Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật Giang Hồ

Chương 8

Tác giả: Jeffrey Archer

Button Gwinnett 1 quả là cả một vấn đề. Nét chữ vừa ngoằn ngoèo vừa nhỏ và chữ G nghiêng về phía trước. Phải mấy tiếng đồng hồ sau Dollar Bill mới sẵn sàng sao chép chữ ký trên hai tấm giấy da còn lại. Trong những ngày kế tiếp, y dùng tới năm mươi sáu ánh mực khác nhau và thay đổi sức ép từng chút một của các đầu bút bằng cách thử đi thử lại nhiều lần mới cảm thấy hài lòng với Lewis Morris, Abraham Clark, Richard Stockton và Caesar Rođney. Nhưng y cảm thấy kiệt tác của y rõ ràng là John Hancock về kích thước mức chính xác, ánh mực và sức ép gã Ái Nhĩ Lan hoàn tất hai bản sao của bản Tuyên ngôn Độc lập bốn mươi tám ngày sau khi y nhận lời mời của Angelo Santoni đi uống một chầu ở một quán rượu khu thương mại của San Francisco.

– Một bản sao đúng là hoàn hảo, – y nói với Angelo, – còn bản kia có một thiếu sót rất nhỏ.

Angelo đứng nhìn kỹ hai bản sao một cách sững sờ, không sao nghĩ ra một lời nào để diễn tả một cách đúng mức sự khâm phục của gã.

– Khi William J. Stone được yêu cầu sao lại một bản vào năm 1820, ông ta đã mất gần ba năm trời, – Dollar Bill nói – Và quan trọng hơn, ông ta được sự chấp thuận của Quốc hội.

– Ông có định nói cho tôi biết sự khác biệt duy nhất giữa bản sao cuối cùng ông chọn và bản gốc?

– Không, nhưng tôi sẽ nói cho anh biết chính William J. Stone đã chỉ cho tôi theo đúng hướng.

– Thế rồi sau đó? – Angelo hỏi.

– Hãy kiên nhẫn, – Dollar Bill nói, – bởi vì cái bánh bông lan của chúng ta cần thời gian để mở ra.

Angelo quan sát trong lúc Dollar Bill chuyển hai tấm giấy da một cách thận trọng lên một bàn ở trung tâm căn phòng mà y đã đặt sẵn một ngọn đèn Xenon làm nguội bằng nước Cái này cho ta một ánh sáng như ban ngày, nhưng có cường độ lớn hơn nhiều, y giải thích.

Y bật đèn và căn phòng sáng rực lên như một phim trường của đài truyền hình rồi nói tiếp.

– Tôi đã tính toán đúng, cái này sẽ giúp ta đạt được trong vòng ba mươi giờ hiệu quả mà thiên nhiên phải mất hai trăm năm mới gây nên cho bản gốc.

Y mỉm cười.

– Chắc chắn đủ thời gian để uống thật say.

– Chưa được, – Angelo do dự nói – Ông Cavalli còn có một yêu cầu nữa.

– Yêu cầu đó là gì? – Dollar Bill hỏi bằng giọng Ái Nhĩ Lan nồng nhiệt.

Y lắng nghe ý muốn sau cùng của ông Cavalli với vẻ thích thú.

– Tôi cảm nghĩ tôi phải được trả gấp đôi trong tình huống này.

Đó là câu trả lời duy nhất của Dollar Bill.

– Ông Cavalli đã đồng ý trả thêm cho ông mười nghìn nữa, – Angelo nói.

Dollar Bill nhìn xuống hai bản sao, nhún vai và gật đầu.

° ° °

Ba mươi sáu giờ sau, chủ tịch và giám đốc điều hành của kỹ năng đáp máy bay đi Washington.

Họ có hai vấn đề cần xác định trước khi bay trở về New York. Nếu cả hai hội thảo của ban điều hành mà họ hy vọng sẽ thực hiện hợp đồng.

