật ở dinh sáng nay – cố đề đúng ngày hôm nay. Barazan Al – Tikriti, vị đại sứ tin cậy của chúng ta ở Geneva, đã tiếp xúc Tổng thống đêm vừa qua để báo cho Tổng thống rằng, sau nhiều tuần lễ kiên trì theo dõi, ông ta đã khám phá ra một âm mưu do một nhóm Do thái muốn ấy trộm chiếc tủ sắt khỏi Thuỵ điển và sử dụng làm phương tiện xâm nhập bất hợp pháp vào Iraq. Chiếc tủ sắt sắp sửa được giao tới Baghdad ngay sau khi bãi bỏ lệnh cấm vận theo nghị quyết 661 của Hội đổng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Tổng thống đã ra lệnh giao cho Đại tướng Hamid trách nhiệm thương lượng với bọn khủng bố – Hannah nghĩ như vậy khi trông thấy viên Thứ trưởng rùng mình – trong lúc ông Bộ trưởng Ngoại giao được yêu cầu xem xét kỹ vai trò do một nhân viên chính của ông đóng trong âm mưu đặc biệt này, đó là Hamid Al Obaydi.

“Đại sứ của chúng ta ở Geneva đã khám phá ra rằng Al Obaydi vừa viếng thăm hãng cơ khí Svenhalte AC ở Kalmar, Thuỵ điển, và ngày thứ hai, 28 tháng 6, mà không được bất cứ thượng cấp nào của ông ta chí đạo làm việc đó. Trong cuộc viếng thăm đó, ông ta đã được thông báo về vụ chiếc tủ sắt bị lấy trộm và đang được chờ đến Baghdad. Sau chuyến đi đến Kalmar, Al Obaydi ở lại đêm tại Ban Lợi ích ở Paris, khi ông ta có mọi cơ hội để thông báo Geneva hoặc Baghdad về âm mưu của bọn Do thái, nhưng ông ta đã không hề cố gắng làm việc đó.

“Al Obaydi rơi khỏi Paris sáng hôm sau và, mặc dù chúng ta biết ông ta đã đáp một chuyến bay đi Jordan, ông ta vẫn chưa xuất hiện ở biên giới. Tổng thống đã ra lệnh rằng nếu Al Obaydi qua bất cứ một biên giới quốc gia nào của chúng ta, ông ta phải bị bắt và được đưa thẳng đến Đại tướng Hamil ở đại bản doanh của Hội đổng Lãnh đạo Cách mạng”.

Cây bút chì của Hannah lướt qua các trang sổ tốc ký, trong lúc nàng cố gắng theo kịp viên Thứ trưởng.

“Chiếc tủ sắt, – viên Thứ trưởng Ngoại giao nói tiếp, – hiện nay đang được chở trên chiếc xe nhà binh cũ, và theo dự kiến nó sẽ đến biên giới Jordan trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ sắp tới”.

“Tất cả các viên chức hài quan đã nhận được một chỉ thị nhằm để cho chiếc tủ sắt là tài sàn riêng của Tổng thống, và vì vậy khi nó đến biên giới, nó phải được ưu tiên tiếp tục cuộc hành trình tới Baghdad.

“Đại sứ của chúng ta ở Geneva, sau một cuộc nói chuyện khá dài với ông – viên Thứ trưởng xem lại sổ tay, – Perdersson, đã tin chắc rằng nhóm người hộ tống chiếc tủ sắt là nhân viên CIA, Mossad, họ rất có thể cả ASA của Anh. Cũng như Tổng thống, Đại sứ nghĩ rằng lợi ích duy nhất của bọn xâm nhập là giành lại bản Tuyên ngôn Độc lập. Tổng thống đã ra lệnh rằng tài liệu đó không được dời khỏi chỗ của nó trên bức tường của phòng Hội đồng, bởi vì việc này có thể báo động cho bất cứ nhân viên nội gián nào thông tin cho nhóm khủng bố vào nước”.

