Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật Giang Hồ

Chương 24

Tác giả: Jeffrey Archer

Khi Al Obaydi về đến Paris, ông ta lấy hành lý khỏi kho chứa hai mươi bốn giờ, rồi sắp hàng đón taxi.

Ông ta đưa cho tài xế một địa chỉ mà không nói đó là nhà phụ của Iraq ở Toà đại sứ Jordan. – một mẹo vặt trong “những điều nên làm và không nên làm” của cô Saib ở Paris. Ông ta đã không báo trước cho nhân viên Toà đại sứ biết ông ta sẽ đến ngày hôm nay. Ông ta không được phép hẹn gặp ai trong hai tuần sắp tới và có thể tiếp tục đi thẳng đến Jordan tối hôm nay nếu có một chuyến bay chuyển tiếp. Ngay khi ông ta đã nhận ra ông Riffat là ai, ông ta biết mình phải trở về Baghdad càng nhanh càng tốt.

Bằng cách báo cáo thẳng với Bộ trưởng Ngoại giao, ông ta sẽ thông qua đúng nguồn. Việc này sẽ bảo vệ vị thế của ông ta, trong lúc đồng thời đảm bảo cho Tổng thống biết một cách chính xác ai có trách nhiệm về việc báo động một mưu đồ ám hại tính mạng ông, và vị đại sứ nào, tuy có quan hệ mật thiết đã không cố gắng hết sức.

Chiếc taxi bỏ Al Obaydi xuống ở bên ngoài nhà phụ của Toà đại sứ ở Neuilly. Ông ta lôi valy ra khỏi phía sau mà không cần giúp đỡ nào của viên tài xế vẫn cứ ngồi ở tay lái. Cửa trước của Toà đại sứ hé ra vài ba phân rồi mở rộng, và một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi chạy xuống các bậc thềm về phía ông ta, theo sau là hai cô gái và một thanh niên.

– Thưa ngài, thưa ngài, – người đàn ông thốt lên. – Tôi rất lấy làm tiếc, ngài phải tha thứ cho tôi, chúng tôi không hề hay biết ngài sẽ đến.

Gã thanh niên vồ lấy hai chiếc valy lớn và hai cô gái lấy ba món hành lý còn lại.

Al Obaydi không ngạc nhiên khi biết rằng người đàn ông chạy xuống thềm chính là Abdul Kanuk.

– Chúng tôi đã nghe nói ngài sẽ đến trong thời gian hai tuần. Chúng tôi tưởng ngài vẫn còn ở Baghdad. Tôi hy vọng ngài sẽ không cho là chúng tôi đã thất lễ.

Al Obaydi không hề tìm cách ngăn chặn những lời nói nịnh bợ cứ tuôn ra không ngớt, nghĩ rằng rốt cuộc anh ta cũng sẽ cạn nguồn. Dù sao đi nữa, Kanuk không phải là một con người để làm phật lòng ngày đầu tiên ông ta đến đây Ngài có muốn dạo qua một vòng khu vực của chúng ta trong lúc cố gắng việc mở hành lý.

Bởi vì có nhiều câu hỏi mà Al Obaydi cảm thấy chỉ có người đàn ông này mới trà lời được, ông ta liền lợi dụng ngay lời đề nghị đó. Chẳng những ông ta được viên Trưởng phòng Hành chánh dẫn đi, mà ông ta còn phải nghe một chuỗi câu chuyện tầm phào bất tận. Chỉ mấy phút sau, ông ta không còn nghe nữa, vì trong tâm trí đầy ắp những điều quan trọng hơn rất nhiều. Chẳng bao lâu ông ta ước mong được dẫn đến phòng riêng và ở lại đó một mình để có thời giờ suy nghĩ. Chuyến bay đầu tiên đi Jordan mãi tới sáng hôm sau mới có, và ông ta cần chuẩn bị trong đầu ông ta sẽ trình bày điều khám phá của mình như thế nào với vị Bộ trưởng Ngoại giao.

