Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Luật Giang Hồ

Chương 20

Tác giả: Jeffrey Archer

Bản Tuyên ngôn Độc lập được đóng đinh ở bức tường phía sau ông.

Saddam tiếp tục hút xì gà trong lúc ông ngửa người vào lưng ghế. Tất cả mọi người ngồi chung quanh bàn, chờ ông lên tiếng. Ông liếc mắt sang phải.

– Em trai của tôi, chúng tôi tự hào về cậu. Cậu đã phục vụ đất nước chúng ta và đảng Baath với lòng danh dự. và khi tới lúc nhân dân ta được thông báo về những hành động dũng cảm của cậu, tên tuổi cậu sẽ được ghi vào lịch sử của đất nước chúng ta với tư cách một trong những vị anh hùng vĩ đại.

Al Obaydi ngồi ở đầu bàn đàng kia, lắng nghe những lời nói của vị lãnh tụ. Hai nắm tay của ông ta giấu bên dưới bàn, siết chặt lại để tự ngăn chân cơn run. Mấy lần trên đường trở về Baghdad, ông ta biết mình bị theo dõi. Họ đã lục soát hành lý của ông ta hầu như ở từng chặng, nhưng họ đã không tìm thấy gì, bởi vì không cô gì để tìm. Ông em cùng mẹ khác cha của Saddam đã bảo đảm điều đó. Sau khi bản tuyên ngôn đã đến nơi an toàn ở Geneve, ông ta vẫn không được phép chuyển nó đến tận tay vị đại sứ. Con đường được bảo đảm của nó theo lối ngoại giao khiến nó không thể bị ngăn cản ngay cả với những cố gắng kết hợp của người Mỹ và người Do Thái.

Người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam lúc này ngồi phía bên phải tổng thống, tận hưởng lời khen ngợi của vị lãnh tụ.

Saddam từ từ xoay người lại và nhìn chằm chầm xuống đầu bàn đằng kia.

– Và tôi cũng chấp nhận – Ông nói tiếp – Vai trò đã do Hamid Al Obaydi đóng, người mà tôi đã bổ nhiệm làm Đại sứ ở Paris. Tuy nhiên, tên của ông ta không được kết hợp vào vụ này, để đừng gây tác hại cho những khả năng đại diện cho chúng ta trên đất nước ngoài.

Và như vậy những lời nói đó đã trở thành sắc lệnh. Người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam phải được nhìn nhận là kiến trúc sư của chiến thắng này; trong lúc Al Obaydi phải làm phần phụ chú trên một trang giấy, được lật qua một cách nhanh chóng. Nếu Al Obaydi thất bại, người em trai một mẹ khác cha của Saddam sẽ được xem là không hay biết gì về cả ý niệm ban đầu, và đống xương của Al Obaydi thậm chí giờ đây đang mục rữa trong một nấm mồ không ai biết đến. Từ khi Saddam cất tiếng, không một ai quanh bàn, ngoại trừ vị Biện lý Chính phủ để mắt tới Al Obaydi. Mọi con mắt khác và các nụ cười đều dán vào người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam.

Chính lúc đó, ngay giữa phiên họp của Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng, Al Obaydi đã đi đến một quyết định.

° ° °

Dollar Bill ngồi uể oải trên một chiếc ghế đẩu, tựa người vào quầy rượu trong giờ không thích hợp, sung sướng nhấm nháp chất nước y thích nhất. Y là người khách hàng duy nhất của tiệm rượu, không kể một người đàn bà ngồi im lặng ở trong góc. Nhân viên phục vụ phỏng đoán cô ta say rượu, trong lúc cô ta không hề có một cử động nhỏ suốt tiếng đồng hồ vừa qua.

Thoạt tiên Dollar Bill không hay biết gì về người đàn ông chệnh choạng bước qua cánh cửa xoay, và chắc đã không để mắt đến gã, nếu gã không tự đến ngồi bên cạnh y. Người khách mới gọi một ly gin pha tonic. Dollar Bill vốn có ác cảm với bất cứ ai uống gin pha tonic, nhất là nếu kẻ đó ngồi bên cạnh y trong khi phần còn lại của quầy rượu vẫn còn trống. Y nghĩ đến việc bỏ đi nhưng lại quyết định không cần phải làm việc đó.