“Hai mươi người trong đội phòng vệ đặc biệt của Tổng thống đã lên đường đến biên giới Jordan. Họ sẽ chịu trách nhiệm liên tục theo dõi quá trình vận chuyển của chiếc tủ sắt và sẽ báo cáo trực tiếp cho Đại tướng Hamil.

“Ngay sau khi bọn điệp viên phương Tây đã bị bắt và tống vào nhà giam, báo chí thế giới sẽ được thông tin rằng mục đích của bọn chúng là ám sát Tổng thống. Tống thống sẽ lập tức xuất hiện trước công chúng và trên vô tuyến truyền hình, và sẽ đọc một bài diễn văn tố cáo bọn hiếu chiến Mỹ và Do thái. Sayedi tin rằng cá bọn Mỹ lẫn bọn Do thái đều sẽ không đời nào nhìn nhận mục đích thực sự của vụ tập kích này, nhưng bọn chúng sẽ không thể nào bác bó lời khẳng định của Tổng thống. Sayedi nghĩ toàn bộ tình tiết này có thể biến thành một thắng lợi về mặt quốc tế bởi vì nếu vụ mưu sát được loan báo vào cùng một ngày mà Tổng thống công khai đốt bản Tuyên ngôn Độc lập, thì bọn Mỹ lại càng khó trả đũa hơn.

“Bắt đầu từ ngày mai, Tổng thống yêu cầu một bản cập nhật tình hình mỗi cuối sáng lúc chín giờ và mỗi buổi chiều lúc sáu giờ. Cá Bộ trưởng Ngoại giao lẫn bản thân tôi phải báo cáo trực tiếp cho Tổng thống. Nếu Al Obaydi bị tóm, Tổng thống cần phải được thông báo ngay tức khắc, bất cứ giờ giấc nào, đêm hoặc ngày”.

Cây bút chì của Hannah đã không ngừng nguệch ngoạc trên các trang giấy trong gần hai mươi phút. Cuối cùng khi viên Thứ trưởng kết thúc, nàng cố gắng hiểu hết ý nghĩa của thông tin mà giờ đây nàng có được.

– Tôi cần một bản dự tháo của phúc trình này càng nhanh càng tốt, không được đánh thêm bản khác, không được ghi âm gì cả và tất cả các ghi chép bằng tốc ký của cô phải được xé nhỏ ngay sau khi bản phúc trình được giao cho tôi.

Hannah gật đầu trong lúc viên Thứ trưởng Ngoại giao nhấc máy điện thoại lên và quay số nội bộ của cấp trên ông ta.

Nàng trở về phòng và bắt đầu đánh máy lại một cách từ từ những gì nàng đã chép vào sổ, và đồng thời cố gắng ghi nhớ những điểm chính yếu. Bốn mươi lăm phút sau, nàng đặt một bản phúc trình độc nhất trên bàn của viên Thứ trưởng.

Ông ta đọc bản dự thảo một cách cẩn thận, thinh thoảng tự tay ghi thêm một vài từ. Khi ông ta đã hài lòng nhận thấy bản phúc trình bao hàm đầy đủ phiên họp vừa diễn ra sáng hôm nay. Ông ta đi ra hành lang và gặp vị Bó trưởng Ngoại giao.

Hannah trở về bàn, biết rằng nhóm người mang chiếc tủ sắt khỏi Thuỵ điển đang tiến dần vào cái bẫy của Saddam, và nếu họ đã nhận được tấm bưu thiếp của nàng…

° ° °

Khi Al Obaydi đến Jordan. Ông ta không thể không cảm thấy một niềm vui chiến thắng.

