Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

An Offer Of A Gentleman

Chương 2

Tác giả: Julia Quinn

Nhà Bridgerton thật sự là một gia đình độc nhất vô nhị. Chắc chắn rằng chẳng thể nào có ai đó ở London lại không biết rằng tất cả những thành viên trong gia đình đó thật giống nhau một cách đáng chú ý, hoặc rằng tên của họ được đặt theo thứ tự alphabe : Anthony, Benedict, Colin, Daphne, Eloise, Francesea, Gregory, và Hyacinth.

Điều đó làm mọi người tự hỏi ngài Tử tước trước và thái tử tước phu nhân (người vẫn còn sống khỏe, sống đẹp) sẽ đặt tên người con thứ chín của họ là gì ? Imogen ? Inigo ?

Có lẽ là tốt nhất khi họ đã dừng lại ở con số chín.

Phu nhân Whistledown của tờ Nhật báo Xã hội,

Ngày 2 tháng 6 năm 1815.

Benedict Bridgerton là người con thứ hai trong tám đứa con của gia đình, nhưng thỉnh thoảng con số tám ấy như là một trăm vậy.

Buổi khiêu vũ mà mẹ chàng cứ nhất định đòi tổ chức này đáng lẽ ra phải là một vũ hội hóa trang, và Benedict đã nghiêm túc mang một chiếc mặt nạ nửa mặt, nhưng tất cả mọi người đều nhận ra chàng. Hay đúng hơn là, tất cả họ đều gần nhận ra chàng.

“Một Bridgerton !” họ la lên, vỗ tay lại với niềm hoan hỉ rõ ràng.

“Ngài chắc chắn phải là một Bridgerton !”

“Một Bridgerton ! Tôi có thể phát hiện một Bridgerton ở bất cứ đâu.”

Benedict là một người nhà Bridgerton, và dù chàng luôn yêu gia đình mình, thì đôi khi chàng vẫn ước rằng chàng được nhắc đến vì chính bản thân chàng nhiều hơn là được nhắc đến vì chàng là một Bridgerton.

Ngay sau đó, một cô nàng không rõ tuổi tác bao nhiêu hóa trang như một nàng chăn cừu thong dong đi ngang qua chàng. “Một Bridgerton !” cô ta rít lên. “Tôi nhận ra mái tóc màu hạt dẻ đó ở bất kỳ đâu. Anh là ai ? Không, đừng nói ra. Để tôi đoán. Anh không phải là ngài Tử tước, bởi tôi vừa mới nhìn thấy anh ta xong. Anh phải là Số Hai hoặc Số Ba.”

Benedict lạnh lùng nhìn cô ta.

“Số mấy ? Số Hai hay Số Ba ?”

“Hai,” chàng bật ra.

Cô ta vỗ hai bàn tay lại với nhau. “Tôi cũng nghĩ thế ! Oh, tôi phải tìm Portia. Tôi đã nói với cô ta anh là Số Hai —“

Benedict, chàng gần như sắp phát rồ.

“— nhưng cô ta nói, không, anh phải là người trẻ tuổi hơn, nhưng tôi —“

Benedict đột nhiên cần phải thoát khỏi cô ta ngay. Hoặc chàng rời đi hoặc chàng sẽ giết cô nàng xuẩn ngốc nói nhiều này, ngay trước mặt rất nhiều nhân chứng, và chàng thì không nghĩ rằng mình có thể thoát tội khi làm thế. “Xin tiểu thư thứ lỗi,” chàng êm ả nói. “Tôi vừa thấy một người tôi cần gặp.”

Đó là một lời nói dối, nhưng chàng chẳng quan tâm. Với một cái gật cộc lốc về phía cô nàng chăn cừu dư dả đó, chàng đi thẳng về phía cửa phòng khiêu vũ, hăm hở thoát khỏi đám đông và định lẻn vào phòng làm việc của anh trai chàng, nơi chàng có thể sẽ tìm được chút bình yên và có lẽ còn thêm cả một ly brandy ngon lành nữa.

“Benedict !”

Chết tiệt thật. Chàng suýt thực hiện thành công cuộc tẩu thoát rồi. Chàng ngước lên và nhìn thấy người mẹ yêu dấu của mình đang thẳng tiến về phía mình. Bà đang mặc bộ trang phục nào đó của thời kỳ Elizabeth. Chàng cho rằng mẹ chàng định hóa trang thành một trong những nhân vật trong kịch của Shakespeare, nhưng, chàng chẳng biết đó là nhân vật nào cả.

“Con có thể làm gì cho mẹ, thưa mẹ ?” chàng hỏi. “Và xin đừng nói ‘Nhảy với Hermione Smythe-Smith’. Con gần như đã mất ba cái ngón chân xinh xắn của con vì làm thế lần trước rồi.”

“Ta không có định bắt con làm thế đâu,” Violet đáp lời. “Ta chỉ định bắt con nhảy một bản với Prudence Featherington thôi.”

“Làm ơn thương xót con đi Mẹ,” chàng rền rĩ. “Cô ta lại càng tồi tệ.”

“Ta không đòi hỏi con cưới con bé,” bà nói. “Chỉ cần khiêu vũ với con bé thôi.”

Benedict cố không rên rỉ. Prudence Featherington, về bản chất cũng là một cô nàng tử tế, nhưng lại có bộ não chỉ to bằng hạt đậu và một điệu cười chói tai đến nỗi chàng đã từng thấy vài người đã phải lấy tay bịt tai mình trước điệu cười của cô nàng. “Vậy thì thế này nhé,” chàng dỗ khéo mẹ mình. “Con sẽ khiêu vũ với Penelope Featherington nếu mẹ giữ Prudence ở nguyên trong chuồng.”

“Thế cũng được,” mẹ chàng nói với một cái gật đầu thỏa mãn, để lại Benedict với cảm giác rằng bà thực ra đã muốn chàng khiêu vũ với Penelope ngay từ đầu.

