Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật Giang Hồ

Chương 35

Tác giả: Jeffrey Archer

Bản tường trình chính thức do Chính phủ Iraq công bố vào ngày 2 tháng 7 là không có sự thực trong đó, bản báo cáo nói rằng đã xảy ra một vụ chạm súng ở cửa đồn biên giới tại Kirkuk, trong đó mấy quân nhân Iraq đã chết và nhiều người khác bị thương.

Các nhà lãnh đạo người Kurd không thế bày tỏ bất cứ ý kiến nào về vấn đề này, trong lúc hai máy điện thoại vệ tinh duy nhất trong phần đất Kurdistan thuộc Iraq thường xuyên bận với những yêu cầu giúp đỡ từ Bộ Ngoại giao Mỹ ở Istanbul.

Khi Charles Streator, vị đại sứ Mỹ ở Istanbul nghe viên Trưởng phòng của Reuters ở Trung Đông điện thoại hỏi tại sao một chiếc phi cơ phản lực của không lực Mỹ đã đáp xuống căn cứ Mỹ ở Silope trên biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, rồi trở về Washington với hai hành khách không ai biết danh tánh, vị đại sứ đã nói với ông bạn cũ rằng ông hoàn toàn không hay biết gì về điều ông ta nói. Viên Trưởng phòng vẫn xem vị đại sứ là một con người chân thật, mặc dù ông ta nhìn nhận rằng một phần công việc của ông ấy là nói dối vì lợi ích của đất nước mình.

Thực ra, vị đại sứ đã thức suốt đêm tiếp theo sau một cú điện thoại của vị ngoại trưởng yêu cầu một chiếc trong số phi cơ trực thăng của họ sẽ được phái đến vùng phụ cận của Kirkuk để đón năm người, một Mỹ, một A rập và ba Do thái rồi đưa họ về căn cứ ở Silope.

Vị đại sứ đã gọi Washington sau đó vào sáng hôm ấy để báo tin cho Warren Christopher rằng đáng tiếc chỉ có hai người qua được biên giới mà còn sống: một người Mỹ có tên là Scott Bradley và một phụ nữ Do thái tên Hannah Kopec. Ông không có tin tức nào về ba người kia.

Vị đại sứ Mỹ hoàn toàn bối rối trước câu hỏi cuối cùng của vị ngoại trưởng: giáo sư Breađley có mang theo một cái ống giấy hay không? Vị đại sứ chỉ thất vọng vì thông tín viên Reuters đã không hỏi ông câu đó, để cho ông có thể nói thật với ông ta khi trả lời: “Tôi hoàn toàn không hay biết gì về điều anh nói”.

***

Scott và Hannah ngủ trong phần lớn chuyến bay trở về Mỹ. Khi họ bước ra khỏi máy bay ở căn cứ không quân Andrews, họ nhận thấy Dexter Hutchins ở cuối cầu thang đang chờ đợi để chào đón họ. Không một ai trong bọn họ ngạc nhiên khi hải quan tỏ ra không mấy quan tâm đến cái túi bằng vải bạt của Scott. Một chiếc xe hơi của CIA nhanh chóng chở họ về hướng Washington.

Trong cuộc hành trình vào thủ đô, Dexter thông báo với họ rằng họ sẽ đi thẳng tới Nhà Trắng để tham dự một phiên họp tối cao, và tường trình mọi việc cho nhiều người khác sẽ hiện diện tại đó.

Họ được đón tiếp ở khu tiếp tân Cánh Tây bởi viên Chánh văn phòng của Tổng thống, ông này dẫn họ tới Văn phòng Bầu dục. Scott không thể không có cảm nghĩ rằng, bởi vì đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của anh với Tổng thống, đáng lẽ anh nên cạo râu vào một lúc nào đó trong hai ngày vừa qua, và không nên mặc nguyên bộ áo quần mà anh đã dùng suốt ba ngày vừa rồi.

Warren Christopher có mặt ở đó để chào đón họ tại cửa văn phòng Bầu dục, và ông giới thiệu Scott với Tổng thống Clinton tựa hồ họ là những người bạn cũ. Bill Clinton chúc mừng Scott trở về nhà, và cám ơn Hannah về vai trò mà nàng đã đóng trong việc bảo đảm cuộc trở về an toàn của bản Tuyên ngôn.

Scott thích thú gặp Calder Marshall lần đầu tiên. Ông Mendelssohn lần thứ hai và tái ngộ với Dollar Bill.