Ngay sau khi hoàn tất thủ tục hải quan ở phi trường Queen Alia và bước ra ngoài đường, ông ta chọn chiếc taxi hiện đại nhất có thể tìm thấy được. Chiếc Chevy cũ kỹ từ hồi thập niên bảy mươi không có máy điều hoà không khi và đồng hồ chỉ con số 187.000 dặm. Ông ta yêu cầu người tài xế đưa ông ta đến biên giới Iraq càng nhanh càng tốt…

Chiếc xe hơi không bao giờ rời khỏi làn đường chậm trong cuộc hành trình sáu tiếng đồng hồ đến biên giới, và do tình trạng của các con đường, ông ta không thể nào ngù yên một giấc quá vài ba phút liền. Cuối cùng khi viên tài xế tới xa lộ, anh ta vẫn không thể chạy nhanh hơn nhiều vì dầu vung vãi khắp mọi nơi từ những chiếc xe tải chở những món mà đám con buôn đã mua một cách phi pháp ở Basra để đem đến bán ở Amman với giá gấp bốn lần, những món mà Al Obaydi đã cam đoan không biết bao nhiêu lần với Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc rằng đó là điều không có do sự tưởng tượng của thế giới phương Tây. Ông ta cũng nhận thấy nhiều chiếc xe tải chạy theo hướng ngược lại, chất đầy những thực phẩm mà ông ta biết sẽ được bán cho con buôn chợ đen, rất lâu trước khi bất cứ một thứ nào trong số đó tới Baghdad.

Al Obaydi xem đồng hồ. Nếu viên tài xế cứ tiếp tục với tốc độ này, ông ta sẽ không đến được biên giới trước khi trạm hải quan đóng cửa lúc nửa đêm.

° ° °

Khi Scott hạ cánh xuống phi trường Queen Alia ngày hôm ấy và bước lên mặt đường rải nhựa, điều đầu tiên giáng vào anh là một nhiệt độ 95 độ F 1 . Dù mặc một sơ mi hở cổ, quần jean và mang giây vải, anh vẫn có cảm giác bị nướng trong lò trước khi đến được nhà đón khách của phi trường. Ngay sau lúc anh vào trong toà nhà, anh khoan khoái nhận thấy có máy điều hoà không khí và cái túi duy nhất của anh xuất hiện trên băng chuyền nhanh không khác ở Mỹ. Anh xem đồng hồ và chỉnh theo giờ Trung Đông.

Viên sĩ quan di trú từ trước đến nay không thấy nhiều hộ chiếu Thuỵ điển, nhưng vì bố anh ta vốn là một kỹ sư, anh ta chúc ông Bernstrom một chuyến đi thành đạt.

Trong lúc Scott bước qua kênh xanh, một nhân viên hải quan miệng nhai tóp tép chặn anh lại. Anh ta ra lệnh cho Scott mở cái túi căng phồng bằng vải bạt. Sau khi lục lọi bên trong, vật duy nhất anh ta tỏ vẻ quan tâm là một cái ống nhỏ dài bằng các tông được chèn dọc theo đáy túi xách. Scott liên mở cái nắp ở đầu ống, lấy vật đựng bên trong ra và trải rộng thành tấm áp phích khiến nhân viên hải quan ngạc nhiên đến mức ngừng nhai trong một lát.

Rồi anh ta vẫy tay cho Scott đi qua.

Ngay sau khi Scott rời khỏi đám đông, anh bước ra ngoài đường tìm một chiếc taxi. Anh quan sát kỹ những chiếc xe tạp nham đậu bên lề đường. Chúng khiến cho những chiếc taxi vàng ở New York có vẻ như thuộc loại xe lộng lẫy.

Anh yêu cầu người tài xế ở đầu dãy xe đưa anh đến nhà hát La mã ở trung tâm thành phố. Cuộc hành trình mười tám cây số đến Amman mất bốn mươi phút, và khi Scott xuống xe ở bên ngoài nhà hát thế kỷ thứ ba, anh đưa cho người tài xế hai giấy bạc mười dinar – vừa đủ cho đoạn đường này, theo lời các chuyên gia ở Langley đã nói với anh. Người tài xế bỏ tiền vào túi nhưng không mỉm cười.

