Tôi chúa hay nói dối, trên đời đố ai sánh kịp. Một tật xấu thật đáng tởm. Rõ ràng tôi đang ra hiệu sách để mua một tờ báo vớ vẩn gì đó, nhưng nếu thình lình có ai hỏi đi đâu, tôi sẽ không chút ngần ngại, bảo ngay: đi xem ca kịch đằng rạp Ôpêra. Thật kinh khủng! Tôi bảo với ông già Spencer phải đến phòng tập thể thao gấp để thu dọn các thứ đồ đạc linh tinh, nói dối đấy. Kỳ thực, tôi chẳng đời nào dại dột để một thứ gì đằng cái phòng thổ tả ấy.
Những ngày còn học ở đó, tôi trọ tại khu ký túc mới, nằm ngay trong toà nhà mang tên lão Ossenburger. Khu ấy chỉ dành cho học sinh các lớp cuối cấp và đầu cấp. Tôi thuộc loại mới vào học, còn thằng ở cùng phòng thuộc loại sắp ra trường. Toà nhà được đặt tên như vậy để ghi nhớ lạo Ossenburger, một học sinh cũ của trường Pencey. Ra trường, lão kiếm được cả đống tiền nhờ mở một văn phòng mai táng. Xó xỉnh nào trong tiểu bang cũng có chi nhánh của lão. Những chi nhánh ấy, chắc ai cũng biết rõ, vì họ vẫn quảng cáo ầm ĩ là có thể giúp các bạn chôn cất thân bằng quyến thuộc với cái giá rất hời, chỉ mất có năm đôla một người. Chà, ước gì các bạn được nhìn thấy tận mắt cái mặt thịt của lão ta! Tôi dám thề độc là lão chỉ tống thi hài người chết vào bao tải, rồi thả trôi sông chứ chẳng thèm chôn cất gì hết. Thành thử lão giàu sụ, rồi đem cúng chút ít cho trường Pencey để họ lấy tên lão đặt cho toà nhà trọ của bọn tôi. Hôm khai diễn mùa bóng năm nay, lão đã ngồi trong chiếc Cadillac choáng lộn tới dự, nên trường đã bắt bọn tôi phải đứng cả dậy và vỗ tay ầm ĩ, nghĩa là để gào thẳng vào mặt lão đến khô cả cổ:”Hurrah!” (Hoan hô). Sáng hôm sau, lão bước lên toà giảng trong nhà nguyện, lớn tiếng đọc một bài diễn văn dài tới mười mấy tiếng đồng hồ. Mở đầu, lão kể gần chục chuyện tiếu lâm bằng một giọng cợt nhả, để tỏ vẻ ta đây cũng còn trai trẻ sung sức như ai! Kế đến, lão kể lể không bao giờ ngượng nghịu, mà sẵn lòng quỳ mọp xuống cầu Chúa, mỗi lần gặp trắc trở hoặc lôi thôi này khác. Lão cũng khuyên bọn tôi nên theo gương lão – quỳ mọp xuống và trò chuyện với Chúa mọi lúc, mọi chỗ. Lão nói:”các em hãy hướng về Chúa, đối đãi với Ngài như với người bạn chí tình. Về phần mình, bao giờ tôi cũng trò chuyện với Đấng Cứu Thế rất mực thành tâm. Ngay cả lúc ngồi sau tay lái, phóng xe đi đây đó.” Lão mà nói thêm câu nữa, chắc tôi chết mất. Tôi hình dung trong óc tôi cái cảnh thằng cha mất giống đó, tay thì gạt cần số sang số một, còn miệng thì lẩm nhẩm cầu Chúa gửi xuống cho mình thêm nhiều thi hài cần chôn. Nhưng giữa lúc lão đang múa may ba tấc lưỡi thì thình lình bỗng xảy ra một chuyện tuyệt hay. Đang giữa chừng câu chuyện phét lác rằng lão là một chàng trai xuất chúng, khôn ngoan, thì thằng Eddie Marsalla – ngồi ngay trước mặt tôi – đánh một phát rắm rất to, suýt làm tốc mái