“Con bé đứng ở đằng kia, bên cạnh bàn nước chanh,” Violet nói, “trong bộ trang phục yêu tinh Ai Len ấy, khổ thân con bé. Màu sắc thì khá hợp với con bé, nhưng thực sự phải có ai đó nói chuyện với mẹ con bé vào lần tới họ bước vào tiệm may mới được. Một bộ trang phục không thích hợp tý nào, ta không thể tưởng tượng ra được khẩu vị của bà ta là gì nữa.”

“Thế thì mẹ rõ ràng là chưa thấy cô nàng tiên cá rồi,” Benedict lẩm bẩm.

Bà liền đập nhẹ vào tay chàng. “Này, không được chế giễu khách.”

“Nhưng tự họ khiến cho việc đó dễ dàng đấy chứ.”

Bà bắn cho chàng một cái nhìn cảnh cáo trước khi nói. “Ta đi tìm em gái của con đây.”

“Đứa nào hả mẹ ?”

“Một trong những đứa chưa kết hôn,” Violet sỗ sàng nói. “Ngài Tử tước Guelph có thể có hứng thú với cô nàng người Scot đó, nhưng họ vẫn chưa có hứa hôn.”

Benedict lặng lẽ chúc may mắn cho Guelph. Anh chàng tội nghiệp đó sẽ cần đến nó.

“Và cám ơn con vì sẽ nhảy với Penelope,” Violet nhấn mạnh.

Chàng tặng cho bà một nụ người nửa châm biếm. Cả hai người bọn họ đều biết rằng câu nói của bà là một lời nhắc nhở, chứ không phải là một lời cảm ơn.

Tay chàng bắt chéo trong một tư thế kinh khủng nào đó, chàng nhìn mẹ mình rời đi trước khi hít một hơi dài và quay người để tìm đường đến chỗ bàn nước chanh. Chàng hết sức kính yêu mẹ mình, nhưng bà thật sự cứ luôn can thiệp quá đáng vào cuộc sống những đứa con của bà. Và nếu có gì đó làm bà phiền muộn hơn cả tình trạng chưa kết hôn của Benedict, thì đó là hình ảnh khuôn mặt ủ rũ của một cô gái trẻ nào đó khi không ai mời cô ta khiêu vũ. Hệ quả là, Benedict phải dành rất nhiều thời gian trên sàn khiêu vũ, thỉnh thoảng là với một vài cô nàng mẹ chàng để ý cho chàng, nhưng thường thường là với những cô nàng wallflower.

Nếu phải so sánh thì chàng nghĩ chàng thích phải khiêu vũ với những cô nàng wallflower hơn. Những cô nàng nổi đình đám thường nông cạn và, nói trắng ra, có chút đần đần.

Mẹ chàng luôn đặc biệt quan tâm đến Penelope Featherington, đây đã là … Benedict nhíu mày. Mùa lễ hội thứ ba của cô ấy ? Đúng vậy, mùa lễ hội thứ ba. Và vẫn chưa hề có một lời cầu hôn triển vọng nào xuất hiện cả. Ah, tốt thôi. Chàng cũng nên thực hiện nghĩa vụ của mình thôi. Penelope là một cô gái dễ thương, dí dỏm và đoan trang. Một ngày nào đó cô ấy sẽ tìm được cho mình một tấm chồng tốt. Không phải là chàng, tất nhiên, và thành thật mà nói thì có lẽ cũng chẳng phải là bất kỳ một ai đó mà chàng biết, nhưng chắc chắn rằng cô ấy sẽ tìm được một ai đó.

Với một cái thở dài, Benedict bắt đầu tìm đường hướng về phía bàn nước chanh. Chàng có thể gần như nếm thấy vị của ly brandy mà chàng định lỉnh đi lấy, mùi vị dịu và ngọt nhẹ thấm trong miệng chàng, nhưng thôi thì một cốc nước chanh cũng sẽ giúp chàng thở được trong vài phút.

“Cô Featherington !” chàng gọi, cố không rùng mình khi cả ba Cô Featherington cùng quay lại. Chàng nặn ra một thứ có thể coi là một cái mỉm cười yếu ớt, và thêm vào, “Er, tôi muốn gọi Penelope.”

Cách xa từ mười feet đằng kia, Penelope cười rạng rỡ với chàng, và Benedict được nhắc nhở lại rằng chàng thực sự thích Penelope Featherington. Thực ra thì cô ấy sẽ không bị xem như là một liều thuốc giải nếu cô ấy không luôn luôn đứng cùng với hai cô chị kinh khủng của cô ấy, những người luôn có thể dễ dàng khiến một người đàn ông trưởng thành ước rằng anh ta đã bị đày lên tàu đi Australia còn hơn là ở cạnh hai cô nàng đó.

Chàng gần như thu hẹp được khoảng cách giữa hai người bọn họ thì chàng chợt nghe thấy rất nhiều tiếng xì xào nổi lên từ phía bên kia của phòng khiêu vũ.

Chàng biết chàng nên tiếp tục đi tiếp và hoàn thành cho xong cái nghĩa vụ nhảy nhót này, nhưng Chúa cứu giúp, sự tò mò trong chàng đã thắng và chàng quay người lại. (nín thở)

Và phát hiện bản thân đang đối mặt với một người phụ nữ choáng ngợp nhất mà chàng từng nhìn thấy.

Chàng thậm chí còn không thể nói rằng nàng có đẹp hay không. Nàng có một mái tóc màu vàng sậm thông thường, và với cái mặt nạ chắn ngang quanh mặt, khiến chàng còn không thể nhìn rõ được đến một nửa mặt nàng.