Scott xem đồng hồ, Anh vẫn còn kịp giờ cho một cuộc họp đã được dự tính. Anh bước thẳng qua đài kỷ niệm cổ mà theo cuốn sách hướng dẫn của anh là một nơi rất đáng viếng thăm. Như Kratz đã chỉ thị, sau đó anh tiếp tục đi về phía tây qua ba khối nhà thỉnh thoảng bước ra khỏi lề đường, xuống lòng đường để tránh các đám đông đang hối hả. Khi đến một trạm xăng Shell, anh quẹo phải, bỏ lại sau lưng đám người mua sắm. Rồi anh quẹo lần thứ hai sang trái, và sau đó lại quẹo phải. Những con đường càng lúc càng thưa thớt hơn, chỉ có dân địa phương, và càng đầy những ổ gà với những bước đi của anh. Lại quẹo trái, sau đó lại quẹo phải, và nhận thấy mình đang vào ngõ cụt lthti đã chỉ dẫn. Ở cuối con đường, khi anh không thể đi thêm được nữa, anh dừng lại bên ngoài một bãi phế liệu. Anh mỉm cưới với cảnh tượng đang chào đón anh.

° ° °

Lúc Al Obaydi tới biên giới, trời đã tối đen như mực. Tất cả ba làn đường dẫn tới trạm hải quan đều đầy những chiếc xe tải nối đuôi nhau chờ đợi, phủ vài dầu để chạy qua đêm. Người tài xế ngừng lại ở rào cản và giải thích với vị hành khách rằng ông ta phải thuê một chiếc xe khác của Iraq sau khi đã qua phía bên kia. Al Obaydi cám ơn người tài xế và cho anh ta một số tiền thưởng hậu hĩnh trước khi đi tới hàng người bên ngoài trạm hải quan. Một nhân viên có vẻ mệt mỏi, uể oải nhìn ông ta và cho ông ta hay biên giới đóng cửa ban đêm. Al Obaydi liền xuất trình hộ chiếu ngoại giao và nhân viên hải quan đóng dấu thị thực một cách nhanh chóng rồi ra dấu cho anh đi qua, biết là không có mấy chữ ghi chú bằng mực đỏ trong một giấy tờ như thế.

Al Obaydi thấy hết sức phấn chấn trong lúc ông ta thả bộ hơn một nghìn năm trăm mét giữa hai trạm hải quan. Ông ta bước tới một hàng người khác, xuất trình họ chiếu một lần nữa, và nhận thêm một nụ cười của viên sĩ quan hải quan.

– Có một chiếc xe đang chờ Đại sứ. – viên sĩ quan vừa nói vừa chỉ chiếc xe loại sang trọng đậu gần xa lộ.

Một viên tài xế tươi cười đứng chờ. Anh ta đưa tay lên chào và mở cửa xe phía sau.

Al Obaydi mỉm cười. Viên Trưởng phòng Hành chính chắc hắn đã thông báo cho họ biết rằng ông ta sẽ đến biên giới khá muộn trong đêm nay. Ông ta cám ơn nhân viên hải quan, bước về phía xa lộ và ngồi vào phía sau của chiếc xe. Một người khác đã ngồi sẵn trong đó, cũng có vẻ đang chờ đợi ông ta. Obaydi lại bắt đầu mỉm cười, thì đột nhiên một cánh tay lướt qua cổ họng ông ta và quật ông ta xuống sàn xe. Hai bàn tay ông ta bị ghìm chặt phía sau lưng, và một cặp còng khoá lại.

– Sao anh dám…? – Al Obaydi hét lớn. – Tôi là một Đại sứ! – ông ta gào lên trong lúc bị lôi trở lại ghế. -Anh không biết tôi là ai hay sao?

– Tôi biết chứ, – người kia trả lời. – Và ông đã bị bắt về tội phản quốc.

° ° °

Scott phải nhìn nhận rằng chiếc HEMIT chở Bà Bertha trông giống hệt loại xe tải cũ rích ở Mỹ chồng chất lên nhau ở ba phía bãi phế liệu. Anh chạy qua và trèo lên ngồi vào ghế bên cạnh tài xế. Anh bắt tay với Kratz và ông ta có vẻ nhẹ nhõm khi gặp anh. Lúc Scott trông thấy người ngồi phía sau tay lái, anh nói:

– Rất vui mừng gặp lại trung sĩ Cohen. Tôi có cần phải thừa nhận anh chơi một ván cờ Backgamman thật xuất sắc?