Dollar Bill cúi đâu chào Hannah.

Bây giờ tôi mới biết tại sao ông giáo sư sẵn lòng băng qua trái đất để mang cô về, – đó là tất cả những gì ông già Ái Nhĩ Lan nói.

Sau lúc bắt tay nhau, không một người nào có thể che giấu sự nóng lòng trông thấy bản Tuyên ngôn. Scott liền mở dây kéo túi xách và cẩn thận lấy ra một cái khăn tắm từ đó anh rút bản tài liệu trước khi trao lại cho người chịu trách nhiệm chính thức là vị ngoại trưởng. Christopher từ từ trải tấm giấy da. Không một ai trong phòng có thể che giấu vẻ chán ngán trước tình trạng của bản Tuyên ngôn.

Vị ngoại trưởng chuyển bản tài liệu cho Viện trưởng Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lúc bất giờ đang cùng với viên chuyên gia bảo vệ và Dollar Bill bước tới khung cửa sổ rộng lớn trông ra bãi cỏ phía Nam. Từ đầu tiên họ kiểm tra là “Brittish”, và vị Viện trưởng mỉm cười.

Nhưng chỉ một lát sau đó, Calder Marshall thông báo nhận xét kết hợp của họ.

– Đây là một bản giả.

– Làm sao ông có thể chắc chắn như thế – Vị Tổng thống hỏi.

– Mea culpa(1) – Dollar Bill nói, có vẻ ngượng ngùng.

– Như thế có nghĩa là Saddam còn đang giữ bản gốc? – vị ngoại trưởng hỏi với vẻ không tin.

– Không thưa ông. Ông ta chỉ có bản sao mà Scott đã đưa tới Baghad, – Dollar Bill nói – Như thế rõ ràng là ông ta đã giữ một bản trước khi Scott hoán đổi.

– Vậy thì ai giữ bản gốc? – bốn người còn lại cùng hởi.

– Tôi đoán là Alfonso Mario Cavalli, – Dollar Bill đáp.

– Hắn ta là ai? – vị Tổng thống hỏi, vẫn chưa biết gì hơn.

– Người đã trả tiền cho tôi để làm bản sao hiện ở trong viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. – Dollar Bill nói, – và đó là người tôi đã giao bản sao thứ hai duy nhất mà tôi hiện đang giữ trong tay.

– Nhưng với từ “Brittish” đã được viết lại với hai chữ “t” thì ông làm sao có thể quả quyết đây là một bản giả. – Dexter Hutchins hỏi.

– Bởi vì, trong năm mươi sáu chữ ký trên bản Tuyên ngôn gốc, sáu chữ có tên thánh là George… Năm người trong số đó ký “Geo”, là theo kiểu thông dụng vào thời ấy. Chỉ có George Wythe ở Washington ký trọn tên. Trên bản sao mà tôi đưa cho Cavalli, tôi đã phạm một sai lầm là viết luôn “Geo” cho Nghị sĩ Wythe, và sau đó phải thêm vào mấy chữ “rge”. Mặc dù nét chữ vẫn hoàn hảo, tôi đã sử dụng một ánh mực đã nhạt hơn. Một sai lầm nhỏ, chỉ có con mắt chuyên nghiệp mới có thể thấy rõ.

– Và ngay cả lúc bấy giờ, chỉ khi bọn chúng biết chúng ta đang tìm cái gì, – Mendelssohn nói thêm.

– Tôi không hề nói cho Cavalli biết, – Dollar Bill tiếp lời – bởi vì ngay sau khi kiểm tra từ “Brittish”, hắn ta đã hoàn toàn mãn nguyện.

– Thế là, vào một lúc nào đó chắc chắn Cavalli đã đổi bản sao của hắn ta với bản gốc, rồi đưa bản sao cho Al Obaydi? – Dexter Hutchins nói.

– Tốt đấy. Ông Phó giám đốc, – Dollar Bill nói.

– Và Al Obaydi lại đưa bản sao cho viên Đại sứ Iraq ở Geneva, rồi ông này lại giao cho Saddam ở Iraq. Và, trong lúc Al Obaydi đến xem bản sao của Dollar Bill trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia với từ “Brittish” đúng chính tả, hắn ta đã tin chắc rằng mình đang nắm bản gốc. – Dexter Hutchins nói.