Chính trong lúc ông ta được dẫn đi xem qua nơi chẳng bao lâu nữa sẽ là văn phòng của ông ta trông xuống một thành phố Paris đang chuyển từ ánh sáng lờ mờ của hoàng hôn sang ánh đèn nhân tạo của đêm tối, viên Trưởng phòng Hành chính đã nói một điều gì đó mà Al Obaydi không nghe rõ. Ông ta cảm thấy mình cần phải chú ý cẩn thận hơn.

– Tôi lấy làm tiếc phải cho ngài hay cô thư ký của ngài hiện đang nghỉ phép. Như tất cả chúng tôi, cô Ahmed tưởng ngài chỉ đến sau đây hai tuần. Tôi biết cô ta đã dự định trở về Paris trước ngài một tuần để cho cô ta sẵn sàng mọi việc lúc ngài đến.

– Không thành vấn đề, – Al Obaydi nói.

– Tất nhiên, ngài sẽ biết cô Saib, thư ký của ông Thứ trưởng Ngoại giao?

– Tôi đã gặp cô Saib khi tôi ở Baghdad. – Al Obaydi đáp.

Viên Trưởng phòng Hành chính gật đầu và có vẻ do dự trong một lúc.

– Tôi nghĩ tôi cần nghỉ ngơi một lát trước khi ăn tối. – viên đại sứ nói, lợi dụng lúc anh ta tạm ngừng trong một chuỗi câu chuyện thao thao khác.

– Tôi sẽ cho đem một món nào đó lên phòng ngài. Tám giờ có được không ạ?

– Cám ơn anh, – Al Obaydi nói, chủ tâm chấm dứt cuộc trò chuyện.

– Tôi sẽ để hộ chiếu và vé máy bay của ngài trong tủ sắt như tôi vẫn làm đối với vị đại sứ trước?

– Hay lắm, – Al Obaydi nói, khoan khoái vì cuối cùng đã tìm được một cách để tống khứ viên Trưởng phòng Hành chính.

° ° °

Scott đặt máy điện thoại xuống và quay sang nhìn thẳng vào Dexter Hutchins đang ngửa người trong chiếc ghế da lớn ở bàn ông, hai bàn tay siết chặt phía sau đầu với một vẻ nghi ngờ trên mặt.

– Thế là họ ở đâu? – Dexter hỏi.

– Kratz không chịu cho tôi biết địa điểm chính xác vì những ý do hiển nhiên, nhưng theo tốc độ tiến triển hiện nay của ông ta, ông ta tin chắc họ sẽ đến biên giới Jordan trong vòng ba ngày tới.

– Thế thì chúng ta hãy cầu nguyện cho Bộ Công nghiệp Iraq kém hiệu quả như các chuyên gia của chúng ta cứ liên tục thuật lại cho chúng ta. Nếu vậy, lợi thế sẽ về phía chúng ta tối thiểu trong mấy ngày. Xét cho cùng, chúng ta đã hành động ngay lúc biện pháp chế tài được bãi bỏ, và cho tới lúc anh ta xuất đầu lộ diện ở Kalmar, Perdersson đã không hề nghe thấy bất cứ một ai xuất hiện trong hai năm vừa qua.

– Tôi nhìn nhận. Nhưng tôi lo ngại rằng Perdersson có thể là mắt xích yếu duy nhất trong chuỗi mắt xích của Kratz.

– Nếu anh quyết định liệu lệnh như thế thì không một kế hoạch nào có thể hoàn toàn chặt chế.

Scott gật đầu.

– Và nếu Kratz đã đến được biên giới ít hơn ba ngày, anh sẽ phải đáp một chuyến bay đi Amman vào đêm thứ hai, giả sử rằng ông O’Reilly lúc đó đã hoàn tất các chữ ký.

– Tôi không nghĩ đó là một vấn đề nữa, – Scott nói.

– Tại sao? Ông ta vẫn còn nhiều chữ ký cần phải sao chép khi tôi xem tấm giấy da lần cuối.

– Không thể nhiều như thế, – Scott nói, – bởi vì ông Mendelssohn đã bay đến Washington sáng hôm nay để cho biết nhận xét, và đó dường như là điều duy nhất mà Bill quan tâm.

– Thế thì chúng ta hãy tận mắt xem sao, – Dexter nói trong lúc ông xoay người đứng lên khỏi ghế.