ngôi nhà nguyện. Nó làm thế cố nhiên là rất đểu, chẳng còn coi phép tắc xử thế ra gì, nhưng phải nói là “tiếu lâm” hết sảy. Khá thật, cái thẳng quỷ Marsalla! Không đứa nào dám cười thành tiếng. Lão Ossenburger thì làm ra vẻ chẳng nghe thấy gì. Nhưng chỉ nhìn hiệu trưởng Thurmer đang ngồi cạnh lão chủ đòm đám trên bục diễn đàn cao, thì cũng biết là lão đã nghe thấy tất. Khiếp, trông mặt lão mới kinh chứ! Lão chẳng hé răng câu nào, nhưng chiều hôm đó liền lôi cả trường lên giảng đường và quạt cho bọn tôi một trận nên thân. Lão bảo: một học sinh mà cố tình gây rối như thế trong giờ hành lễ thì không còn xứng đáng ngồi học ở đây nữa. Bọn tôi cố bắt thằng Marsalla nổ thêm một loạt đại bác chào mừng như ban sáng, ngay giữa lúc lão Thurmer đang giảng giải, nhưng hắn chịu chết, cố đến mấy cũng cóc ăn thua. Đấy, chỗ tôi trọ là khu ký túc xá mới, nằm trong toà nhà mang tên cái lão Ossenburger đó.
Về lại buồng, tôi thấy nhẹ cả người bởi thoát được ông thầy già Spencer giữa lúc cả trường đều đang ở ngoài bãi bóng dưới kia, và chiếc lò sưởi duy nhất trong cả toà nhà đang toả hơi ấm ra khắp phòng. Thậm chí tôi còn thấy người nóng lên là khác. Tôi cởi blouson, cà vạt, nới bớt mấy cái cúc cổ rồi chụp lên đầu chiếc mũ đỏ mới mua hồi sáng ở New York, chiếc mũ đi săn, có gắn thêm đằng trước một cái lưỡi trai dài tới mười lăm phân. Tôi thấy họ bày bán trong một cửa hiệu trang phục thể thao, khi vừa chui từ dưới đường tàu điện ngầm lên, sau lúc vừa bị mất sạch mấy thanh kiếm thổ tả, giá chỉ một “đô” chẵn. Tôi đội ngược, dĩ nhiên rất chướng mắt, nhưng tôi thích thế. Xong xuôi, tôi vớ lấy quyển sách đang đọc dở, rồi gieo người xuống chiếc ghế salon hỏng. Trong phòng chỉ có hai chiếc, một của tôi, một của thằng bạn cùng phòng, Ward Stradlater. Mấy cái tay vịn đều gãy hết, vì đứa nào cũng toàn đặt đít lên đó, nhưng lần đệm thì còn êm đáo để. Quyển tôi đang đọc là sách thư viện cho mượn nhầm vì họ ghi sai ký hiệu. Mãi tới lúc cầm về nhà, tôi mới biết đã mượn nhầm cuốn khác. Tên cuốn sách là Giữa rừng thẳm Châu Phi của Isal Dinesen. Tôi tưởng đó là của vứt đi, nhưng hoá ra rất khá. Tôi chúa lười học, nhưng sách thì ngốn nhiều vô kể. Nhà văn tôi hâm mộ nhất là D.B. anh ruột tôi. Kế đến – Ring Lardner. Cuốn của Ring Lardner là quà tặng của anh tôi nhân ngày sinh nhật tôi, trước thời điểm bị đày lên cái trường Pencey chết tiệt này. Cuốn sách có in mấy vở kịch, vở nào cũng nhộn kinh khủng kèm một mẩu chuyện ngắn kể về chàng cảnh sát giao thông phải lòng một cô gái rất kháu, nhưng tứ thời toàn vi phạm luật đi đường. Anh chàng cảnh sát nọ đã vợ con đàng hoàng, nên cố nhiên không thể cưới cô kia. Về sau, cô ấy chết, vì vi phạm luật giao thông. Câu chuyện viết rất xúc động. Nói chung, tôi chỉ thích những chuyện nhộn nhộn, loại cổ điển, đại để như Về lại cố hương (Tiểu thuyết của Thomas Hardy). Sách viết về chiến tranh lẫn truyện trinh thám, cố nhiên tôi đều không chê, nhưng chẳng hiểu tại sao chả mê mấy. Những cuốn tôi thích phải là những cuốn mà vừa gấp sách lại, bạn đã lập tức ước ao: ôi phải chi nhà văn ấy là bạn chí thiết của mình, để hễ cần là có thể nhấc máy lên gọi, và trò chuyện chút đỉnh. Nhưng loại đó thì hiếm đấy. Tôi sẽ thích thú lắm, nếu được gọi dây nói cho ông Dinesen, và cố nhiên, cả cho ông Ring Lardner. Có điều anh D.B. bảo ông ta mất lâu rồi. Còn những cuốn như Thân phận con người của Somerset Maugham chẳng hạn thì khác hẳn. Đại để cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng gì chứ chuyện gọi dây nói cho ông ấy thì tôi chẳng ước. Chính tôi cũng chẳng biết tại sao nữa. Chỉ cảm thấy đó không phải là người mình thích chuyện trò. Mà có gọi dây nói, tôi cũng chỉ gọi cho ông Thomas Hardy đã mất thôi. Tôi thích cô Eustacia Vye mà ông ấy tả. Như vậy là tôi chụp chiếc mũ mới lên đầu, gieo người xuống salon, rồi đọc Giữa rừng thẳm Châu Phi. Tôi đã đọc qua một lần rồi, nhưng vẫn còn muốn xem lại vài đoạn. Tôi mới chỉ kịp lật có mấy trang thì thình lình nghe có tiếng chân bước ra khỏi nhà tắm. Chẳng cần ngước mắt, tôi cũng thừa biết đó là thằng Robert Ackley ở buồng bên. Chái nhà phía bên này, hai phòng mới có một buồng tắm. Thành thử thằng ấy ngày nào cũng mó sang khoảng bảy tám chục bận. Ngoài ra, nó là đứa độc nhất ở ký túc không ra bãi xem đấu bóng. Và nói chung, nó chẳng đi đâu bao giờ. Là đứa rất kỳ quặc, đang học năm cuối và đã mài đũng quần tại trường Pencey này suốt bốn năm trời, nhưng tôi chưa từng thấy ai gọi nó bằng tên. Ngay cả thằng Herb Gale, ở cùng phòng với nó, cũng chưa bao giờ gọi nó là “Bob” hay thậm chí “Ack” cả. Hoạ may có vợ nó mới chịu gọi nó là “Ackley”, nếu ít nữa nó cũng lấy nổi vợ. Nó cao kinh khủng, những một thước chín, lưng gù dễ sợ, còn răng thì bẩn đến phát tởm lên được. Từ ngày ở chung với nó tới giờ, tôi chưa từng thấy nó đánh răng lần nào. Cả hàm trên lẫn hàm dưới đều bẩn kinh khủng, mốc meo cả, mỗi lần thấy nó ngốn khoai tây hay đậu hầm dưới nhà bếp là tôi suýt lộn mửa. Lại còn trứng cá nữa chứ! Chẳng phải chỉ có trên trán hay dưới cằm, như bọn con trai chúng tôi, mà khắp mặt khắp mũi kia. Nghĩa là cái gì trên người nó trông cũng kinh. Ấy là chưa kể cái thói đê tiện của nó. Nói của đáng tội, nó là đứa tôi chẳng ưa chút nào.
Chẳng cần nhìn, tôi cũng thừa biết nó đang đứng trước cửa nhà tắm, ngay đằng sau chiếc salon tôi đang ngồi, lấc láo nhìn trước ngó sau, xem Stradlater có nhà không. Nó rất ghét thằng Stradlater, nên không đời nào bước chân vào phòng khi thấy có thằng kia. Nói chung thì ai nó cũng ghét. Nó bước hẳn ra khỏi phòng tắm, rồi đi thẳng về phía tôi.