– Thế nào, ông bạn kỳ cựu? – giọng nói bên cạnh hỏi.

Dollar Bill không hề nghĩ mình là một dân “kỳ cựu” và không thèm trả lời người khách lạ.

– Làm sao thế, không có lưỡi trong đầu hay sao? – người đàn ông lại hỏi, giọng líu lại.

Nhân viên phục vụ quay lại nhìn thẳng vào họ khi anh ta nghe giọng nói cất cao, rồi quay lại với việc lau khô chiếc ly còn lại sau bữa trưa đông đúc.

– Có chứ, thưa ông, loại lịch sự đấy. – Dollar Bill trả lời nhưng vẫn không hề liếc nhìn người hỏi.

– Loại Ái Nhĩ Lan. Tôi đã biết ngay từ đầu. Một đất, nước đầy những kẻ say sưa, ngu đần, dốt nát.

– Tôi xin nhắc cho ông biết – Dollar Bill nói – rằng Ái Nhĩ Lan là đất nước của Yeats, Shaw, Wilde, O’Casey và Joyce 1

Rồi y ta nâng ly lên để tưởng nhớ tới họ.

– Tôi chưa bao giờ nghe bất cứ một cái tên nào trong số đó! Bạn nhậu của ông, phải khỏng?

Lúc này thì nhân viên phục vụ bỏ khăn lau xuống và bắt đầu chú ý hơn.

– Tôi chưa bao giờ được cái vinh dự đó – Dollar Bill trả lời – nhưng này ông bạn, sự việc ông đã không nghe nói về họ, chưa kể tới việc đọc các tác phẩm của họ, là phần mất mát của ông, chớ không phải của tôi.

– Ông đang buộc tội tôi ngu dốt phải không? – Gã khách lạ vừa nói vừa đặt một bàn tay thô bạo lên vai Dollar Bill.

Dollar Bill liền quay lại để nhìn thẳng vào mặt gã, nhưng ngay cả ở khoảng cách gần như thế, y vẫn không thể điều tiết một cách rõ ràng qua màn sương mù tạo nên bởi số rượu y đã uống suốt hai tuần lễ vừa qua. Tuy nhiên, y vẫn nhận thấy được rằng, mặc dầu gã hiện ra như là một phần của màn sương rượu đó, gã khách lạ hơi lớn con hơn chính y. Một sự xem xét như thế không bao giờ làm cho Dollar Bill lo ngại trong quá khứ.

– Không, thưa ông. Không cần phải buộc tội ông ngu dốt. Bởi vì ông đã bị kết tội bởi chính lời phát biểu của ông.

– Không ai được nói với tao bằng cái giọng đó, đồ Ái Nhĩ Lan say xỉn.

Vẫn để tay tên vai Dollar Bill, gã xoay người y lại và giáng một quả đấm vào hàm y. Dollar Bill lảo đảo người ra phía sau khỏi chiếc ghế đẩu cao, té xuống sàn nhà thành một đống.

Gã khách lạ chờ một lúc cho Dollar Bill đứng lên, mới tống một quả thứ hai vào bụng. Một lần nữa, Dollar Bill ngã quỵ lên sàn nhà.

Nhân viên phục vụ sau quầy đã bắt đầu quay số điện thoại mà chủ tiệm đã căn dặn anh ta phải gọi nếu một tình huống tương tự như thế xảy đến. Anh ta chỉ hy vọng người ta sẽ đến nhanh trong lúc anh ta quan sát người đàn ông Ái Nhĩ Lan không hiểu sao vẫn đứng dậy được. Lán này đến phiên y nhắm một quả đấm vào mũi người khách lạ, một quả đấm làm bật tung vai bên phải của kẻ tấn công ông ta lên không. Một quả đấm khác bay vào cổ họng của Dollar Bill. Ngã xuống một lần thứ ba, thời y còn là một võ sĩ quyền Anh nghiệp dư thì sẽ bị xem là bị đo ván về mặt kỹ thuật; nhưng bởi vì lúc này không có trọng tài nào để chủ toạ, y lại đứng lên một lần nữa.