Trong lúc họ rời văn phòng và đi dọc theo hành lang, Dexter hỏi:

– Còn cuốn thánh thư của Bertha thì sao? Tôi đã lật qua mấy trang phần mở đầu sáng hôm nay nhưng không thể hiểu được tại sao các bóng đèn chuyển từ đỏ sang xanh.

– Chỉ có một người quen biết bà Bertha thân thiết hơn tôi và lúc này người đó đang chết lần chết mòn ở Scandivania, – Scott nói trong lúc họ trên lên các nấc thang bằng đá tới phòng riêng của Dollar Bill.

– Tôi cũng nghe Charles đã dành riêng một cái quần đặc biệt cho anh, – Dexter nói.

– Và cái quần hết sức vừa vặn, – Scott đáp lại với một nụ cười.

Khi họ tới nấc thang trên cùng, Dexter định xô cửa, thì Scott đặt tay lên vai ông.

– Có lẽ chúng ta nên gõ cửa, Rất có thể ông ta..

– Sau đó chắc là anh sẽ muốn tôi gọi ông ta là ngài?

Scott nhe răng cười trong lúc Dexter gõ nhẹ, và khi không có ai trả lời, khẽ đẩy cửa mở ra. Ông rón rén bước vào và trông thấy Mendelssohn đang khom người trên tấm giấy da, với chiếc kính lúp trên tay.

– Benjamin Flanklin, John Morton và George Clymer, – viên chuyên gia lẩm bẩm.

– Tôi đã gặp nhiều rắc rối với Clymer, – Dollar Bill vừa nói vừa nhìn qua cửa sổ về phía bãi đậu xe. – Nét chữ quá láu mà tôi phải viết liền lại. Ông có thể thấy cả hai trăm chữ trong giỏ rác.

– Chúng tôi có thể đến gần cái ghế chứ? – Dexter hỏi.

Dollar Bill quay lại và vẫy vẫy tay ra dấu cho họ vào.

– Cho ông Mendelssohn. Tôi là Dexter Hutchins, Phó Giám đốc CIA.

– Ông có thể là gì khác hay sao? Dollar Bill hỏi.

Dexter không để ý tới lời nói đó và hỏi Mendelssohn:

– Ông có nhận xét gì, thưa ông?

Dollar Bill tiếp tục nhìn qua cửa sổ.

– Nó hoàn toàn giống bản chúng tôi đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

– Ông rất rộng lượng, thưa ông, – Dollar Bill vừa nói vừa quay người nhìn thẳng vào mắt họ.

– Nhưng tôi không hiểu tại sao ông lại viết từ “british” đúng chính tả, chứ không phải có hai chữ “i” như trong bản gốc, – Mendelssohn nói, chú ý lại bản tài liệu.

– Có hai lý do cho điều đó, – Dollar Bill nói trong lúc sáu con mắt nghi ngờ nhìn lai ông ta. – Thứ nhất, nếu việc trao đổi được thực hiện thành công. Saddam Hussein sẽ không thể tự cho ông ta vẫn còn giữ bản gốc trong tay.

– Thóng minh. – Scott nói.

– Còn thứ hai? – Dexter hỏi, vẫn còn nghi ngờ động lực của người đàn ông Ái Nhĩ Lan nhỏ bé.

– Nó sẽ ngăn cản ông giáo sư mang bản sao này về và tìm cách giả vờ đó là bản gốc.

Scott bật cười, nói:

– Ông luôn luôn suy nghĩ như một tội phạm.

– Và tốt hơn ông nên suy nghĩ những gì cần thiết cho ông trong mấy ngày sắp tới nếu ông quyết định chiến thắng Saddam Hussein – Dollar Bill nói trong lúc Charles vào phòng, mang một ly Guinness trên một khay bạc.

Dollar Bills cám ơn Charles, lấy phần thưởng khỏi khay và bước tới đầu kia phòng trước khi hớp ngụm đấu tiên.

– Tôi có thể hỏi…? – Scott lên tiếng.

– Tôi đã một lần làm đổ nước thánh lên một bản khắc axit với giá một trăm đô la mà tôi đã mất ba tháng chuẩn bị.

