Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật Giang Hồ

Chương 27

Tác giả: Jeffrey Archer

Saddam gật đầu nói với viên Biện lý:

– Bây giờ chúng ta đã giải quyết xong tên phản quốc, chúng ta hãy chuyển sang bọn khủng bố. Tình trạng gần đây nhất như thế nào, Đại tướng?

Đại tướng Hamil, biệt danh là Thợ Cạo của thành phố Baghdad liền mở tập hố sơ trước mặt ông ta có hồ sơ của từng người, kể cả những người đang ngồi xung quanh bàn.

Hamid đã học ở Sandhurst(1) và trở về Iraq để tham gia Hội đồng Hoàng tộc, chỉ để nhận thấy không còn vị vua nào để phục vụ. Vì thế ông ta chuyển lòng trung thành sang vị Tổng thống mới, Albul Karim Qasim. Rồi một viên Đại uý trẻ đổi phe trong cuộc đảo chính năm 1963 và đấng Baath nắm chính quyền. Một lần nữa, Hamil chuyển lòng trung thành, và được tưởng thưởng bằng một sự bổ nhiệm vào ban nhân viên của vị Phó Tổng thống mới, Saddam Hussein. Kể từ ngày hôm ấy, ông ta được thăng cấp một cách nhanh chóng. Hiện nay ông ta là viên Đại tướng được ưu ái của Saddam, Chỉ huy trưởng Đội quân Phòng vệ của Tổng thống. Ông ta có điểm độc đáo là người duy nhất, ngoại trừ các vệ sĩ của Tổng thống, được phép mang một vũ khí ở thắt lưng trước sự hiện diện của Saddam. Thú tiêu khiển thích thú nhất của ông ta là cạo đầu các nạn nhân trước khi họ bị treo cổ bằng một con dao cạo có cán mà ông ta không bao giờ nghĩ đến việc mài cho bén. Một vài người trong số họ đã khiến ông ta thất vọng vì phải chết trước khi có thể bị tròng dây thừng quanh cổ.

Hamil nghiên cứu hồ sơ một hồi trước khi phát biểu ý kiến:

– Bọn khủng bố đã qua biên giới lúc 21 giờ 26 phút đêm hôm qua. Bốn sổ hộ chiếu đã được xuất trình cho nhân viên di trú để đóng dấu. Ba cái có xuất xứ từ Thuỵ Điển và một cái có xuất xứ Iraq.

– Tôi sẽ đích thân lột da tên đó. – Saddam nói.

– Bốn tên đi trên một chiếc xe tải có vẻ cũ rích, nhưng vì chủng tôi không thể liều lĩnh đến quá gần để nhìn, tôi không thể chắc chắn có phải chúng ta đang đối đầu với con ngựa thành Troy(2) hay không? Chiếc tủ sắt mà Tổng thống đặt chế tạo nhất định ở trên phía sau của xe tải.

“Chiếc xe tải đã chạy không ngừng suốt đêm với một tốc độ đều đặn vào khoảng sáu mươi lăm cây số mỗi giờ về hướng Baghdad, nhưng vào lúc 4 giờ 9 phút sáng nay nó quẹo vào sa mạc, và chúng tôi không còn theo dõi được chuyển động của nó nữa, vì con đường mòn đặc biệt đó không biết dẫn tới nơi nữa. Chúng tôi tin bọn chúng chỉ tách khỏi đường để nghỉ ngơi trước khi tiếp tục đi vào thì đô trong buổi sáng hôm nay”.

– Lúc đó bọn chúng còn cách Baghdad bao nhiêu cây số? – Bộ trưởng Nội vụ hỏi.

– Sáu mươi lăm, hoặc tám mươi – một giờ tới một giờ rưỡi là tối đa.

– Thế thì, nếu lúc này bọn chúng đang bị kẹt song sa mạc, tại sao Đại tướng không gửi binh lính vào ngăn chặn bọn chúng lại?

– Trong lúc bọn chúng đang chở chiếc tủ sắt đến Baghdad hay sao? – Saddam nói – Không. Như thế rất nguy hiểm cho chúng ta.

– Tôi không hiểu Tổng thống muốn nói gì? – Bộ trưởng Nội vụ vừa nói vừa quay về phía vị lãnh tụ.