– Cuối cùng ông đã hiểu trọn vấn đề, – Dollar Bill nói.

– Thật ra đáng lẽ tôi phải biết Cavalli có khả năng làm việc đó khi tôi nói với ông cách đây một tháng: “Không còn có danh dự kẻ cướp nữa hay sao?”

– Thế thì hiện giờ bản gốc ở đâu? – vị Tổng thống hỏi.

– Tôi tin chắc nó đang treo trên một bức tường trong một ngôi nhà bằng sa thạch ở Manhattan, – Dollar Bill nói, – chắc nó đã ở đấy suốt mười tuần nay.

Bóng đèn trên giá để máy điện thoại bên tay phải Tổng thống chợt bắt đầu lóe sáng. Viên Chánh văn phòng của Tổng thống liền nhấc máy lên và lắng nghe. Con người thường ngày không bao giờ bối rối bỗng tái mét. Ông ta vội nhấn nút đợi.

– Thưa Tổng thống, Bernie Shaw ở CNN vừa gọi cho tôi. Anh ta nói Saddam đang tuyên bố rằng vụ oanh tạc Baghdad cuối tuần vừa qua không có gì khác hơn là một bình phong được dựng lên đế cho một nhóm khủng bố Mỹ có cơ hội thu hồi bản Tuyên ngôn Độc lập mà một băng Maia đã cố bán cho ông ta và ông ta đã đích thân hoàn trả lại cho một người tên là Bradley. Bề ngoài Saddam có vẻ gần như hối tiếc về tình trạng của bản Tuyên ngôn, nhưng ông ta đã cho lên truyền hình nhiều tấm ảnh của Bradley đang nhổ nước bọt và giẫm chân lên bản Tuyên ngôn rồi đóng đinh nó vào bức tường. Nếu Tổng thống không tin Saddam, anh ta có thể nói ngài kiểm tra bàn sao của bản Tuyên ngôn đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, bởi vì bất cứ một ai có thể đánh vần từ “Brittish” đều sẽ nhận thấy đó là một bản giả. Shaw hỏi Tổng thống có lời bình luận gì hay không, trong lúc Saddam dự định tổ chức một cuộc họp báo vào sáng ngày mai cho cả thế giới biết sự thật.

Vị Tổng thống chúm môi.

– Tôi dám cá Saddam đã cho CNN một độc quyền về câu chuyện này, nhưng có lẽ chỉ cho tới ngày mai, – viên Chánh văn phòng nói thêm.

– Bất kể là gì, Dexter Hutchins nói, – hãy cố ngăn chặn đừng cho lan truyền tin này trong đêm nay.

Viên Chánh văn phòng ngần ngại một lúc cho tới lúc ông ta trông thấy vị Tổng thống gật đầu đồng ý. Ông ta liền nhấn nút nối tiếp cuộc điện đàm.

– Nếu anh muốn lan truyền một câu chuyện như thế, Bernie, sẽ rất nguy hiểm cho tiếng tăm của anh, chứ không phải của tôi.

Viên Chánh văn phòng thận trọng lắng nghe câu trả lời của Shaw trong khi mọi người khác trong phòng đợi chờ trong im lặng.

– Xin cứ tự nhiên, – đó là lời nói cuối cùng của viên Chánh văn phòng trước khi ông ta đặt máy điện thoại xuống.

Ông ta quay sang vị Tổng thống và nói:

– Shaw nói anh ta sẽ phái một nhóm người đến bên ngoài Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lúc mở cửa vào thời giờ sáng ngày mai, và tôi xin kể lại nguyên văn: Nếu từ “British” viết đúng chính tả, anh ta sẽ lên án ngài.

Vị Tổng thống ngước lên nhìn chiếc đồng hồ xe ngựa đặt trên bệ lò sưởi phía dưới bức chân dung của Abraham Lincoln. Lúc này là bày giờ quá mấy phút. Ông quay tròn chiếc ghế ông đang ngồi để đối diện với vị Phó giám đốc cơ quan CIA.

– Ông Hutchins, – Ông nói, – Ông có mười lăm tiếng đồng hồ để ngăn chặn tôi bị lên án. Nếu ông thất bại tôi có thể bảo đảm với ông tôi sẽ không dám đến đây một lần thứ hai trong ba năm, chứ đừng nói là ba ngày.

Chú thích:

(1) Tiếng Latin có nghĩa là: do lỗi của tôi, tôi chịu trách nhiệm.

Bình luận