– Thế lúc đó ông đã làm gì? – Scott hỏi.

– Tôi e rằng tôi đành chấp nhận hạng nhì, việc đó đã khiến tôi phải lãnh thêm năm năm nữa.

Ngay cả Dexter cũng cười theo trong lúc Dollar Bill nói tiếp:

– Tuy nhiên, trong dịp này, tôi nâng ly với Matthew Thornton, người ký tên cuối cùng trên bản tài liệu. Tôi ước mong cho ông ta mạnh khoẻ bất cứ ông ta ở nơi nào, cho dù chữ “ts” của ông ta thật là quỷ quái.

– Thế thì tôi có thể lấy kiệt tác này ngay bây giờ – Scott hỏi.

– Chưa được đâu, ông bạn trẻ, – Dollar Bill nói – Tôi e ông phải làm bạn với tôi một buổi tối nữa – ông ta đặt cái ly trên bệ cửa sổ rồi nói tiếp – Ông nên biết tôi còn phải chiến đấu với thời gian. Theo nhận xét của ông Mendelssohn, tấm giấy da phải có vẽ cũ vào khoảng 1830. Tôi nói có đúng không, thưa ông?

Viên chuyên gia bảo vệ gật đầu và giơ hai tay lên tựa hồ xin lỗi vì đã dám nêu lên một khuyết điểm nhỏ bé như thế.

– Thế thì làm gì được bây giờ? – Dexter Hutchins hòi.

Dollar Bill liền bật một công tắc và các ngọn đèn xenon phía trên bàn chiếu xuống trên tấm giấy da làm cho căn phòng tràn đầy ánh sáng như đang chuẩn bị để quay phim.

– Tới chín giờ sáng ngày mai tấm giấy da sẽ như ra đời từ khoảng 1776. Mặc dù ông đã không cho tôi đủ thời gian, khiến tôi mất chính xác mấy năm, tôi vẫn tin chắc rằng sẽ không một ai ở Iraq có thể phát hiện sự khác biệt, trừ phi họ có một máy xác định niên đại bằng Carbon 14, và biết cách sử dụng.

– Thế thì chúng ta có thể hy vọng bản gốc chưa bị huỷ hoại. – Dexter Hutchins nói.

– Không thể được. – Scott nói.

– Điều gì khiến anh tin tưởng như thế? – Dexter hỏi.

– Ngày Saddam huỷ hoại tấm giấy da đó. Ông ta muốn cả thế giới chứng kiến. Điều đó thì tôi chắc chắn.

– Thế thì tôi nghĩ có thể uống một chầu rượu mừng, – người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói – Tất nhiên, với sự cho phép của ông chủ nhà hào hiệp của tôi.

– Uống mừng sao, Bill? – vị Phó giám đốc nói, có vẻ ngạc nhiên, rồi hỏi tiếp với giọng nghi ngờ. – Ông đang nghĩ đến ai đấy?

– Mừng Hannah, – người đàn ông Ái Nhĩ Lan nhỏ bé nói – bất kỳ cô đang ở đâu.

– Ông làm sao biết được? – Scott hỏi. – Tôi có bao giờ nhắc đến tên cô ấy đâu.

– Không cần phải thế, khi ông viết tên cô ấy trên tất cả mọi thứ từ mặt sau các phong bì cho đến các ô cửa sổ phủ hơi nước. Cô ấy phải là một tiểu thư rất đặc biệt, phải không giáo sư?

Ông ta nâng ly lên và nhắc lại:

– Mừng Hannah.

° ° °

Viên Trưởng phòng Hành chính ngồi chờ một cách kiên nhẫn cho tới khi người hầu gái dọn khay đựng bữa ăn tối của vợ. Rồi anh ta đóng cánh cửa ở đầu kia của hành lang.

Anh ta chờ thêm hai tiếng đồng hồ nữa, cho tới khi anh ta cảm thấy chắc chắn tất cả nhân viên Toà đại sứ đã đi ngủ. Tin tưởng mình là ngươi duy nhất vẫn còn thức, anh ta rón rén trở xuống văn phòng và tìm một số điện thoại ở Geneva. Anh ta quay mã số một cách từ từ và kỹ càng. Chuông reo một hồi lâu mới có người trả lời.