– Hai cặp đánh đôi trong bảng ghìm chặt nhau đã giúp tôi vào ván chung kết, thưa giáo sư, mặc dù chỉ có Chúa biết anh chàng người Kurd đã lọt vào bán kết như thế nào. – Cohen vừa nói vừa khởi động máy – và bởi vì anh ta là bạn của tôi, tất cả những người khác đều yêu cầu tôi xác định súc sắc.

– Thế hiện Aziz ở đâu – Scott hỏi.

– Ở đằng sau với Bà Bertha, – viên trung sĩ nói – Chỗ tốt nhất cho anh ta, giáo sư nên nhớ, anh ta biết mọi ngõ ngách của Baghdad như tôi biết các tiệm rượu ở Brixton. vì vậy hoá ra anh ta rất hữu ích.

– Và phần còn lại của đội? – Scott hỏi.

– Fieldman và những người khác đã lên qua biên giới trong đêm, – Kratz nói, – Có lẽ giờ đây họ đang chờ chúng ta Ở Baghdad.

– Thế thì tốt hơn họ nên ẩn nấp thật kỹ. – Scott nói – Bởi vì sau vụ oanh tạc thứ bảy tuần vừa qua, tôi tin chắc họ sẽ rất dễ nguy hiểm đến tính mạng.

Kratz không có ý kiến gì trong lúc trung sĩ Cohen cho chiếc xe tải nặng nề từ từ lăn bánh trên đường phố, lần này các con đường trở nên rộng hơn mỗi lần anh ta quẹo vào một con đường khác.

– Chúng ta vẫn theo đúng kế hoạch đã được chấp thuận ở Stockholm chứ? – Scott hỏi.

– Với hai điểm cải thiện. – Kratz nói – Tôi đã điện thoại cho Baghdad suốt buổi sáng hôm qua. Sau bảy lần gọi, tôi đã nói chuyện với được một người ở Bộ Công nghiệp biết rõ về chiếc tủ sắt, nhưng đó là vấn đề lâu đối với người A rập; nếu không trông thấy cái đồ chết tiệt đó ngay trước mặt, họ không tin nó hiện hữu đâu.

– Như thế trạm đầu tiên của chúng ta sẽ phải là Bộ Công nghiệp? – Scott hỏi.

– Dường như vậy, – Kratz trả lời. – Nhưng tối thiểu chúng ta đã có được thứ bọn họ cần. Điều đó làm tôi nhớ lại anh có mang theo thứ bọn họ cần không?

Scott mở dây kéo của túi xách và lấy ra các ống các tông.

– Trông không đáng cho anh phải liều mạng một chút nào, – Kratz nói trong lúc Scott chuồi các ống trở vào túi.

– Và điều cải thiện thứ hai? – Scott hỏi.

Kratz lấy một tấm bưu thiếp từ túi trong và đưa cho Scott.

Một bức ảnh Saddam Hussein đang phát biểu trước Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng. Một hình vuông nhỏ đầy những ngôi sao được vẽ bằng bút bi bên cạnh đầu ông ta.

Scott lật tấm thiếp qua mặt sau và xem xét cẩn thận nét chữ không thể nhầm lần của nàng: “Ước mong anh ở đây”.

Scott không nói gì một hồi lâu.

– Anh có để ý thấy ngày tháng không?

Scott nhìn lên tận cùng góc bên phải: 4-7-93.

– Thế là giờ đây chúng ta biết được nơi đó ở đâu, và cô ta cũng đã xác nhận khi nào Saddam dự định cho phần còn lại của thế giới biết bí mật của ông ta.

– Elthel Rubin là ai? – Scott hỏi, – Và làm sao ông có được tấm bưu thiếp này?