– Thế thì tôi sẽ giải thích cho ông Bộ trưởng, – Saddam nói, nhấn mạnh mấy từ cuối một cách độc ác. – Nếu chúng ta chặn bắt bọn chúng trong sa mạc, ai sẽ tin chúng ta khi chúng ta nói với thế giới bọn chúng là những tên khùng. Báo chỉ phương Tây thậm chí sẽ phản bác rằng chúng ta đã đành tráo hộ chiếu của chúng. Không, tôi muốn tóm bọn chúng ngay tại đây, trong phòng Hội đồng. Khi đó Mossad sẽ không thể nào phủ nhận sự dính líu của mình và quan trọng hơn nữa, chúng ta sẽ vạch trần âm mưu của bọn chúng và biến bọn chúng thành một lũ ngu đần trong con mắt nhân dân Do thái.

– Bây giờ tôi mới hiểu sự thông thái sâu sắc của Tổng thống.

Saddam vẩy tay và quay sự chú ý sang Bộ trưởng Công nghiệp:

– Các mệnh lệnh của tôi đã được thi hành rồi chứ?

– Từng chi tiết, thưa ngài. Khi bọn khủng bố đến Bộ, bọn chúng sẽ bị bắt phải chờ đợi, và sẽ được đối xử một cách cộc lốc cho đến khi bọn chúng xuất trình tài liệu chứng tỏ xuất phát từ văn phòng của ngài.

– Bọn chúng đã xuất trình một bức thư như thế ở biên giới. – Đại tướng Hamil nói, mắt vẫn còn nhìn xuống hồ sơ.

– Lúc một bức thư như thế được xuất trình cho văn phòng của tôi, – Bộ trưởng Công nghiệp nói tiếp – Một cần cẩu sẽ được cung cấp để cho chiếc tủ sắt có thể được chuyển vào trong toà nhà này. Tôi e rằng chúng ta sẽ phải phá bỏ mấy chiếc cửa trước toà nhà này, nhưng chỉ…

– Tôi không quan tâm đến mấy cánh cửa, – Saddam nói, – Ông dự đoán lúc nào thì chiếc tủ sắt sẽ đến bên ngoài toà nhà?

– Khoảng mười hai giờ trưa, – Đại tướng Hamil nói – Tôi sẽ đích thân điều khiển toàn bộ hoạt động ngay sau khi chiếc tủ sắt đã ở bên trong toà nhà, thưa Tổng thống.

– Tốt. Và cố làm sao cho bọn khủng bố trông thấy được bản Tuyên ngôn trước khi bọn chúng bị bắt.

– Nếu bọn chúng tìm cách phá huỷ bản Tuyên ngôn thì sao, thưa ngài?

– Không bao giờ. – Saddam nói. – Bọn chúng đã đến Baghdad cốt để chỉ lấy trộm bản Tuyên ngôn, chứ không phải để phá huỷ tài liệu lịch sử thống thiết đó.

Hai ba người ngồi chung quanh bàn gật đầu đồng ý, trong lúc vị Tổng thống nói tiếp:

– Không một ai trong số các ông, ngoại trừ Đại tướng Hamil và nhân viên thân cận nhất của ông ấy, được đến bất cứ nơi nào gần toà nhà này trong hai mươi bốn giờ sắp tới. Càng có ít người biết chuyện đang thực sự xảy ra càng tốt; thậm chí không nói gì đến viên sĩ quan trực nhật. Tôi muốn các biện pháp an ninh bên ngoài có vẻ lỏng lẻo. Như thế bọn chúng sẽ rơi ngay vào bẫy của chúng ta.

Đại tướng Hamil gật đầu.

– Ông Biện lý, – Saddam vừa nói vừa quay sự chú ý về phía đầu bàn đằng kia, – cộng đồng quốc tế sẽ nói gì khi hay tin tôi tóm được lũ lợn Do thái?

– Bọn chúng là những tên khủng bố, thưa ngài, và đối với bọn khủng bố, chỉ có thể có một bản án. Nhất là sau khi Mỹ phóng hoả tiễn lên đầu các thường dân vô tội mới cách đầy mấy ngày.

Saddam mỉm cười.

– Còn vấn đề gì nữa không?

– Chỉ còn một vấn đề, thưa ngài, – Thứ trưởng Ngoại giao nói, – Ngài muốn làm gì đối với cô gái?