Tuy nhiên nếu kết quả không chắc chắn, Cavalli sẽ trở về Wall Street và gọi hai cú điện thoại. Một cú cho ông Al Obaydi, giải thích lý do không thể thực hiện yêu cầu của ông ta và cú thứ hai cho đầu mối của họ ở Lebannon để nói cho người đồ hay rằng họ không thể giao dịch với một người đòi hỏi mình phần trăm số tiền phải được gửi vào một tài khoản ngân hàng Thuỵ Sĩ với tên của hắn ta.

Cavalli thậm chí sẽ cung cấp số tài khoản mà họ đã mở với tên của Al Obaydi ở Geneva và như vậy trách nhiệm về sự thất bại sẽ được di chuyển từ bố con Cavalli sang viên Phó đại sứ từ Iraq.

Khi hai người bước ra khỏi phòng đón khách chính của phi trường, một chiếc xe hơi chờ để đưa họ vào Washington. Qua cầu đường 14 họ tiếp tục theo hướng Đông trên đại lộ quốc gia, một toà nhà cả hai người chưa ai từng viếng thăm.

Sau khi đã ở bên trong cánh Đông, họ ngồi xuống trên tượng lớn của Calder 2 và chờ đợi.

Chính tiếng vỗ tay lôi cuốn sự chú ý của họ trước khi họ ngước lên để xem chuyện gì gây huyên náo, họ quan sát trong lúc đám đông du khách đứng sau một bên, cố tạo ra một khoảng trống.

Khi họ trông thấy ông ta lần đầu tiên, bố con Cavalli tự động đứng lên. Một toán vệ sĩ, hai người trong bọn Antonio biết mặt, dẫn đường cho người đàn ông đi xuyên qua đám đông trong lúc ông ta bắt tay với càng nhiều người càng tốt.

Vị chủ tịch và viên giám đốc điều hành tiến mấy bước về phía trước để thấy rõ hơn cảnh tượng đang diễn ra.

Thật là phi thường, nụ cười, dáng đi, ngay cả cái quay đầu hết sức thoải mái. Khi ông ta dừng lại trước mặt họ và cuối xuống để nói chuyện với một cậu bé trong một lúc, nếu họ không biết sự thật có lẽ chính họ cũng phải tin.

Khi người đàn ông tới trước toà nhà, đám vệ sĩ dẫn đường cho ông ta về phía trước xe hơi sang trọng thứ ba trong một dãy sáu chiếc. Trong chốc lát, ông ta đã lượt đi, xuống còi nhỏ dần. vào phía xa.

– Cuộc diễn tập này làm hao tốn tôi một trăm nghìn đô la, – Tony nói trong lúc họ quay trở lại lối vào.

Trong lúc y đẩy qua cánh cửa quay một cậu bé vừa chạy ào quay vừa rán cổ la to.

– Tôi vừa mới trông thấy Tổng thống! Tôi vừa mới trông thấy Tổng thống.

– Đáng giá từng xu, – bố Tony nói – Bây giờ tất cả những gì ta cần biết là Dollar Bill có xứng đáng với tiếng tăm của anh ta hay không?

° ° °

Hannah nhận một cú điện thoại khẩn yêu cầu nàng tham dự một cuộc hội thảo ở Toà đại sứ khi lớp học của nàng còn bốn tháng nữa mới kết thúc. Nàng phỏng đoán mọi việc sẽ vô cùng tồi tệ.

Trong các kỳ thi được tổ chức vào mới ngày thứ sáu khác, Hannah cứ liên tục đạt điểm cao hơn năm điệp viên thực tập khác vẫn còn ở London. Vào giai đoạn này nàng cương quyết không để cho thiên hạ bảo rằng nàng không đủ năng lực.

Cuộc hẹn ngoài chương trình với ông uỷ viên hội đồng đại diện cho Vụ Văn hoá, một chức vụ giả hiệu của Đại tá Kratz, nhân vật cao cấp nhất của Mossad ở Londơn, đã được định vào sáu giờ chiều hôm nay.