Nhân viên phục vụ cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng còi ở đằng xa, và đang ước mong cho họ không phải trên đường chạy đến một nơi gọi khác thì bỗng hiện bốn cảnh sát viên phóng mình qua cánh cửa xoay.

Người thứ nhất chộp lấy Dollar Bill, ngay trước khi y chạm đất lần thứ tư; trong lúc hai người kia tôm chặt gã khách lạ, vặn tréo hai cánh ta gã ra phía sau và còng tay gã lại. Cả hai người đàn ông bị đẩy ra khỏi tiệm rượu và ném vào bên trong phía sau chiếc xe thùng của cảnh sát đang chờ sẵn. Tiếng còi vẫn tiếp tục lanh lảnh vang lên trong lúc hai kẻ say rượu được đưa đi.

Nhân viên phục vụ vui mừng vì sự nhanh nhẹn mà Sở cảnh sát San Francisco đã đến giúp anh ta. Chỉ sau đó trong đêm hôm ấy, anh ta mới sực nhớ anh ta đã không cho họ địa chỉ.

° ° °

Cả hai người vẫn im lặng cho tới khi David Kratz kết thúc kế hoạch phác thảo của ông.

Dexter là người đầu tiên mở lời:.

– Tôi phải nhìn nhận ông Đại tá hết sức có lý. Việc có thể tiến hành ngay.

Scott gật đầu đồng ý, rồi quay sang người lãnh đạo Mossad chỉ mấy tuần trước đã ra lệnh cho Hannah rằng anh cần phải bị giết chết. Một phần tội lỗi đã tan biến từ khi họ làm việc hết sức kề cận với nhau, nhưng những nếp nhăn trên trán và mái tóc hoa râm sớm của nhà lãnh dạo Do thái vẫn còn mãi mãi nhắc nhở anh về những gì anh đã trải qua. Trong thời gian họ ở bên cạnh nhau, Scott đã phải khâm phục kỹ năng chuyên môn hoàn thiện của con người đã bổ nhiệm phụ trách chiến dịch.

– Tôi còn cần được trả lời cho một vài câu hỏi, – Scott nói, – và cần được giải thích mấy việc khác.

Vị uỷ viên Do thái về các vấn đề văn hoá trong Court of St. James 2 gật đầu.

– Ông có chắc chắn rằng họ dự kiến đặt tủ sắt trong trụ sở chính của đảng Baath?

– Chắc chắn thì không. Tự tin thì có. – Kratz nói – Một công ty Hà Lan đã hoàn tất một công trình xây dựng dưới tầng hầm của trụ sở chính cách đây gần ba năm và trong số các hoạ đồ cuối cùng của họ có một cấu trúc bằng gạch mà kích thước vừa khớp chiếc tủ sắt.

– Và chiếc tủ sắt này có phải vẫn còn ở Karmal 3 ?

– Nó đã ở đó cách đây ba tuần, – Kratz trả lời – khi một nhân viên của tôi thực hiện một cuộc kiểm tra thường lệ.

– Và nó thuộc quyền chính phủ Iraq phải không? – Dexter Hutchins hỏi.

– Phải, nó đã được trả đủ tiền, và giờ đây một cách hợp pháp nó là tài sản của người Iraq.

– Một cách hợp pháp đó có lẽ là tư thế, nhưng kể tử cuộc chiến tranh vùng Vịnh. Liên Hiệp Quốc đã áp đặt một loại trừng phạt mới – Scott lưu ý ông.

– Làm sao một chiếc tủ sắt có thể được xem là một thiết bị quân sự – Dexter hỏi.

– Chính là luận điệu của người Iraq, – Kratz trả lời. – Nhưng không may cho họ, khi họ đặt hàng ban đấu với người Thuỵ điển, trong số những quy cách kỹ thuật rõ ràng có điều yêu cầu rằng chiếc tủ sắt phải có thể chịu đựng được một cuộc tấn công hạt nhân. Từ “hạt nhân” là tất cả những gì cần thiết để bắt đầu rung chuông ở Liên hiệp quốc.