Nhưng rồi có điều gì đó ở nàng ấy khiến chàng như bị thôi miên. Đó là nụ cười của nàng, sắc thái trong mắt nàng, cái cách mà nàng đứng thẳng người và nhìn quanh phòng khiêu vũ như thể nàng chưa bao giờ từng nhìn thấy điều gì lộng lẫy hơn là hình ảnh tất cả những thành viên ngớ ngẩn của tầng lớp thượng lưu đều đang ăn mặc những bộ trang phục lố lăng. Vẻ đẹp của nàng đến từ bên trong. Nàng thật lung linh. Nàng rực rỡ.

Nàng hoàn toàn sáng chói, và Benedict đột nhiên nhận ra rằng bởi nàng trông thật hạnh phúc. Hạnh phúc vì được ở nơi nàng đang ở, hạnh phúc vì được là chính bản thân nàng.

Hạnh phúc theo một cách mà Benedict chỉ vừa đủ nhớ. Cuộc sống của chàng tốt đẹp, điều đó là sự thật, thậm chí có lẽ là một cuộc sống tuyệt vời. Chàng có bẩy người anh chị em ruột tuyệt vời, một người mẹ đáng yêu, và rất nhiều bạn bè. Nhưng nàng – nàng biết, nàng hiểu rõ thế nào là hân hoan, thế nào là vui sướng. Và Benedict phải biết, phải hiểu rõ nàng.

Quên mất Penelope, chàng tìm đường xuyên qua đám đông cho đến khi chàng chỉ cách nàng vài bước. Có ba anh chàng khác nhanh chân hơn chàng và chẳng mấy chốc đã vây quanh và buông ra những rời tâng bốc và tán dương nàng. Benedict đầy hứng thú quan sát nàng, nàng không hề ứng xử như bất kỳ người phụ nữ nào mà chàng biết.

Nàng không làm dáng. Cũng không hành xử như thể những lời khen ngợi đó là những thứ nàng đáng được hưởng. Nàng không bẽn lẽn cũng nhưng không cười khúc khích, không mỉa mai châm biếm, hay thực hiện bất kỳ hành động nào mà những cô nàng đỏm dáng hay thể hiện.

Nàng chỉ mỉm cười. Cười rạng rỡ, thì đúng hơn. Benedict cho rằng những lời khen thường đem đến sự sung sướng cho người nhận, nhưng chưa bao giờ chàng từng nhìn thấy một ai đó từng phản ứng lại trước những lời khen với niềm hân hoan, hứng khởi thuần khiết và trọn vẹn đến thế.

Chàng bước về phía trước. Chàng muốn niềm hân hoan hạnh phúc ấy cho riêng mình. “Xin lỗi, thưa các quí ngài, nhưng tiểu thư đây vốn đã hứa dành điệu nhảy này cho tôi,” chàng nói dối. (wivy : trơ tráo thật)

Lỗ mắt trên mặt nạ của nàng được cắt hơi rộng một chút, và chàng có thể thấy mắt nàng mở lớn, rồi nheo lại với vẻ thích thú. Chàng đưa tay ra đợi nàng, lặng lẽ thách thức nàng dám chỉ ra lời dối trá của chàng.

Nhưng nàng chỉ cười với chàng, một nụ cười rạng ngời, sáng chói đến nỗi nó đâm thẳng qua da chàng và chạy thẳng vào tận tâm can chàng. Nàng đặt bàn tay mình vào trong lòng bàn tay đưa ra của chàng, và chỉ khi đó Benedict mới nhận ra rằng chàng đã nín thở từ nãy.

“Tiểu thư có sự cho phép để nhảy điệu waltz này không ?” chàng thì thầm khi họ đến được sàn khiêu vũ.

Nàng lắc đầu. “Em không khiêu vũ.”

“Nàng cứ đùa.”

“Em sợ rằng mình không hề đùa cợt chút nào. Thực sự thì – ” Nàng dướn người lên với một tia lấp lánh trong nụ cười, “em không biết khiêu vũ.”

Chàng ngạc nhiên nhìn nàng. Nàng di chuyển với vẻ duyên dáng uyển chuyển thiên bẩm, vả lại, một tiểu thư con nhà nòi như nàng đến tuổi này rồi mà không hề được học cách khiêu vũ ? “Vậy thì chỉ còn một cách thôi,” chàng thì thầm. “Ta sẽ dạy nàng.”

Mắt nàng mở lớn, rồi môi nàng hé mở, và bất thình lình nàng bật cười.

“Có gì,” chàng hỏi, cố gắng để ra vẻ nghiêm túc, “buồn cười đến vậy ?”

Nàng cười toe toét với chàng — loại nụ cười mà người ta thường thấy ở chỗ những người bạn thân lâu năm, chứ không phải ở chỗ một cô tiểu thư mới được giới thiệu trước giới thượng lưu lần đầu tiên tại một vũ hội. Vẫn tủm tỉm cười nàng nói, “Ngay cả người như em cũng biết rằng một vũ hội không dành cho những bài tập khiêu vũ.”

“Vậy là có ý gì, ta tự hỏi,” chàng thì thầm, “khi nàng nói ngay cả nàng ?”

Nàng không nói gì cả.

“Vậy ta nên chiếm thế thượng phong,” chàng nói, “và buộc nàng tuân lệnh ta thôi nhỉ.”

“Buộc em ?”

Nhưng nàng vẫn cười tủm tỉm khi nàng nói thế, bởi vậy chàng biết nàng không hề bực mình, và chàng nói, “Ta sẽ thật không lịch sự chút nào nếu cho phép tình trạng âu sầu này tiếp tục diễn ta.”

“Ngài nói, âu sầu ?”

Chàng nhún vai. “Một tiểu thư xinh đẹp lại không thể khiêu vũ. Điều này dường như là một tội ác chống lại tự nhiên.”

“Nếu em cho phép ngài hướng dẫn em …”

“Khi nàng cho phép ta hướng dẫn nàng.”