Trong cuộc thực tập buổi sáng của nàng, Hannah đã không sao tập trung vào các công trình của đấng Tiên tri Mohammed và trong suốt buổi chiều thậm chí nàng còn trải qua mặt thời gian gay go hơn với hoạt động và nhiệm vụ của nức Anh ở Iraq, 1917 – 1932. Nàng sung sướng thoát khỏi lúc năm giờ mà không bị giao thêm công việc gì.

Toà đại sứ Do thái trong hai năm vừa qua đã biến thành một khu cấm địa đối với tất cả các điệp viên thực tập trừ khi được đặc biệt mời đến. Nếu bạn được triệu tập bạn thừa biết đó chí là để thu hồi vé máy bay trớ về: chúng tôi không cần dùng bạn nữa. “Xin chào” và nếu bạn may mắn: “Cám ơn bạn”. Hai thực tập viên đã đi theo con đường đó trong tháng vừa qua.

Hannah chỉ trông thấy Toà đại sứ một lần, trong lúc nàng được đưa qua đó bằng xe hơi vào ngày đầu tiên nàng trở lại thủ đô. Nàng thậm chí không biết chắc vị trí của nó.

Sau khi dò trên bản đồ toàn bộ thành phố London, nàng mới phát hiện nó ở Palace Green, Kensington, cách đường một quãng ngắn.

Hannah bước ra khỏi ga tàu điện ngầm South Kensington lúc sáu giờ kém vài phút. Nàng thả bộ ngược lên lề đường rộng vào Palace Green và đến tận Toà đại sứ Phi luật tân rồi mới quay trở lại để tới phái bộ Do thái ngay trước giờ hẹn. Nàng mỉm cười với viên cảnh sát trong lúc nàng trèo lên bậc thềm đến cửa trước.

Hannah thông báo tên của nàng cho nhân viên tiếp tân, và giải thích nàng có một cuộc hẹn với uỷ viên Hội đồng đại diện cho Vụ Văn hoá.

– Tầng một, sau khi cô lên tới đầu cầu thang, cánh cửa màu xanh lá cây ở ngay trước mắt cô.

Hannah trèo lên cầu thang rộng một cách chầm chậm, cố gắng tập trang tư tưởng. Nàng cảm thấy một nỗi lo ập đến trong lúc nàng gõ lên cửa. Cánh cửa mở mạnh ra ngay lập tức

– Rất vui được gặp cô, Hannah, – một người đàn ông còn trẻ mà nàng chưa từng gặp nói – Tên tôi là Kratz. Xin lỗi phải gọi cô đến gấp như thế này, nhưng chúng tôi đang gặp rắc rối. Xin mời cô ngồi, ông ta vừa nói tiếp vừa chỉ một chiếc ghế tựa êm ái ở phía bên kia của cái bàn lớn.

Không chỉ là một người có thói quen nói những vấn đề nhỏ, đó là kết luận đầu tiên của Hannah.

Hannah ngồi thẳng người trên ghế và chăm chú nhìn người đàn ông đối diện với nàng. Ông ta có vẻ quá trẻ đối với chức uỷ viên Hội đồng đại diện cho Vụ Văn hoá. Nhưng rồi nàng nhớ lại lý do thực sự về việc bố trí vị đại tá ở London. Kratz có một gương mặt nồng nhiệt, bộc trực và nếu ông ta không bị hói trán hơi sớm, thậm chí ông ta có thể được mô tô là đẹp trai.

Hai bàn tay thô kệch của ông ta đặt trên bàn phía trước mặt trong lúc ông ta nhìn qua phía Hannah. Đôi mắt ông ta không hề rời khỏi nàng và nàng bắt đầu cảm thấy mất tự chủ vì sự tập trung đó.

Hannah siết chặt nắm tay. Nếu nàng phải bị đưa về nhà, tối thiểu nàng sẽ trình bày trường hợp của nàng mà nàng đã chuẩn bị và tập dượt.

Vị uỷ viên hội đồng tỏ vẻ do dự tựa hồ ông ta đang quyết định cách phát biểu điều cần nói. Hannah mong ước ông ta muốn nói gì cũng được. Như thế này thì còn tồi tệ hơn khi chờ đợi kết quả của một kỳ thi mà bạn đã biết là mình hỏng.