– Cô Hannah đã từng tạm trú ở London. Chồng cô ta là đại diện pháp lý của Mossad ở Anh. Anh ta đã đưa tấm bưu thiếp đến thẳng Toà đại sứ ngay sau khi nhận được và họ đã gởi qua đêm bằng đường ngoại giao. Nó đã đến Toà đại sứ của chúng tôi ở Amman sáng hôm nay.

Ngay sau khi họ đến vùng ngoại ô của thành phố, Scott bắt đầu nghiên cứu địa hình cằn cỗi trong lúc chiếc xe tải tiếp tục chạy trên những đoạn đường đầy những dầu và ổ gà.

– Tôi lấy làm tiếc phải chạy quá chậm, thưa giáo sư, – Cohen nói – nhưng nếu tôi chạy nhanh trên con đường tồi tệ này thì phải thắng lại. Bà Bertha sẽ tuột té cả trăm mét trước khi xe dừng.

Kratz rà xét lại mọi điều bất ngờ mà ông có thể nghĩ ra trong lúc Cohen im lặng lái xe về phía biên giới. Nhà lãnh đạo Mossad kết thúc bằng cách mô tả sơ đồ bố trí của đại bản doanh Baath một lần nữa.

– Còn hệ thống báo động? – Scott hỏi khi ông nói xong.

– Tất cả những gì anh cần phải nhớ là những nút đỏ bên cạnh công tắc khởi động hệ thống báo động, nhùng đồng thời đóng tất cả các lối ra.

Scott gật đầu, nhưng một lúc sau anh mới hỏi câu kế tiếp:

– Còn Hannah?

– Không có gì thay đổi. Công việc đầu tiên của tôi là đưa anh vào và trở ra với bản tài liệu gốc. Cô ta vẫn còn là một phần thưởng không chắc mặc dù rõ ràng là cô ta biết chuyện gì đang xảy ra.

Không ai nói thêm tiếng nào cho tới khi trung sĩ Cohen lái xe rời khỏi xa lộ chạy vào một khoảng rộng trải sỏi có nhiều xe tái đậu. Anh ta đậu xe theo một góc xéo để chỉ cho người nào tò mò nhất mới có thể giám sát thấy họ đang chở cái gì, rồi nhảy ra khỏi buồng lái, đu mình qua tấm chắn hậu và nhăn răng cười với anh chàng người Kurd đang uể oái tựa lưng vào chiếc tủ sắt. Họ giở tấm vải dầu bao phủ cấu trúc đồ sộ trong lúc Scott và Kratz trèo lên gặp họ trong phía sau chiếc xe tải.

– Giáo sư nghĩ sao? – Aziz hỏi.

– Bà ta không bị gầy bớt một chút nào, đó là điều chắc chắn. – Scott nói trong lúc anh cố nhớ lại việc sắp xếp hàng đêm mà anh đã làm để chuẩn bị cho kỳ thi đơn độc này.

Anh duỗi các ngón tay ra và mỉm cười. Tất cả ba bóng đèn phía trên ô vuông màu trắng đều có màu đỏ. Trước hết, anh quay tất cả ba mặt số theo một mã số mà chỉ có anh và một người ở Thuỵ Điển mới biết rõ. Rồi anh đặt bàn tay phải trên ô vuông màu trắng, và giữ yên trong mấy giây.

Anh cúi tới trước, đặt môi sát ô vuông và nói một cách hoà nhã:

– Tôi tên là Andreas Bernstrom. Khi bà nghe giọng nói này, và chỉ giọng nói này, bà sẽ mớ khoá cửa.

Scott chờ đợi trong lúc ba người kia tiếp tục im lặng nhìn với vẻ bối rối. Tất cả ba bóng đèn vẫn giữ màu đỏ.

– Bây giờ chúng ta phải thử xem tôi có hiểu các lời chỉ dẫn hay không, – Scott nói.

Anh cắn môi và tiến lại phía trước. Một lần nữa anh xoay các mặt số, nhưng lần này theo các con số Saddam đã lựa chọn: 0-4-0-7-9-3. Bóng đèn thứ nhất chuyển từ đỏ sang xanh. Aziz mỉm cười. Scott đặt lòng bàn tay trong ô vuông màu trắng và để yên trong nhiều giây. Bóng đèn thứ hai chuyển sang xanh.