– Tôi cần nói chuyện với ông Đại sứ, – anh ta thì thào.

– Ngài Đại sứ đã đi ngủ khá lâu rồi, một tiếng nói đáp lại – Ông phải gọi lại sáng mai.

– Hãy đánh thức ông ấy dậy. Nói với ông ấy tôi là Abdul Kanuk ở Paris.

– Nếu ông nhất quyết.

– Tôi nhất quyết mà.

Viên Trưởng phòng Hành chính chờ một lúc và cuối cùng một giọng nói ngái ngủ vang lên từ đầu dây:

– Như thế này tốt hơn. Abdul.

– Al Obaydi đã đến Paris không báo trước, và sớm hai tuần so với dự tính.

– Anh đánh thức tôi dậy giữa đêm khuya để nói với tôi điều này à?

– Nhưng ông ấy đã không đến thẳng từ Baghdad, thưa ngài. Ông ấy đi theo một con đường vòng.

– Ông làm sao có thể chắc chắn như thế? – giọng nói có vẻ hơi tỉnh táo hơn.

– Bởi vì tôi đang giữ hộ chiếu của ông ấy.

– Nhưng ông ta đang nghỉ phép, anh ngốc!

– Tôi biết. Nhưng tại sao lại trải qua một ngày trong một thành phố không có một du khách nào biết tới?

– Anh đang nói toàn những câu khó hiểu. Nếu anh có điều gì cần nói với tôi thì hãy nói đi.

– Sáng sớm hôm nay, Đại sứ Al Obaydi đã ghé Stockholm, căn cứ theo con dấu trong hộ chiếu, nhưng ông ấy đã trở về Paris buổi tối cùng ngày. Tôi không nghĩ ông ấy đi nghỉ phép.

Stockholm… Stockholm… Stockholm…, – giọng nói ở đầu dây bên kia nhắc đi nhắc lại, tựa hồ cố ghi nhớ ý nghĩa của nó, rồi ngừng lại một lát và tiếp:

– Chiếc tủ sắt. Tất nhiên. Chắc hẳn ông ta đã đến Kalmar để kiểm tra chiếc tủ sắt của Sayedi. Ông ta đã phát hiện ra điều gì mà lại nghĩ là đáng để giấu tôi, và Baghdad có biết ông ta có thể làm gì hay không?

– Tôi không biết, thưa ngài. – Viên trưởng phòng Hành chính nói – Nhưng tòi biết ông ấy sẽ bay trở về Baghdad ngày mai.

– Nhưng nếu ông ta đang nghi phép tại sao ông ta lại trở về Baghdad nhanh như thế?

– Có lẽ làm Trưởng ban Lợi ích ở Paris không phai là sự tưởng thưởng xứng đáng đối với ông ấy, thưa ngài. Rất có thể ông ấy đang để mắt tới một phần thưởng nào đó lớn hơn?

Cuộc nói chuyện ngừng lại một lúc trước khi giọng nói ở Geneva tiếp tục:

– Anh đã làm tốt đấy, Abdul. Anh đã làm đúng khi đánh thức tôi. Tôi sẽ phải điện thoại cho Kalmar việc đầu tiên sáng mai. Việc đầu tiên.

– Ngài đã hứa hẹn, thưa ngài, nếu tôi cố gắng một. lần nữa lưu ý ngài…

° ° °

Tony Cavalli tóm lược mọi việc cho bố y sau khi Martin đã rót rượu cho cả hai người.

– Bị bắt trong một cuộc ẩu đả ở quán rượu, – Ông bố nói sau khi lắng nghe báo cáo của con trai.

– Phải, – Cavalli vừa nói vừa đặt một hồ sơ lên bàn bén cạnh y, – và tệ hơn nữa, ông ta đã bị kết án ba mươi ngày tù.

– Ba mươi ngày? – Bố y nói với vẻ nghi ngờ. dừng lại một lát rồi hỏi tiếp: – Con đã giao chỉ thị gì cho Laura?