– A phải, – Saddam vừa nói vừa mỉm cười lần đầu tiên – Bây giờ thì cô ta đã đạt mục đích, tôi phải nghĩ ra cách thích hợp nhất để chấm dứt tính mạng cô ta. Lúc này cô ta đang ở đâu?

***

Trong lúc chiếc xe tải bắt đầu cuộc hành trình chậm chạp trở lại theo con đường mòn nhỏ xíu vắng vẻ, tới phiên Aziz cầm lái và Cohen ở phía sau với Bà Bertha, Scott cảm thấy lần này không khí trong buồng lái đã thay đổi. Khi họ rời khỏi xa lộ để nghỉ ngơi, anh vẫn còn tin họ không đến nỗi lâm nguy. Nhưng sự im lặng ảm đạm của buổi sáng đã khiến anh bỗng nhận thức rõ công việc họ đang đảm trách cùng nhau.

Họ đã có Kratz để cám ơn về ý nghĩ độc đáo, và đã phối hợp với sự pha trộn đặc biệt của trí tưởng tượng, tính kỷ luật, lòng can đảm cùng sự giả vờ không một ai biết gì về việc họ đang làm. Scott có cảm tưởng họ đã có khả năng thoát thân, nhất là giờ đây họ đã biết chính xác bản Tuyên ngôn đang ở đâu.

Khi họ ra tới đường cái, Aziz hỏi đùa:

– Phải hay trái?

Scott nói:

– Trái.

Nhưng Aziz lại quẹo phải.

Trong lúc họ chạy theo xa lộ về phía Baghdad, mặt trời chiếu sáng tử một bầu trời không mây chắc sẽ khiến bất cứ du khách nào cũng phải thích thú, mặc dù những chiếc xe tăng bị cháy rụi và những hố bom giữa đường không thể được xem như những hình ảnh hấp dẫn. Không một ai nói gì trong lúc nhiều cây số lướt qua.

Họ không cần phải rà soát lại các kế hoạch một lần nữa. Như thế chẳng khác gì một cuộc tập luyện vào buổi sáng thi đấu Thê vận hội – hoặc là quá muộn, hoặc là không còn có giá trị nữa.

Trong mười lăm cây số cuối cùng họ vào một xa lộ siêu tốc giống hệt như ở Đức. Trong lúc họ chạy qua một cây cầu mới xây dựng trên sông Euphrates, Scott bắt đầu tự hỏi anh còn cách Hannah bao nhiêu, và anh có thể tự mình lọt vào Bộ Ngoại giao mà Kratz cũng như người Iraq chẳng biết gì hay không.

Khi họ tới vùng ngoại ô của Bnghdad với những toà nhà chọc trời sáng bóng và công trình kiến trúc hiện đại, cứ như họ đang đi vào bất cứ thành phố lớn nào trên thê giới – cho tới lúc họ trông thấy người dân. Có nhiều dãy xe hơi xếp hàng ở các trạm xăng trong một đất nước mà tài sản chính là dầu mỏ, nhưng hàng người chờ mua thực phẩm còn dài hơn gấp bội. Tất cả bốn người có thể trông thấy rõ các biện pháp chế tài thật là đau xót, tuy nhiên Saddam vẫn cực lực phủ nhận điều đó.

Họ chạy xe tới gần trung tâm thành phố, theo con đường qua phía dưới Al-Naser, vòng cầu đồ sộ với hai cây kiếm chéo nhau được nắm chặt trong bàn tay đúc kim loại của Saddam. Không cần phải chỉ đường cho Aziz đến Bộ Công nghiệp, anh ta ước mong vẫn còn sống ở Baghdad, nhưng anh ta đã không bước vào thành phố kể từ khi cha anh bị hành hình vì tội tham dự vào cuộc đảo chính bất thành năm 1987. Nhìn những người đồng hương qua khung cửa sổ, anh ta vẫn có thể ngửi thấy mùi vị của nỗi sợ hài trong lỗ mũi.

Trong lúc họ chạy qua những tàn tích của đại bản doanh Mukhbarat bị dội bom, Scott để ý thấy chiếc xe cứu thương không có người đậu bên ngoài trung tâm tình báo Iraq. Nó được xếp đặt có lợi cho các máy quay phim của đài truyền hình CNN hơn bất cứ một mục đích thực tiễn nào khác, anh tin chắc như thế.