– Cô sống như thế nào với gia đình Rubins? – Kratz chợt hỏi.

– Rất tốt, cám ơn ông, – Hannah nói.

Không cho biết một chi tiết nào, nàng quyết định không để cho ông ta giữ kín lâu mục đích thực sự của cuộc gặp gỡ này.

– Còn lớp học tiến hành như thế nào?

Hannah gật đầu và khẽ nhún vai.

– Và cô đang ước mong trở lại Do thái phải không? – Kratz tiếp tục hỏi.

– Chỉ khi nào tôi đã làm được một công việc đáng giá mới trở về, – Hannah trả lời, bực mình vì nàng đã mất cảnh giác.

Nàng ước mong Kratz nhìn ra chỗ khác chỉ trong giây lát.

– Được rồi, rất có thể cô sẽ không trở về Do thái, – Kratz nói.

Hannah đổi thế ngồi của nàng trên ghế.

– Tối thiểu, không phải ngay lúc này, – Kratz nói tiếp. – Có lẽ tôi phải giải thích rõ. Mặc dầu lớp huấn luyện của cô còn bốn tháng nữa mới kết thúc.

Ông ta mở một tập hồ sơ để trên bàn phía trước ông ta và tiếp tục:

– Giáo viên của cô đã thông báo với chúng tôi rằng cô có triển vọng đạt được kết quả các kỳ thi cuối cùng tốt hơn bất cứ người nào trong số năm điệp viên còn lại và tôi tin chắc cô biết như thế.

Đây là lần đầu tiên nàng được xem là một điệp viên.

– Chúng tôi đã quyết định cô sẽ tham gia vào đội cuối cùng. – Kratz nói, như thể đoán trước câu hỏi của nàng. – Nhưng cơ hội đã xuất hiện và chúng tôi nghĩ cô là người có đủ khả năng nhất để tận dụng ngay lúc này.

Hannah cúi người về phía trước trên ghế.

– Nhưng tôi tưởng tôi đang được huấn luyện để đi Baghdad.

– Đúng thế, và tới lúc thuận tiện cô sẽ đi Baghdad, nhưng giờ đây chúng tôi muốn đưa cô vào một khu vực thù địch khác. Không có cách nào tốt hơn cô phải tìm ra cách tự xoay sở trong tình trạng căng thẳng.

– Ông định nói nơi nào thế – Hannah hỏi, không sao che giấu được nỗi thích thú.

– Paris.

– Paris? – Hannah nhắc lại với vẻ khó tin.

– Phải. Chúng tôi đã bắt được một nguồn tin cho hay người đứng của Ban lợi ích Iraq đã yêu cầu chính phủ ông ta cung cấp cho ông ta một nữ thư ký phụ. Cô gái đã được ra chọn và sẽ rời Baghdad đi Paris trong thời gian mười ngày. Nếu sẵn sàng chiếm chỗ cô ta, cô ta sẽ không bao giờ đến được phi trường Charles de Gaulle.

– Nhưng họ sẽ biết tôi là người đợi tốt trong vòng mấy phút.

– Không chắc đâu, Kratz vừa nói vừa lấy một hồ sơ dày hơn ra khỏi một ngăn kéo của bàn ông ta và lật mấy trang.

– Cô gái này đã học ở trường Trung học Putney rồi vào Trường Đại học Durham để học Anh ngữ, trong cả hai thời gian đó đều nhờ vào tiền trợ cấp của chính phủ Iraq. Cô ta muốn ở lại Anh nhưng bị bắt buộc trở về Baghdad khi chiếu khán cho sinh viên đã bị huỷ bỏ vừa đúng hai năm trước đây.

– Nhưng gia đình cô ta…

– Bố chết trong chiến tranh với Iran và mẹ đã đi sống với cô em, ngay bên ngoài Karbala.

– Anh chị em?