– Con đã yêu cầu cô ta bám chặt cho tới ngày 15 tháng 7, khi Dollar Bill được phóng thích. – Tony trả lời.

– Thế thì họ nhốt ông ta ở đâu trong thời gian này?

– Nhà tù của quận?

– Không. Không hồ sơ lưu trữ tại toà án quận ở Fairmont. Họ đã tống ông ta trở lại trại giam tiểu bang, vì đã dính líu vào một cuộc ẩu đả trong quán rượu. – ông già nói – Nghe vô lý quá.

Ông ta chăm chú nhìn bản Tuyên ngôn Độc lập trên bức tường phía sau bàn và không nói gì trong một hồi lâu.

– Ai làm nội gián cho chúng ta?

Cavalli liền mở hồ sơ trên bàn bên cạnh y và lấy ra một tờ giấy duy nhất.

– Một sĩ quan cao cấp và sáu người cùng đơn vị. – y vừa nói vừa đưa tờ giấy qua, thích thú vì đã đoán trước được câu hỏi của bố y.

Ông già nghiên cứu kỹ bản danh sách trong một lúc trước khi bắt đầu liếm môi.

– Eduardo Bellati, chắc hẳn là một cách tốt nhất của chúng ta, – Ông ta vừa nói vừa ngước nhìn con trai. – Nếu bố nhớ đúng, hắn ta đã bị bắt và kết án chín năm tù vì đã giết chết một viên quan toà đã có lần dám cản đường chúng.

– Đúng, và hơn thế nữa, hắn ta luôn luôn vui sướng giết chết bất cứ ai chỉ vì một gói thuốc lá. – Tony nói – Như vậy, nếu hắn ta giải quyết Dollar Bill trước ngày 15 tháng 7, chúng ta sẽ tiết kiệm được một phần tư triệu đô la.

– Có một điều gì đó không ổn lắm, – bố y nói trong lúc ông ta đưa với một ly Whisky mà ông đã không đụng tới.

Một lúc sau mới tiếp, gần như đang nói với chính mình.

– Có lẽ tới lúc nên đào sâu hơn một chút.

Rồi ông ta kiểm tra lại bản danh sách một lần nữa.

° ° °

Al Obaydi thức dậy sáng sớm hôm sau, nóng lòng trở về Baghdad để cho ông ta có thể báo cáo với vị Bộ trưởng Ngoại giao về một điều mà ông đã biết được. Ngay sau khi trở lại Iraq, ông ta sẽ soạn ra một bản phúc trình đấy đủ.

Ông ta rà soát đi rà soát lại những điều chỉnh trong đầu.

Trước hết ông ta sẽ giải thích với vị Bộ trưởng Ngoại giao rằng trong lúc ông ta thực hiện một cuộc kiểm tra thường lệ về các biện pháp chế tài, ông ta đã biết được rằng chiếc tủ sắt do Tổng thống đặt hàng đã lên đường đi Baghdad. Khi khám phá ra điều này, ông ta đa nghi ngờ một kẻ thù của đất nước có lẽ đã dính líu vào một âm mưu ám sát Tổng thống. Không chắc ai là người đáng tin cậy, ông ta đã sử dụng khả năng tự lực, thậm chí thời gian và tiền bạc của mình để khám phá ra ai là kẻ chủ mưu. Ông ta chỉ cần báo cáo các chi tiết cho vị Bộ trưởng Ngoại giao một lúc là chắc chắn Tổng thống sẽ phát hiện được ai chịu trách nhiệm về chiếc tủ sắt và quan trọng hơn, ai đã không hoàn thành việc chăm sóc cho hạnh phúc của Tổng thống.

Một tiếng gõ cửa ngăn chặn luồng suy nghĩ của ông ta.

– Cứ vào đi – Ông ta nói và một người hầu gái mang vào một khay điểm tâm gồm hai lát bánh mì nướng cháy và một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ đặc quánh. Ngay sau khi cô ta đóng cửa lại, Al Obaydi chồm dậy, tắm nước lạnh – không phải do lựa chọn – mà mặc áo quần một cách nhanh chóng. Rồi ông ta đổ cà phê vào lavabo và không để ý tới bánh mì nướng.