Scott nghe Kratz thở dài trong lúc anh bước tới phía trước. Anh đặt môi lên ô vuông màu trắng chạm vào tấm lưới kim loại mỏng và nói:

– Tên tôi là Andress Bernstrom. Bây giờ là lúc chiếc tủ sắt.…

Bóng đèn thứ ba chuyển sang màu xanh trước cả khi anh nói hết câu. Cohen khẽ lên tiếng hoan hô.

Scott nắm cái quai và kéo ra. Cả tấm thép nhẹ nhàng mở ra.

– Hay lắm! – Cohen nói – giáo sư có thể làm lại một lần nữa không?

– Dùng trung sĩ làm người thí nghiệm, – Scott nói – Tại sao trung sĩ không thứ đóng tủ sắt lại?

Cohen liền tiến một bước về phía trước và với cả hai bàn tay xô cánh cửa đóng tủ. Ba bóng đèn lập tức lóe đỏ.

– Đúng là dễ một khi mình đã biết cách sử dụng, – anh ta nói.

Scott mỉm cười kéo cánh cửa mở ra trở lại với ngón tay út. Cohen há hốc mồm nhìn sững trước khi các bóng đèn trở lại màu xanh.

– Các bóng đèn có thể chớp đỏ, – Scott nói, – nhưng Bertha chỉ có thể hoạt động một lúc với một người. Hiện giờ không một ai khác ngoài tôi có thể mở hoặc đóng chiếc tủ sắt.

– Và tôi hy vọng đó là vì nó là dân Do thái, – Aziz nói.

Scott mỉm cười vừa đóng cửa tủ sắt, quay các mặt số cho tới khi các bóng đèn đổi màu đỏ.

– Thôi, ta đi. – Kratz nói.

Scott cảm thấy ông có vẻ hơi bực tức, – hay đó chí là dấu hiệu đầu tiên của tâm trạng căng thẳng? Aziz trùm tấm vải dầu lên bà Bertha trở lại trong lúc mấy người bạn đồng nghiệp của anh ta nhẩy qua hông xe và trở lên buồng lái.

Không một ai nói gì trong lúc họ tiếp tục cuộc hành trình về phía biên giới cho tới lúc Cohen thốt lên mấy tiếng tán thán khi anh ta nhận thấy hàng xe tải phía trước họ.

– Chúng ta sẽ phải ở đây suốt đêm. – anh ta nói.

– Và không chừng gồm cả buổi sáng ngày mai, – Kratz nói – Vì vậy tốt hơn chúng ta tập làm quen đi.

Họ dừng lại phía sau chiếc xe tái cuối cùng.

– Tại sao mình không chạy đại lên trước và thử xoay sở? – Cohen nói – Một vài đô la cũng có thể…

– Không, – Kratz nói – Chúng ta không được lôi cuốn sự chú ý quá đáng bất cứ lúc nào kể từ đây cho đến khi chúng ta trở qua biên giới này.

Suốt tiếng đồng hồ sau đó trong lúc chiếc xe tải chỉ di chuyển về phía trước vài trăm mét, Kratz rà xét lại các kế hoạch của ông một lần nữa, bao gồm bất cứ tình thế nào ông có thể nảy sinh khi họ đã đến Baghdad.

Một tiếng đồng hồ nữa trôi qua, và Scott cám ơn ngọn gió đêm hiu hiu thổi giúp anh ngủ gà ngủ gật, mặc dù anh nhận thức rằng chẳng bao lâu sau anh sẽ phải quay kính cửa sổ lên nếu anh muốn khỏi bị đóng băng. Anh bắt đầu trôi giạt vào một giấc ngủ chập chờn, tâm trí anh chuyển đổi giữa Hannah và bản Tuyên ngôn, và nếu được phép lựa chọn, anh sẽ mang thứ nào về nhà. Anh nhận thức rằng Kratz rõ ràng là lý do khiến anh đã tình nguyện tham gia vào đội khi cơ may sống sót hết sức mỏng manh.