“Nếu em cho phép ngài hướng dẫn em, vậy thì ngài sẽ thực hiện bài học ở đâu, thưa ngài ?”

Benedict ngẩng cao đầu và nhìn bao quát khắp cả căn phòng. Thật chẳng khó khăn gì khi nhìn qua đầu của hầu hết tất cả những vị khách tham dự tiệc; với chiều cao sáu feet một, chàng là một trong những người đàn ông cao nhất trong cả căn phòng. “Chúng ta sẽ có toàn bộ một sân thượng,” cuối cùng chàng nói.

“Sân thượng ?” nàng lặp lại. “Không phải nó sẽ hoàn toàn chật ních người là người sao ?”

Dù sao, đêm nay cũng khá là ấm áp, chàng nghĩ rồi dướn người về phía trước. “Không phải với sân thượng bí mật.”

“Ngài nói sân thượng bí mật phải không ạ ?” nàng hỏi, sự thích thú cuộn lên trong giọng nàng. “Và tiểu nữ xin được hỏi, rằng, làm thế nào ngài biết đường đến cái sân thượng bí mật đó ?”

Benedict nhìn nàng sửng sốt. Có thể nào nàng lại không biết chàng là ai ? Không phải là chàng đề cao bản thân khi cho rằng toàn bộ London đều nhận biết danh tính chàng. Chỉ là chàng là một Bridgerton, và nếu một người từng gặp một Bridgerton, thì cũng nghĩa rằng người đó sẽ có thể nhận ra một Bridgerton khác. Và chẳng có một ai ở London lại chưa từng gặp gỡ một người thuộc nhà Bridgerton, Benedict về cơ bản là bị nhận ra ở bất cứ đâu. Kể cả, chàng ảo não nghĩ, khi sự nhận biết đó chỉ đơn giản là “Số Hai.”

“Ngài vẫn chưa trả lời câu hỏi của em,” vị tiểu thư bí ẩn của chàng nhắc nhở chàng.

“Về cái sân thượng bí mật đó ?” Benedict nâng bàn tay nàng lên trên môi chàng và nhẹ hôn vào lớp lụa của găng tay nàng. “Hãy cứ nói rằng ta có cách của ta.”

Nàng có vẻ phân vân, bởi vậy chàng kéo mạnh những ngón tay nàng, đẩy nàng lại gần hơn – chỉ thêm khoảng một inch thôi, nhưng theo một cách nào đó dường như nàng chỉ cách chàng có một nụ hôn. “Đến đây,” chàng nói. “Cùng khiêu vũ với ta.”

Nàng bước tới một bước, và chàng biết cuộc đời chàng vừa mới thay đổi mãi mãi.

Lúc đầu Sophie không hề nhìn thấy người ấy khi nàng bước vào, nhưng nàng cảm nhận được phép nhiệm màu tỏa lan trong không gian, và khi người ấy xuất hiện trước mặt nàng, như chàng hoàng tử bước ra từ chuyện cổ thần tiên, nàng biết rằng chàng là lý do để nàng có mặt ở đây.

Chàng cao, và từ những gì nàng thấy nàng biết chàng vô cùng đẹp trai, với đôi môi có chút bóng gió châm chọc và nụ cười ngây ngất. Mái tóc chàng mang màu nâu đậm và tối màu, và những ánh nến bập bùng xung quanh khiến mái tóc chàng như ánh lên sắc đỏ.

Mọi người dường như biết chàng. Sophie nhận thấy rằng khi chàng di chuyển, những người khác đều nhường đường cho chàng. Và cả khi chàng nói dối một cách trâng tráo và đòi nàng nhảy với chàng, những quí ngài khác đều chấp nhận và bước sang bên.

Chàng đẹp trai, chàng mạnh mẽ, và đêm nay, chàng là của nàng.

Khi đồng hồ điểm mười hai tiếng chuông, nàng sẽ quay lại cuộc sống bộn bề của kiếp nô lệ, khâu vá và giặt giũ, làm theo mọi điều Araminta nói. Nàng có sai không khi muốn đêm này là một đêm nhiệm màu với tình yêu và những điều diệu kỳ ?

Nàng cảm thấy mình như một nàng công chúa – một nàng công chúa được nuông chiều – và vì vậy khi chàng mời nàng khiêu vũ, nàng đã đưa tay cho chàng. Dù cho nàng luôn biết rằng cả buổi tối diệu kỳ này chỉ là một lời nói dối, rằng nàng chỉ là một đứa con hoang của một nhà quí tộc và một người hầu của một nữ bá tước, rằng bộ váy lộng lẫy nàng đang mang trên mình này là đi mượn và đôi giày dưới chân nàng gần như là do lấy trộm – dù vậy, tất cả những thứ đó dường như chẳng là gì khi nàng chạm vào tay chàng.

Dù chỉ trong vài giờ, Sophie có thể trả vờ rằng quí ngài này là quí ngài của nàng, và từ giây phút này cuộc đời nàng sẽ thay đổi mãi mãi.

Đêm nay chỉ là một giấc mộng, nhưng nàng đã ngừng để bản thân chìm đắm trong mộng ảo như thế này từ quá lâu rồi.

Bỏ đi mọi cẩn trọng, nàng cho phép chàng dẫn nàng ra khỏi phòng khiêu vũ. Chàng bước nhanh, dù chàng có cả một đám đông ồn ã ở trước mặt để phải len qua, và nàng phát hiện bản thân bật cười thật nhiều khi nàng nhẹ bước theo chàng.

“Tại sao,” chàng nói, tạm nghỉ một chút khi họ bước vào hành lang bên ngoài phòng khiêu vũ, “nàng dường như luôn cười vào ta ?”

Nàng lại bật cười lần nữa, không thể dừng được. “Em hạnh phúc,” nàng nói với một cái nhún vai bất lực. “Em chỉ quá hạnh phúc khi được ở đây.”