– Thế thì ông tìm cách nào để giải quyết vấn đề đỏ? – Scott hỏi.

– Bất cứ khi nào chính phủ Iraq đệ trình một bản danh sách mới về các khoản mà họ xem là không vi phạm Nghị quyết 661 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chiếc tủ sắt luôn luôn bao gồm trong đó. Nếu người Mỹ, người Anh và người Pháp không đưa ra lời phản đối nào, nó có thể lọt qua một cách êm thấm.

– Còn chính phủ Do thái?

– Chúng tôi sẽ phản đối một cách kịch liệt trước mặt phái đoàn Iraq, nhưng không phải bên sau những cánh cửa đóng với bè bạn của chúng ta.

– Thế thì chúng ta hăy tưởng tượng trong một lúc rằng chúng ta đang nắm giữ một chiếc tủ sắt khổng lồ có thể chịu đựng một cuộc tấn công hạt nhân. Như thế thì có lợi gì cho chúng ta? – Scott hỏi.

– Một người nào đó phải chịu trách nhiệm việc đưa chiếc tủ sắt đó từ Thuỵ điển về Baghdad. Một người nào đó phải lắp đặt nó khi họ đã đưa nó về chỗ đó, và một người nào đó phải giải thích với thuộc hạ của Saddam cách vận hành nó. – Kratz nói.

– Và ông có một người nào đó cao một mét tám, chuyên gia karate và nói lưu loát tiếng A rập chứ gì?

– Chúng tôi đã có, nhưng cô ta chỉ cao một mét bảy mươi lăm.

Hai người nhìn chằm chằm vào nhau. Scott vẫn giữ im lặng.

– Và ông đề nghị làm cách nào để ám sát Saddam? – Dexter hỏi nhanh. – Nhốt ông ta vào chiếc tủ sắt và hy vọng ông ta chết ngập phải không?

Kratz chợt nhận thấy cuộc bàn cãi đã khiến cho Scott không nghĩ đến Hannah, vì thế ông ta đáp ứng lại:

– Không, chúng tôi đã khám phá ra đó là kế hoạch của CIA và đã bác bỏ. Chúng tôi đã nghĩ ra một kế hoạch tinh vi hơn.

– Đó là…? – Scott hỏi.

– Một thiết bị hạt nhân rất nhỏ đặt vào bên trong chiếc tủ sắt.

– Và chiếc tủ sắt sẽ ở trong hành lang bên cạnh nơi Hội đồng lãnh đạo Cách mạng họp. Không tồi. – Dexter nói.

– Và thiết bị sẽ được cài nổ bởi một cô gái Do thái biết tiếng A rập cao một mét bảy mươi lăm phải không – Scott hỏi.

Kratz gật đầu.

° ° °

Cách đây đã nhiều năm trời, Dollar Bill từng trông thấy bên trong của một nhà tù, nhưng vẫn chưa đủ lâu để quên được nỗi chán ghét khi phải chung đụng với bọn buôn lậu ma tuý, ma cô và trấn lột.

Mặc dù vậy, lần sau cùng y đã ngu ngốc đến nỗi tự đâm đầu vào một cuộc ẩu đả trong tiệm rượu mà y đã gây sự trước. Nhưng thế mà ông ta chỉ thu xếp xong với năm mươi đô la một cách tốt đẹp. Dollar Bill cảm thấy tin tưởng rằng bất cứ vị quan toà nào cũng biết các nhà tù đã quá chật ních nên khó lòng tuyên bố một bản án cưỡng bách ba mươi ngày đối với những trường hợp như thế này.

Quả thực y đã cố đưa năm mươi đô la cho một trong số cảnh sát viên lái chiếc xe thùng. Thông thường, họ vui vẻ nhận tiền, mở cửa sau của chiếc xe thùng và tống cổ kẻ vừa bị bắt ra ngoài. Y không thể mường tượng cảnh sát San Francisco đang giở trò gì. Chắc chắn với tất cả bọn trấn lột và nghiện ma tuý khắp nơi họ cô nhiều việc quan trọng hơn để đối phó so với mấy gã trung niên say sưa trong tiệm rượu vào lúc xế chiều này.