– Một người em trai đang ở trong lực lượng Phòng vệ Cộng hoà, không có chị em gái. Đó là tất cả trong hồ sơ. Cô sẽ được dành mấy ngày để nghiên cứu các thông tin cần thiết trước khi cô phải quyết định. Tel Aviv tin chắc chúng ta có một dịp may để đưa cô vào chỗ cô ta. Kiến thức toàn diện của cô về Paris hiển nhiên là vô cùng hữu ích. Chúng tôi sẽ chỉ bỏ cô ta ở đó trong ba đến sáu tháng là nhiều nhất.

– Và sau đó?

– Trở về Do thái để chuẩn bị đi Baghdad. Nếu cô quyết định phận nhiệm vụ này, ý định quan trọng nhất của chúng tôi là không sử dụng cỏ với tư cách một điệp viên. Chúng tôi đã có mấy điệp viên ở Paris. Chúng tôi chỉ cần cô tiếp thu mọi việc chung quanh cô và quen với lối sống của người A rập, cách suy nghĩ giống như họ. Cô không được giữ bất cứ hồ sơ nào thậm chí cả ghi chép. Chuyển tất cả mọi việc vào ký ức. Cô sẽ được phỏng vấn khi chúng tôi rút cô về. Cô đừng bao giờ quên rằng nhiệm vụ cuối cùng của cô vô cùng quan trọng đối với nước Do Thái, chưa bao giờ có gì quan trọng hơn.

Ông ta mỉm cười lần đầu tiên và nói tiếp.

– Có lẽ cô muốn suy nghĩ kỹ trong vài ngày.

– Không, cám ơn ông, – Hannah nói.

Lần này chính Kratz tỏ vẻ lo lắng trong lúc nàng vẫn bình thường.

– Tôi vui mừng nhận công việc này nhưng tôi có một vấn đề?

– Vấn đề gì? – Kratz hỏi.

– Tôi không biết đánh máy, nhất là chữ A rập.

Ông ta bật cười:

– Thế thì chúng tôi sẽ sắp xếp một lớp học cấp tốc cho cô. Cô nên rời khỏi nhà gia đình Rubins ngay tức khắc và tự di chuyển đến Toà đại sứ vào đêm mai. Người ta sẽ không hỏi han cô gì hết và cũng không đề nghị gì. Trong lúc chờ đợi, cô hãy nghiên cứu cái này.

Ông ta đưa cho cô một bìa đựng giấy tờ màu nâu với cái tên “Karima Sai” viết ở phía trên với những chữ cái đậm nét và nói tiếp:

– Trong vòng mười ngày cô phải thuộc lòng tập hồ sơ này. Những điều hiểu biết mà cô ghi nhớ được có thể cứu mạng cô.

Kratz đứng lên từ phía bên kia bàn và bước quanh để tiễn Hannah ra cửa.

– Chỉ còn một thứ nữa, – ông ta nói trong lúc mở cửa cho nàng. – Tôi tin cái này là của cô.

Vị Uỷ viên Hội đồng đại diện cho Vụ văn hoá đưa cho Hannah một chiếc valy nhỏ méo mó.

° ° °

Trong một chiếc xe hơi trên đường đi Georgetown, Cavalli giải thích cho ông bố của y rằng cách xa nhà trưng bày chừng một trăm mét tài xế không được nhấn còi và chiếc xe hơi đó sẽ tách khỏi đội hình như các chiếc xe khác lúc đến sáu giao lộ kế tiếp, mất dạng vào dòng xe lưu thông buổi sáng.

– Còn anh chàng diễn viên?

– Với đầu sói giả lấy ra và mang kính đen, sẽ không có một ai nhìn lại một Loyd Dam một lần thứ hai. Anh ta sẽ đi tàu điện ngầm trở về New York trong buổi chiều.

– Tài tình!

– Sau khi các tấm bảng số đã được thay đổi, sáu chiếc xe sẽ trở lại thành phố trong vài ngày sau với bàng số gốc New York.

– Con đã làm một công việc hết sức chuyên nghiệp, – bố y nói.

– Phải, nhưng đó chỉ là cuộc diễn tập của một cảnh mà thôi. Việc chúng ta đang dự kiến chuẩn bị trong thời gian bốn tuần là trình diễn một vở kịch ba hồi với toàn bộ Washington được mời làm khán giả.