“Và, thứ lỗi cho ta mạn phép hỏi, tại sao ? Một vũ hội như thế này chỉ như một thủ tục thường lệ với người như nàng.”

Sophie cười toe toét. Nếu chàng nghĩ nàng là một thành viên của giới thượng lưu, đã tham dự hàng tá những vũ hội và tiệc tùng, vậy nàng phải diễn vai của nàng thật hoàn hảo, không phải sao ?

Chàng khẽ chạm lên môi nàng. “Hãy cứ cười mãi như thế,” chàng thì thầm. “Ta thích khi nàng cười.”

Tay chàng tìm thấy eo nàng, và chàng kéo nàng về phía chàng. Khoảng cách giữa hai cơ thể là đủ xa để có thể chấp nhận được, nhưng sự gần gũi tăng dần này như cướp đoạt lấy hơi thở nàng.

“Ta thích được ngắm nàng cười,” chàng nói. Những từ ngữ của chàng thật dịu nhẹ và đầy quyến rũ, nhưng có gì đó khàn đục lạ kỳ trong giọng chàng, và Sophie gần như có thể để bản thân nàng tin rằng chàng thực sự có ý như vậy, rằng đây không phải chỉ đơn thuần là một cuộc chinh phục ngẫu hứng.

Nhưng trước khi nàng có thể phản ứng, một giọng nói tố cáo đột nhiên vang lên từ cuối hành lang, “Tìm – ra – rồi – nhé !”

Dạ dày của Sophie như quặn lại. Nàng đã bị phát hiện. Nàng sẽ bị ném ra ngoài đường, và ngày mai có lẽ nàng sẽ bị tống vào tù vì ăn cắp đôi giày của Araminta, và —

Và người đàn ông vừa mới cất tiếng gọi đã đi đến bên cạnh nàng và đang trao đổi với quí ngài bí ẩn của nàng, “Mẹ đã tìm anh suốt đấy. Anh trốn khỏi điệu nhảy của anh với Penelope, và em đã phải thế vào chỗ anh đấy.”

“Xin lỗi,” quí ngài của nàng lầm bầm.

Câu nói ấy dường như vẫn chưa đủ để xin lỗi với người mới đến đó, bởi anh ta vẫn cứ cau mày giận giữ khi anh ta nói, “Nếu anh lẩn khỏi bữa tiệc và bỏ lại thằng em này cho bầy sói mới ra mắt đó, em thề em sẽ khiến anh sống không ra sống cho đến ngày em chết đi đấy.”

“Hình phạt mà anh sẵn sàng chấp nhận thôi,” quí ngài của nàng nói.

“Well, em đã giúp anh xử lý vụ Penelope,” người đàn ông kia càu nhàu. “Anh may mắn khi em vô tình đứng gần đó đấy. Trái tim cô gái đáng thương đó có vẻ vỡ tan khi anh quay người đi đấy.”

Quí ngài của Sophie đỏ mặt. “Có một số thứ là không thể tránh được, anh sợ là như thế.”

Sophie nhìn từ người này sang người kia. Ngay cả dưới lớp mặt nạ nửa mặt của họ, thì vẫn cực kỳ rõ ràng rằng họ là anh em, và trong một tích tắc nàng nhận ra rằng họ chắc chắn phải là anh em nhà Bridgerton, và đây chắc chắn phải là nhà họ, và –

Ôi, Chúa ơi, có phải nàng đã tự biến bản thân thành một con ngốc khi hỏi chàng rằng làm thế nào chàng biết về cái sân thượng bí mật đó không ?

Nhưng chàng là ai trong số những anh em nhà Bridgerton ? Benedict. Chàng phải là Benedict. Sophie lặng lẽ cảm ơn Phu nhân Whistledown, người đã từng viết rõ ràng mọi thứ về những người nhà Bridgerton. Benedict, nàng nhớ lại, là người cao nhất trong số mấy anh em.

Người đàn ông đã khiến trái tim nàng loạn nhịp này cao hơn khoảng một inch so với em trai chàng-

— người mà Sophie đột ngột nhận ra rằng đang nhìn khá là chăm chú vào nàng.

“Em hiểu tại sao anh lại muốn lỉnh đi rồi,” Colin nói (anh ta chắc chắn phải là Colin; bởi anh ta không thể nào là Gregory, người mới chỉ mười bốn tuổi, và Anthony thì đã kết hôn rồi, bởi vậy anh ta sẽ không thèm quan tâm xem Benedict có lỉnh khỏi bữa tiệc và để lại anh ta chống chọi lại những cô nàng một mình không.) Anh ta nhìn vào Benedict với một biểu cảm quỉ quyệt. “Liệu em có thể có một lời giới thiệu không ?”

Benedict nhướng một bên mày. “Em có thể thử, nhưng anh nghi ngờ khả năng thành công của em đấy. Anh thậm chí còn chưa dò hỏi được tên tiểu thư đây là gì đâu.”

“Ngài chưa có hỏi,” Sophie không thể cưỡng lại được việc chỉ ra.

“Và nàng sẽ nói cho ta biết tên nàng nếu ta hỏi ?”

“Em sẽ nói cho ngài biết cái gì đó,” nàng đáp lại.

“Nhưng không phải sự thật.”

Nàng lắc đầu. “Đây không phải là đêm của sự thật.”

“Loại tối yêu thích của tôi,” Colin vui vẻ nói.

“Em không có chỗ nào để đi sao ?” Benedict hỏi.

Colin lắc đầu. “Em chắc Mẹ sẽ thích em ở trong phòng khiêu vũ, nhưng nó không chính xác là một lời yêu cầu.”

“Ta yêu cầu thì sao ?” Benedict đáp trả.

Sophie cực kỳ muốn bật cười rúc rích.

“Tốt thôi,” Colin thở dài. “Em sẽ nhấc cái mông mình lên và ra khỏi đây vậy,”

“Tuyệt vời,” Benedict nói.

“Chỉ có một mình, đối mặt với lũ sói đói khát …” Colin lẩm nhẩm ra vẻ tội nghiệp.

“Lũ sói ?” Sophie thắc mắc.

“Những quí cô trẻ tuổi,” Colin giải thích. “Cả một bầy toàn sói đói, nhiều lắm đấy. Tất nhiên là loại trừ tiểu thư đây.”

Sophie nghĩ tốt nhất là không nên chỉ ra rằng nàng không phải là một “tiểu thư” gì cả.

“Mẹ tôi –” Colin bắt đầu.

Benedict rên rỉ.

“—chẳng thích gì hơn việc được nhìn thấy ông anh trai yêu quí của tôi kết hôn.” Anh ta ngừng lại rồi cân nhắc lại những từ ngữ của mình. “Ngoại trừ, có lẽ, là việc nhìn thấy anh chàng tội nghiệp là tôi đây kết hôn.”

“Chỉ để tống em ra khỏi nhà thôi,” Benedict cộc lốc nói.

Lần này Sophie thật sự bật cười khúc khích.

“Nhưng, anh ấy thì già hơn,” Colin tiếp tục, “vì vậy có lẽ chúng tôi nên gửi anh ấy đến giá treo cổ — er, bệ thờ nơi thánh đường trước.”

“Rút cuộc em có một quan điểm nhất định nào không ?” Benedict bắt đầu sửng cồ lên.

“Không,” Colin thừa nhận. “Nhưng lại một lần nữa, tôi hiếm khi có quan điểm nhất quán lắm.”

Benedict quay sang Sophie. “Tên ngốc này nói thật đấy.”

“Vậy,” Colin nói với Sophie với một cái vung tay bệ vệ, “liệu tiểu thư đây có thể thương xót người mẹ tội nghiệp, đã phải chịu nhiều khổ sở của chúng tôi và đưa ông anh trai yêu quí của tôi đến giáo đường không ?”

“Ừhm, anh ấy chưa hề hỏi,” Sophie nói, thử góp phần vào câu chuyện vui vẻ này.

“Em cần uống bao nhiêu ly hử ?” Benedict càu nhàu.

“Em ?” Sophie thắc mắc.

“Tên ngốc này cơ.”

“Không gì cả,” Colin vui vẻ nói, “Nhưng em đang cân nhắc khá là nghiêm túc về cái biện pháp đó đây. Thực tế, nó có lẽ là thứ duy nhất khiến em có thể chịu đựng được đêm nay”

“Nếu mấy ly brandy giúp xua đuổi sự hiện diện của em,” Benedict nói, “thì nó chắc chắc sẽ là thứ duy nhất khiến anh chịu đựng được đêm nay.”

Colin nhe răng cười, chào vui vẻ, và đi mất.

“Thật tốt khi nhìn thấy hai anh em yêu thương nhau nhiều như vậy,” Sophie lẩm bẩm.

Benedict, người đang nhìn chằm chằm đe dọa vào lối cửa mà ông em trai chàng vừa mới bước qua, liền bật sự chú ý lại vào nàng. “Nàng gọi đó là yêu thương ?”

Sophie nghĩ đến Rosamund và Posy, hai người luôn cắn xé lẫn nhau, và không bao giờ đùa giỡn. “Đúng vậy,” nàng nói. “Rõ ràng là ngài sẽ hy sinh cả tính mạng mình vì em trai ngài. Và ngài ấy cũng vậy.”

“Ta cho rằng nàng đúng.” Benedict thở dài tỏ vẻ khốn khổ, rồi phá hỏng mọi ấn tượng khổ sở ấy bằng một nụ cười trẻ con. “Nhưng thừa nhận điều đó lại là một chuyện khác.” Chàng tựa người vào tường, khoanh tay và trông đẹp trai kinh khủng. “Vậy kể cho ta nghe,” chàng nói, “nàng có anh chị em không ?”

Sophie cân nhắc về câu hỏi đó một lúc, rồi đưa ra quyết định, “Không.”

Một bên mày nhướng lên thành một đường cong tò mò ương bướng. Chàng nhẹ nghiêng đầu sang bên và nói, “Ta khá là tò mò, tại sao nàng lại mất một lúc lâu thế để quyết định câu trả lời cho câu hỏi đó. Đó là một câu hỏi dễ trả lời mà.”

Sophie tránh nhìn chàng trong một chốc, nàng không muốn chàng nhìn thấy nỗi đớn đau hiện rõ trong mắt nàng. Nàng luôn muốn có một gia đình. Thực tế, không có gì trên đời này nàng muốn hơn là có một gia đình, để được yêu thương, để được che chở. Cha nàng chưa bao giờ nhận nàng là con gái ông, ngay cả khi chỉ có hai người bọn họ, ông cũng chưa từng tỏ ra yêu thương nàng, và mẹ nàng thì đã chết khi sinh nàng. Araminta đối xử với nàng như thể nàng là một thứ bệnh dịch chết người, và Rosamund và Posy thì chắc chắn chưa bao giờ là chị em với nàng cả. Posy có thể được coi như một người bạn, nhưng ngay cả cô ấy cũng sử dụng hầu hết thời gian trong ngày để nhờ Sophie sửa lại váy, hoặc làm tóc, hoặc đánh giày cho cô ấy …

Dù thật ra thì, Posy luôn hỏi nhờ nàng chứ không ra lệnh, như mẹ và chị gái của cô ấy, nhưng Sophie cũng không thực sự có lựa chọn nào khác ngoài đồng ý. “Em là con một,” Sophie cuối cùng nói.

“Và đó là tất cả những gì nàng sẽ nói về chủ đề này,” Benedict lầm bầm.