Khi Aziz trông thấy toà nhà Bộ Công nghiệp lù lù trước mặt, anh ta liền chỉ cho Scott. Scott còn nhớ mặt tiền trong đống ảnh do Kratz cung cấp. Nhưng mất anh di chuyển lên các tháp súng trên nóc Bộ Ngoại giao, chỉ cách một khoảng ngắn.

Aziz thắng xe lại qua khỏi cổng Bộ Công nghiệp chừng một trăm mét.

– Tôi sẽ càng nhanh càng tốt. – Scott vừa nói vừa nhảy ra khỏi buồng lái và đi trở lại về phía toà nhà.

Trong lúc anh trèo lên các bậc thềm, anh không trông lấy một người đàn ông trong một khung cửa sổ của toà nhà đối diện đang nói chuyện điện thoại với Đại tướng Hamil.

Chiếc xe tải đã ngừng lại qua khỏi Bộ chừng một trăm mét. Một tên tóc vàng cao lớn vừa đứng phía trước xe đang bước vào toà nhà, nhưng ba tên còn lại, kể cả Krazt vẫn ở bên cạnh chiếc tủ sắt.

Scott đẩy cánh cửa xoay và đi qua hai người lính gác vẻ như họ không di chuyển quá vài mét mỗi ngày. Anh bước tới bàn chỉ dẫn và đứng vào hàng người ngắn nhất trong ba hàng. Chiếc đồng hồ một kim phía trên bàn cho biết lúc đó khoảng 9 giờ 30.

Phải mất thêm mười lăm phút nữa, Scott mới đến được quầy. Anh giải thích với cô gái rằng tên anh ta là Bernstrom và anh cần gặp ông Kajami.

– Ông có hẹn trước không? – Cô ta hỏi.

– Không, – Scott nói – Chúng tôi đã gọi từ Jordan để báo trước cho ông ấy rằng một chiếc tủ sắt mà chính phủ đã đặt mua đang trên đường đến Baghdad, ông ấy đã yêu cầu chúng tôi thông báo cho ông ấy lúc nó đến nơi.

– Tôi sẽ xem ông ấy có trong văn phòng không. – Cô tiếp tân nói.

Scott vừa chờ đợi vừa ngước mắt nhìn lên bức chân dung khổng lồ của Saddam Hussein mặc quân phục bao quát cả các bức tường màu xám một cách khác thường của khu tiếp tân.

Cô gái thận trọng lắng nghe một người nào đó ở đầu bên kia của đường dây trước khi nói:

– Một người sẽ xuống gặp ông trong vài phút nữa.

Rồi cô ta quay sự chú ý tới người kế tiếp trong hàng người đang xếp nối đuôi nhau.

Scott loanh quanh trong ba phút nữa trước khi một người đàn ông cao gầy mặc một bộ âu phục bước ra khỏi thang máy và đi về phía anh.

– Ông Bernstrom?

– Vâng. – Scott vừa nói vừa quay lại nhìn thẳng vào mặt người đàn ông.

– Chào ông, – anh ta nói một cách tự tin bằng tiếng Anh. – Tôi là Ibrahim, trợ lý riêng của ông Kajami. Tôi có thể giúp gì cho ông?

– Tôi đã đưa một chiếc tủ sắt từ Thuỵ Điển, – Scott nói – Nó được quý Bộ đặc mua cách đây mấy năm nhưng do các biện pháp chế tài của Liên Hiệp Quốc, cho nên không thể được giao sớm hơn. Chúng tôi đã được căn dặn khi chúng tôi đến Baghdad, chúng tôi phải báo cáo với ông Kajami.

– Ông có giấy tờ gì để chứng minh cho việc này?

Scott liền lấy tập hồ sơ ra khỏi túi xách và cho Ibrahim xem các giấy tờ trong đó.

Người đàn ông đọc qua mỗi tài liệu một cách chậm rãi cho đến khi ông ta xem tới bức thư do Tổng thống ký. Anh ta không đọc thêm nữa, ngước mắt lên và hỏi:

– Tôi có thể xem chiếc tủ sắt này chứ, ông Bernstrom?

– Tất nhiên, – Scott nói – Xin ông theo tôi.

Scott dẫn người đàn ông ra đường và đưa đến chiếc xe tải.

Cohen chăm chú nhìn xuống họ. Khi Kratz ra lệnh, anh ta giật tấm vải dầu khỏi chiếc tủ sắt để cho viên chức Iraq có thể đích thân kiểm tra Bà Bertha.