– Con cố đừng quên rằng chúng ta đang được trả một trăm triệu để gây rối, – ông già nhắc con trai.

– Nếu chúng ta bỏ cuộc sẽ bị trả đũa một cách ra trò. – Cavalli nói trong lúc chiếc xe hơi chạy qua khách sạn Four Seasons. Người tài xế quẹo trái xuôi theo một đường phụ và dừng lại bên ngoài một ngôi nhà gỗ cũ kỹ nhưng khá hấp dẫn. Angelo đang đứng chờ bên cạnh một cổng sắt trên đầu mấy bậc thềm bằng đá. Vị chủ tịch và viên dẫn đội diễu hành ra khỏi xe và đi theo Angelo xuống các nấc thang với một tốc độ nhanh, không nói với nhau một lời nào.

Chính cửa sổ ở tận cùng đã mở sẵn. Khi họ đã ở bên trong, Angelo giới thiệu họ với Bill Oreilly. Bill dẫn họ xuôi theo hành lang tới phòng của y. Khi y tới cánh cửa khoá y xoay chìa khoá như thể họ sắp sửa bước vào hang của Aladdin. Y mở cửa và ngừng lại chỉ trong một lát trước khi bật đèn, rồi dẫn mọi người tới trung tâm của căn phòng, nơi hai bản thảo đang chờ họ kiểm tra. Y giải thích với mấy người khách rằng chỉ có một bản giống y nguyên bản.

Bill đưa cho hai người một cái kính lúp rồi thụt lùi lại một bước để chờ ý kiến của họ. Tony và bố y hoàn toàn không biết phải bắt đầu tử đâu và khởi sự nghiên cứu cả hai bản trong mấy phút, không thốt lên một tiếng nào.

Tony bỏ thời giờ vào việc dọc kỹ chương mở đầu: “When in the course of human events…”, trong lúc bố y mỗi lúc một thêm say mê các chữ ký của Francis Lightfoot và Carter Braxtor, mà các đồng nghiệp ở Virginia đã để chỗ cho họ quá ít ở cuối tấm giấy da để ký tên.

Một lúc sau, ông bố của Tony dừng thẳng người lên, quay về phía người đàn ông Ái Nhĩ Lan nhỏ thó, đưa trả chiếc kính lúp và nói:

– Tuyệt, tôi chỉ có thể nói rằng William J. Stone chắc sẽ rất tự hào nếu biết được anh.

Dollar Bill cúi đầu, bày tỏ lòng cám ơn trước, lời khen tột bực đó.

– Nhưng bản nào thật sự hoàn hảo và bản nào có thiếu sót? – Cavalli hỏi.

– A – Dollar Bill nói – Cũng chính William J. Stone đã chỉ cho tôi phương hướng đúng để giải quyết vần đề hóc búa nhỏ bé này.

Hai bố con Cavalli kiên nhẫn chờ đợi Dollar Bill tiếp tục giải thích.

– Các ông cũng biết, khi Timothy Matlock ghi chép nguyên bản vào năm 1776, ông ta đã phạm ba điểm thiếu sót ông ta có thể sửa chữa được hai điểm chỉ bằng cách viết chèn thêm vào. Dollar Bill chỉ vào từ “represtative” 3 nơi hai chữ cái e và a bị thiếu, rồi vào từ “only” mà mấy dòng phía dưới bị bỏ trống. Cả hai nơi sửa chữa đều có chèn một dấu A.

– Nhưng, – Dollar Bill nói tiếp, – ông Matlock đã sai một lỗi chính tả mà ông ta đã không sửa chữa. Trên một trong hai bản sao các ông sẽ tìm thấy, tôi đã thấy.

— —— —— —— ——-

1 Button Gwinnett (1735-1777) nhà ái quốc Mỹ ra đời tại Anh, một trong những người ký tên vào bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ.

2 Alexander Calder (1898 – 1976): nhà điêu khắc trừu tượng Mỹ.

3 Representative: đại diện.

Bình luận