“Và đó là tất cả những gì em sẽ nói về chủ đề đó,” nàng đồng ý.

“Tốt thôi.” Chàng cười, một nụ cười lười biếng đầy nam tính. “Vậy ta được phép hỏi nàng về điều gì ?”

“Không gì cả.”

“Thực sự là không gì cả ?”

“Em cho rằng mình có thể bị thuyết phục để cho ngài biết rằng màu sắc yêu thích của em là màu xanh lá, nhưng ngoài chuyện đó ra tiểu nữ sẽ không để lại cho ngài chút manh mối nào vể danh tính của em.”

“Tại sao lại phải bí mật đến thế ?”

“Nếu em trả lời câu hỏi đó,” Sophie trả lời với một nụ cười thần bí, thực sự đóng trọn vai trò là một người lạ bí ẩn, “thì sẽ mọi bí mật của em sẽ kết thúc, không phải sao ?”

Chàng nhẹ cúi người về phía nàng. “Nàng luôn có thể tạo ra những bí mật khác mà.”

Sophie lùi lại một bước. Ánh nhìn của chàng trở nên thật nóng bỏng, và nàng đã nghe đủ từ những buổi chuyện phiếm của những người hầu để biết ánh nhìn đó có nghĩa là gì. Dù khá là thích thú, nàng cũng vẫn không đủ can đảm như nàng tỏ vẻ. “Cả đêm huyền diệu này,” nàng nói, “đã đủ bí mật rồi.”

“Vậy thì hỏi ta một câu hỏi nào đó đi,” chàng nói. “Ta không có bí mật gì cả.”

Mắt nàng mở lớn. “Không ? Thật sao ? Chẳng phải mọi người đều có những bí mật của riêng mình sao ?”

“Không phải ta. Đời ta sáo rỗng đến vô phương cứu chữa.”

“Điều đó em khó mà tin được.”

“Thật mà,” chàng nói với một cái nhún vai. “Ta chưa bao giờ dụ dỗ một cô nàng ngây thơ nào cả, cũng như một phụ nữ đã có chồng, ta không bài bạc cũng như nợ nần, và cha mẹ ta hoàn toàn chung thủy hạnh phúc với nhau.”

Có nghĩa là chàng không phải là một đứa con hoang. Bằng cách nào đó ý nghĩ ấy mang lại một cơn nhức nhối cho họng nàng. Tất nhiên không phải bởi vì chàng là con chính thức, mà là bởi nàng biết chàng sẽ không bao giờ theo đuổi nàng – ít nhật không phải theo kiểu cách danh giá – nếu chàng biết nàng là một đứa con ngoài giá thú.

“Nàng vẫn chưa hỏi ta câu hỏi nào,” chàng nhắc nhở nàng.

Sophie chớp mắt sững sờ. Nàng không hề nghĩ rằng chàng nghiêm túc với đề nghị đó của mình.

“Đ-được rồi,” nàng gần như nói lắp, bất ngờ mất cảnh giác. “Vậy, màu sắc ưa thích của ngài là gì ?”

Chàng nhăn nhở cười. “Nàng định phí phạm câu hỏi của mình vào điều đó ?”

“Em chỉ được hỏi có một câu thôi ?”

“À, thế là quá công bằng rồi còn gì, khi xem xét đến thực tế rằng nàng chẳng cho ta hỏi câu nào cả.” Benedict lại dướn người về phía trước, mắt chàng lấp lánh. “Và câu trả lời là màu xanh.”

“Tại sao ?”

“Tại sao ?” chàng lặp lại.

“Vâng, tại sao ? Bởi vì đó là màu biển ? Hay màu của bầu trời ? Hoặc có lẽ chỉ bởi ngài đơn giản là thích nó thôi ?”

Benedict nhìn nàng hiếu kỳ. Nó dường như là một câu hỏi kỳ quặc – tại sao màu sắc ưa thích của chàng lại là màu xanh. Những người khác sẽ chấp nhận màu xanh là câu trả lời và để nó đấy. Nhưng người phụ nữ này – người mà ngay cả tên nàng chàng cũng chưa biết – tìm tòi sâu sắc hơn, vượt qua câu hỏi màu gì và hỏi đến câu hỏi tại sao. “Nàng là một họa sĩ chăng ?” chàng thắc mắc.

“Chỉ là tò mò thôi ạ.”

“Tại sao màu ưa thích của nàng lại là màu xanh lá ?”

Nàng thở dài, và mắt nàng ánh lên vẻ luyến tiếc quá khứ. “Em cho rằng đó là do đó là màu của cỏ, và có lẽ do đó là màu lá nữa. Nhưng hầu hết đó là do cỏ. Cái cách mà em cảm nhận được khi chạy chân trần trên thảm cỏ xanh mượt trong một chiều hè đầy nắng. Mùi vị tươi mới của nó sau khi được cắt tỉa cẩn thận nữa.”

“Cảm nhận và mùi vị của cỏ thì liên quan gì đến màu sắc ?”

“Không gì cả, tiểu nữ cho rằng là như thế. Nhưng cũng có thể là tất cả. Em từng sống ở vùng thôn quê, ngài biết đấy ….” Nàng khựng lại. Nàng không định kể cho chàng nhiều đến vậy, nhưng dường như không có gì nguy hại mấy khi cho chàng biết điều đó.

“Và nàng hạnh phúc hơn khi ở đó ?” chàng lặng lẽ hỏi.

Nàng gật, một cơn rùng mình nhận thức nhẹ trượt qua da nàng. Phu nhân Whistledown chắc chắn chưa bao giờ có một buổi chuyện trò sâu sắc nào với Benedict Bridgerton, bởi bà ấy chưa bao giờ viết rằng chàng là người đàn ông nhanh nhạy nhất London. Khi chàng nhìn vào mắt nàng, Sophie có một cảm giác kỳ quặc rằng chàng có thể nhìn thẳng vào sâu tận trong tâm hồn nàng.