Viên đại sứ rời khỏi phòng và bước xuống một dãy cầu thang tới văn phòng, nơi đây ông ta bắt gặp viên Trường phòng Hành chính đang đứng phía sau bàn làm việc. Trước đó anh ta có ngồi trên ghế hay không?

– Kính chào ngài, – anh ta nói – Tôi hy vọng ngài đã trải qua một đêm thoải mái.

Al Obaydi sắp sửa mất bình tĩnh thì câu hỏi của Kanuk khiến ông ta kinh ngạc:

– Ngài đã được báo cáo về các vụ oanh tạc ở Baghdad rồi chứ, thưa Ngài?

– Các vụ oanh tạc nào? – Al Obaydi hỏi, không thích bị đánh lừa.

– Dường như lúc hai giờ sáng hôm nay bọn Mỹ đã phóng mấy hoả tiễn Tomahawk vào đại bản doanh Mukhbarat ở trung tâm thành phố.

– Và kết quả như thế nào?

– Mấy thường dân bị chết, – viên Trưởng phòng Hành chính trả lời một cách tỉnh bơ, – nhưng ngài sẽ vui mừng biết rằng vị lãnh tụ yêu quý của chúng ta đã không ở trong thành phố vào thời gian ấy.

– Quả thực là tin tốt lành. – Al Obaydi nói – Nhưng việc đó lại càng khiến cho tôi phải trở về Baghdad ngay lập tức.

Kanuk gật đầu.

– Tôi đã xác nhận vé máy bay cho ngài.

– Cám ơn anh, – Al Obaydi vừa nói vừa chăm chú nhìn qua cửa sổ.

Kanuk cúi đầu thấp để tỏ lòng tôn kính.

– Tôi sẽ sắp xếp để đón ngài ở phi trường khi ngài trở về, và lần này mọi việc sẽ được chuẩn bị đầy đủ lúc ngài đến. Trong lúc chờ đợi, tôi sẽ đi lấy hộ chiếu cho ngài. Xin phép ngài.

Al Obaydi ngồi xuống phía sau bàn làm việc. Ông ta tự hỏi mình sẽ chỉ làm Trưởng ban Lợi ích ở Paris bao lâu ngay sau khi Saddam biết được ai là người đã cứu mạng ông.

° ° °

Tony quay số điện thoại trên đường dây riêng của y.

Máy điện thoại ở đầu bên kia được nhấc lên bởi viên phó quản nghe. Anh ta trả lời câu hỏi đầu tiên của Cavalli bằng cách xác nhận anh ta đang ở một mình. Anh ta lắng nghe câu hỏi thứ hai của Cavalli một cách thận trọng trước khi trả lời.

– Nếu Dollar Bill được tìm thấy ở bất cứ nơi đâu trong nhà tù này thì hắn ta được che giấu còn giỏi hơn cả bản kê khai lợi tức để đánh thuế của Leono Helmsley.

– Nhưng hồ sơ lưu trữ của toà án quán cho biết hắn ta đã gửi đơn khiếu nại với anh vào đêm 16 tháng 6.

– Hắn ta có thể gửi đơn khiếu nại với chúng tôi nhưng chắc chắn hắn ta chưa bao giờ xuất hiện, – giọng nói ở đầu dây bên kia vang lên. – Và không cần phải mất tám ngày đi từ toà án quận San Francisco đến đây, trừ phi họ quay lại thời xa xưa xiềng tội phạm lại và bắt hắn đi bộ suốt quãng đường đó.

Anh ta vừa cười vừa nói tiếp.

– Cái đó không phải là một ý kiến tồi.

Cavalli không cười:

– Chỉ cần anh phải khép kín miệng và giỏng tai lên, và cho tôi biết ngay lúc anh nghe bất cứ điều gì.

Đó là tất cả lời ông ta nói trước khi đặt máy điện thoại xuống.

Cavalli vẫn ngồi tại bàn một tiếng đồng hồ sau khi cô thư ký của ông ta rời khỏi phòng để chuẩn bị những gì cần phải làm sau đó.

Bình luận
× sticky