Scott hết sức lấy làm lạ vì những người qua lại trên ông phố không hề liếc mắt chiếc tủ sắt. Có điều họ bước nhanh hơn một chút. Nỗi sợ hãi trong dân chúng nơi đây tự biểu lộ bằng cách không hiếu kỳ.

– Xin đi theo tôi, ông Barnstrom. – Ibrahim nói.

Scott theo anh ta trở lại khu vực tiếp tân. Đến đây anh ta trở lên lầu không nói thêm tiếng nào.

Scott bị bỏ lại đó chờ đợi thêm ba mươi phút nữa Ibrahim mới trở lại.

– Ông phải đưa chiếc tủ sắt đến Quảng trường Chiến thắng, ở đó ông sẽ được trông thấy một hàng rào với một chiếc xe tăng đậu trước một toà nhà lớn màu trắng. Họ đang chờ ông.

Scott định hỏi Quảng trường Chiến thắng ở đâu thì Ibrahim đã quay người bước đi. Anh liền trở lại chiếc xe tải, gặp Kratz và Aziz ở phía trước rồi thông báo tin tức. Aziz không cần chỉ đường:

– Tôi vui mừng thấy chúng ta được đối đãi không có gì đặc biệt, – Kratz nói.

Scott gật đầu công nhận trong lúc Aziz thận trọng cho xe chạy lại. Lúc này sự lưu thông đã dày đặc hơn nhiều. Những chiếc xe tải và xe du lịch nhấn còi liên tục, cố di chuyển từng tấc một.

– Chắc phải có một tai nạn. – Scott nói, cho tới khi họ quẹo qua góc đường và trông thấy ba thi thể treo toòng teng trên cái giá treo cổ theo kiểu dã chiến: một người đàn ông mặc một bộ com lê loại đắt tiền, một người đàn bà có lẽ hơi trẻ hơn và một người đàn bà khác già hơn nhiều. Khó mà chắc chắn được với những chiếc đầu đã bị cạo trọc lốc của họ.

Ông Kajami ngồi ở bàn làm việc, quay số vừa được đưa đến cho ông ta, vẻ chờ đợi.

– Đây là văn phòng của Thứ trưởng Ngoại giao tôi tên Saib…

– Tôi là Bộ trưởng Công nghiệp. Cô có thể cho tôi nói chuyện với ông Thứ trưởng Ngoại giao?

– Tôi e lúc này ông ấy không có ở trong văn phòng, thưa ông Kajami. Tôi sẽ yêu cầu ông ấy gọi lại ông, hay là ông muốn nhắn lại?

– Tôi sẽ nhắn lại, nhưng có lẽ ông ấy cũng có thể gọi tôi khi ông ấy trở về.

– Chắc chắn, thưa ông Bộ trưởng.

– Nhờ cô nhắn lại cho ông ấy biết rằng chiếc tủ sắt đã đến từ Thuỵ Điển và như vậy đã được gạch tên khỏi danh sách chế tài.

Sau một hồi lâu im lặng, ông ta nói tiếp:

– Cô vẫn còn ở đó chứ, cô Saib?

– Vâng, Tôi chỉ đang ghi lại lời ông nói, thưa ông.

– Nếu ông ấy cần xem các tờ khai có liên quan, chúng tôi còn giữ ở Bộ Công nghiệp, nhưng nếu ông ấy muốn kiểm tra chiếc tủ sắt, thì nó đã trên đường đến đại bản doanh Baath.

– Tôi hiểu, thưa ông. Tôi sẽ lưu ý chuyển ngay cho ông ấy cái tin này khi ông ấy trở về.

– Cám ơn, cô Saib.

Kajami đặt máy điện thoại trở lên giá, đưa mắt về phía Thứ trưởng Ngoại giao ở bên kia bàn làm việc và mỉm cười.

Chú thích:

(1) Sandhurst: Một làng thuộc quận Berkshira ở Anh, gần Học viện Quân sự Hoàng gia Anh (Royal Military Academy).

(2) Theo thần thoại Hy lạp, binh lính Hy lạp trốn trọng một con ngựa gỗ lớn được kéo đến bỏ ở cổng thành Troy. Khi người thành Troy mang con ngựa vào trong thành, binh lính Hy lạp ào ra mở cổng cho phần còn lại ở bên ngoài tràn vào tiêu diệt thành.

Bình luận
× sticky