– Trò đùa rồi sẽ làm nên trò trống gì? Cohen khẽ hỏi.

Scott chợt tỉnh giấc và nhanh chóng tập trung vào một nhân viên mặc đồng phục đang nói chuyện với người tài xế của chiếc xe tải ở trước họ.

– Đó là một nhân viên hải quan, – Kratz nói – Anh ta chỉ kiểm tra xem các tài xế có đủ giấy tờ hợp lệ để qua biên giới hay không.

– Phần đông đám này chỉ có hai mảnh giấy màu đỏ dài khoảng mười hai phân, rộng tám phân, – Cohen nói.

– Anh ta đến đây rồi, – Kratz nói – Hãy cố làm bộ chán ngán như anh ta vậy.

Viên hải quan thong thả bước tới buồng lái và thậm chí không nhìn Cohen trong lúc anh ta chìa một bàn tay qua khung cửa sổ mở.

Cohen đưa các thứ giấy tờ mà các chuyên gia ở Langley cung cấp. Viên hải quan xem xét kỹ rồi từ từ bước quanh chiếc xe tải. Khi anh ta trở lại phía tài xế, anh ta lớn tiếng ra lệnh cho Cohen mà không ai hiểu nổi.

Cohen nhìn về phía Kratz, nhưng một giọng nói từ phía sau cứu thoát họ.

– Anh ta nói mình phải lên phía trước hàng xe.

– Tại sao? – Kratz nghi ngờ hỏi.

Aziz liền lập lại cáu hỏi với viên hải quan:

– Chúng ta đã được quyền ưu tiên nhờ bức thư do Saddam ký.

– Và chúng ta phải cám ơn ai về việc đó? – Kratz hỏi vẫn chưa hết nghi ngờ.

– Bill O’Reilly, – Scott nói – Ông ta đã rất lấy làm tiếc không thể theo chúng ta trong chuyến đi này. Nhưng tôi đã cho ông ta biết không thể kiếm được bia Guinness trong thùng ở bất cứ nơi nào trong đất nước Iraq.

Kratz gật đầu, và trung sĩ Cohen thi hành chỉ thị của viên hải quan, tự cho phép mình lấn sang đường dành riêng cho xe chạy ngược lại trong lúc anh ta bắt đầu cuộc hành trình gập ghềnh dài hơn ba cây số tới phía trước hàng xe. Nhiều chiếc xe được phép chạy về hướng Amman trên phía bên kia đường đã phải ngoặt gấp lên trên lề bằng xà bần nếu không muốn đụng đầu với Bà Bertha.

Trong lúc Cohen chạy mấy mét cuối cùng đến trạm gác qua biên giới, một nhân viên vừa giận dữ chạy ra khỏi trạm vừa huơ nắm tay. Một lần nữa Aziz cứu thoát họ bằng cách đề nghị Kratz cho anh ta xem bức thư.

Sau khi nhìn qua chữ ký, quả nắm nhanh chóng thành một cái chào.

– Hộ chiếu, – anh ta chỉ thốt lên một cách vắn tắt.

Kratz liền đưa ba hộ chiếu Thuỵ điển và một hộ chiếu Iraq với hai mảnh giấy đỏ đính vào trang đầu tiên của mỗi hộ chiếu.

– Đừng bao giờ trả quá lệ phí chính thức, – Ông đã báo trước cho mọi người, – Như thế chỉ khiến cho bọn họ nghi ngờ.

Bốn cuốn hộ chiếu được nhân viên hải quan mang vào một căn phòng nhỏ, xem xét kỹ, đóng dấu và hoàn trả. Thậm chí anh ta còn tặng họ một nụ cười. Rào chắn phía Jordan được giở lên và chiếc xe tải bắt đầu cuộc hành trình hơn một nghìn năm trăm mét về phía trạm kiểm soát của Iraq.

— —— —— —— ——-

1 Tương đương với 35 độ C.

Bình luận