“Vậy, nàng chắc phải thích đi dạo trong công viên lắm,” chàng nói.

“Vâng,” Sophie nói dối. Nàng chưa bao giờ có thời gian để đi đến công viên. Araminta thậm chí còn không cho nàng một ngày nghỉ như những người hầu khác được nhận.

“Chúng ta nhất định sẽ phải cùng nhau đi tản bộ một ngày nào đó,” Benedict nói.

Sophie tránh câu trả lời bằng cách gợi lại cho chàng nhớ, “Ngài chưa hề nói cho em biết tại sao màu ưa thích của ngài lại là màu xanh.”

Đầu chàng hơi nghiêng sang bên, và mắt chàng nheo lại vừa đủ và Sophie biết chàng có chú ý sự lẩn tránh của nàng. Nhưng chàng chỉ nói, “Ta không biết. Có lẽ, giống như nàng, màu xanh gợi cho ta nhớ đến cái gì đó mà ta luôn tưởng nhớ. Có một cái hồ tại Đồi Aubrey – nơi ta lớn lên, ở Kent – nhưng nước ở đó dường như luôn có màu xám hơn là màu xanh.”

“Nó có lẽ là do sự phản chiếu của bầu trời,” Sophie bình luận.

“Thứ mà, thường mang màu xám hơn là xanh,” Benedict nói với nụ cười nở trên môi. “Có lẽ đó là thứ mà ta nhớ mong – bầu trời trong xanh với ánh nắng rực rỡ.”

“Nếu trời không mưa,” Sophie nói, và cũng cười với chàng, “thì đây sẽ không phải là nước Anh.”

“Ta đã từng đến Italy,” Benedict nói. “Mặt trời luôn tỏa sáng ở đó.”

“Nghe như thiên đường vậy.”

“Nàng nghĩ thế,” chàng nói. “Nhưng khi ta ở đó ta nhận ra mình lại nhớ những cơn mưa.”

“Em không thể tin được,” nàng nói và bật cười. “Em luôn cảm thấy như mình đã sử dụng một nửa cuộc đời mình để nhìn ra ngoài cửa sổ và cằn nhằn với cơn mưa.”

“Nếu có gì đó mất đi, nàng sẽ nhớ nó.”

Sophie trở nên trầm ngâm. Liệu có gì đó trong đời nàng mà nàng sẽ nhớ nó khi chúng mất đi không ? Nàng sẽ không nhớ Araminta, điều đó là đương nhiên rồi, và nàng cũng sẽ không nhớ Rosamund. Có lẽ nàng sẽ nhớ Posy, và dứt khoát nàng sẽ nhớ cách mà mặt trời tỏa sáng qua khung cửa sổ mỗi sớm tinh mai nơi căn buồng nhỏ trên gác mái của nàng. Nàng sẽ nhớ cách mà những người hầu cười đùa và thỉnh thoảng cũng bao gồm cả nàng nữa, dù tất cả họ đều biết nàng là đứa con hoang của bá tước đời trước.

Nhưng nàng sẽ không nhớ những thứ đó được – thậm chí nàng còn không có cả cơ hội để nhớ – bởi nàng sẽ không đi đâu cả. Sau buổi tối nay – buổi tối đầy sửng sốt, tuyệt diệu, huyền ảo này – sẽ là cuộc sống bận rộn thường ngày.

Nàng cho rằng nếu như nàng mạnh mẽ hơn, can đảm hơn, nàng sẽ phải rời Dinh thự Penwood từ nhiều năm trước rồi. Nhưng liệu làm thế có tạo nên nhiều thay đổi khác biệt không ? Nàng có lẽ không thích sống cùng với Araminta, nhưng nàng chắc cũng không cải thiện cuộc sống của nàng mấy bằng cách rời đi. Nàng có lẽ sẽ thích được làm công việc của một gia sư, và nàng chắc chắn là đủ tiêu chuẩn để nhận vị trí đó, nhưng ai sẽ nhận nàng vào vị trí đó nếu nàng không có những lời giới thiệu tốt, và Araminta chắc chắn là sẽ không cho nàng lời giới thiệu tốt nào cả.

“Nàng rất là lặng lẽ,” Benedict nhẹ nhàng nói.

“Em chỉ đang nghĩ ngợi đôi chút.”

“Về điều gì ?”

“Về những gì em sẽ nhớ, và những gì em sẽ không nhớ, nếu cuộc sống của em thay đổi trầm trọng.”

Mắt chàng trở nên quan tâm mãnh liệt hơn. “Và nàng có cho rằng cuộc sống của nàng sẽ thay đổi trầm trọng không ?”

Nàng lắc đầu và cố giữ sự đau buồn không để lộ ra trong giọng nàng khi nàng trả lời, “Không.”

Giọng chàng trở nên nhỏ nhẹ hơn đến nỗi nó gần như một tiếng thì thầm. “Nàng có muốn nó thay đổi không ?”

“Có,” nàng thở dài, trước khi nàng kịp ngăn bản thân lại. “Ôi, có.”

Chàng nắm lấy tay hai bàn tay nàng và nâng chúng lên môi chàng, lần lượt nhẹ hôn lên đôi tay ấy. “Vậy chúng ta sẽ bắt đầu từ ngay lúc này,” chàng nói. “Và ngày mai nàng sẽ hoàn toàn biến đổi.”

“Tối nay em đã biến đổi rồi,” nàng thì thầm với chàng. “Ngày mai em sẽ biến mất.”

Benedict kéo nàng lại gần hơn và nhẹ thả những nụ hôn dịu dàng lên trán nàng. “Vậy thì chúng ta phải gói cả cuộc đời vào buổi tối màu nhiệm này.”

Bình luận