Trong lúc Dollar Bill bắt đầu tỉnh táo, mùi hôi nồng nặc xông vào mũi ông ta và y hy vọng rằng mình sẽ ở trong số đầu tiên sẽ bị đưa ra phiên toà đêm. Nhưng trong lúc nhiều tiếng đồng hồ trôi qua và y trở nên tỉnh táo hơn và mùi hôi cũng nồng nặc hơn, y bắt đầu tự hỏi phải chăng họ sẽ giữ y suốt đêm.

– William O’Reilly, – viên trung sĩ cảnh sát gọi lớn trong lúc anh ta nhìn xuống danh sách trên bìa kẹp giấy.

– Tôi đây, – Bill vừa nói vừa đưa bàn tay lên.

– Đi theo tôi, O’Reilly! – viên cảnh sát gần gọng trong lúc cánh cửa xà lim loảng xoảng mở và người đàn ông Ái Nhĩ Lan bị nắm chặt nơi khuỷu tay.

Y bị dắt đi dọc theo một hành lang dẫn vào phía sau của một phòng xét xử. Y quan sát mấy kẻ vô thừa nhận và phạm nhân không quan trọng đang sắp hàng chờ tới phiên mình đến trước vị quan toà. Y không chú ý một người đàn bà ở cách y chừng vài bước, đang nắm chặt cái quai tròn của một túi du lịch.

– Có tội. Năm mươi đô la.

– Tôi không trả nổi.

– Ba ngày tù. Người kế tiếp.

Sau khi ba bốn vụ đã được xét xử theo cách qua quít này, Dollar Bill quan sát người đàn ông đã tỏ ra không tôn trọng chuẩn mực văn chương Ái Nhĩ Lan ngồi vào chỗ ở trước vị quan toà.

– Có tội, thưa ngài.

– Không tiền án chứ?

– Không, – viên trung sĩ nói.

– Năm mươi đô la, – vị quan toà phán.

Dollar Bill lấy làm lạ vì đối phương của mình không bị kết án lần nào, và cũng có thể trả tiền phạt ngay lập tức.

Khi đến phiên Dollar Bill ra bào chữa, trong lúc ngước nhìn lên vị quan toà, y không thể không nghĩ rằng vị quan toà quá sức trẻ đối với chức vụ. Có lẽ giờ đây y quả thực là một kẻ “kỳ cựu”.

– William O’Reilly, thưa ngài, – viên trung sĩ vừa nói vừa nhìn xuống hồ sơ tội trạng. – say rượu gây mất trật tự, xáo lộn yên tĩnh.

– Ông bào chữa như thế nào?

– Có tội, thưa ngài, – Dollar Bill vừa nói vừa sờ ngón tay vào cuộn giấy bạc nhỏ trong túi, trong lúc y cố nhớ lại nơi gần nhất có quán rượu bán bia Guinness.

– Ba mươi ngày, – vị quan toà nói, không hề ngẩng đầu lên. – Người kế tiếp.

Hai người trong phòng xét xứ sửng sốt trước quyết định của vị quan toà. Một người trong bọn miễn cưỡng nới lỏng nắm tay trên chiếc quai tròn của túi du lịch của cô ta, trong lúc người kia lắp bắp:

– Xin được trả tiền bảo lãnh, thưa ngài.

– Không chấp nhận.

— —— —— —— ——-

1 Wiliam Butler YEATS (1865-1939): nhà thơ, kịch, phê bình.

George Bernard SHAW ( 1858-1950): nhà soạn kịch, phê bình.

Oscar WILDE (1854-1900): nhà thơ, soạn kịch, tiểu thuyết gia.

San O’CASEY (1880-1964): nhà soạn kịch.

James JOYCE (1882-1941): tiểu thuyết gia.

2 Cung điện của vua Anh.

3 Karmal: hải cảng ở Đông nam Thuỵ điển.

Bình luận
× sticky