– Hello! Nó lên tiếng, giọng tứ thời uể oải, như thể đang ngao ngán kinh khủng hoặc đang mệt bở hơi tai vậy. Nó không muốn tôi nghĩ là nó ghé sang chơi. Chỉ làm ra vẻ tình cờ tạt vào, thằng quỷ!
Nó bắt đầu lân la khắp mọi xó xỉnh, rất thong thả, như bất cứ lúc nào và lục lọi bất cứ thứ gì tôi để trên bàn học và giường ngủ. Hết thảy những thứ ấy, thứ nào nó cũng đều đã xem qua một lượt, nhưng lần nào sang, nó cũng lại cầm chính cái đó lên, săm soi, ngắm nghía. Thế này khéo tôi đến phát điên mất!
– Sao, đấu gươm đấu ghiếc thế nào? – Nó cất tiếng hỏi. Nó chẳng muốn gì hơn là tôi vứt sách xuống, dừng thưởng thức những thứ hay ho ấy nữa chứ đâu thèm đếm xỉa đến kết quả trận đấu gươm. Bên nào thắng, bọn mày hay chúng nó? – Nó tiếp.
– Cóc bên nào thắng. – tôi đáp, nhưng vẫn chẳng thèm rời mắt khỏi cuốn sách.
– Cóc bên nào thắng. – tôi nhắc lại, liếc mắt về phía thằng bạn xem nó lục lọi những gì trên bàn ngủ. Nó ngắm tấm ảnh con bé tôi mới làm quen dưới New York, tên là Sally Hayes. Nó đã cầm tấm ảnh thổ tả ấy lên ít nhất cả ngàn lần. Nhưng lần nào xem xong cũng không chịu đặt xuống đúng chỗ. Nó cố ý đấy, trông khắc biết.
– Cóc bên nào thắng à? – Nó nói – Thế là thế nào?
– Tao để quên sạch các thứ đồ lề dưới tàu điện ngầm. – Tôi đáp, đầu vẫn cúi gằm xuống trang sách.
– Dưới tàu điện ngầm? Đồ quỷ! Thế mất mẹ nó hết còn gì?
– Bọn tao lên nhầm chuyến. Nên cứ phải đứng lên ngồi xuống, để xem các sơ đồ treo ở các ga. Nó lần đến sát bên tôi, án ngữ ngay trước mặt.
– Này, vì mày mà tao đã phải đọc câu này tới hai chục lượt rồi đấy.
Ai chắc cũng hiểu ngay điều tôi ngụ ý trong câu vừa nói, trừ thằng Ackley. Chắc trên đời chỉ có mỗi mình nó là một.
– Thế chắc bọn chúng bắt mày chịu cả tiền vé chứ gì? – Nó hỏi.
– Tao cóc biết mà cũng cóc cần biết. Mày ngồi xuống cho tao nhờ chút được không. Ackley nhóc? Chứ nãy giờ mày che hết cả ánh đèn đây này.
Nó rất ức mỗi lần tôi gọi là “Ackley nhóc”. Nó vẫn lải nhải suốt: tôi mới là nhóc con, vì tôi mới mười sáu còn nó, nó đã mười tám đôi mươi.
Nhưng nó vẫn đứng trơ ra đó. Nó là hạng người dẫu có được các vàng cũng không đời nào chịu tránh đi chỗ khác, nếu nghe người khác bảo nó che mất ánh đèn. Sớm muộn gì rồi nó đứng dịch ra chỗ khác nhưng nếu nghe ai bảo thế, thì nó sẽ cố ý đứng ỳ ra.
– Mày đọc gì đấy? – Nó hỏi
– Đọc sách, mày mù à?
Nó lật úp cuốn sách xuống, xem tựa đề
– Khá không? – Nó tiếp tục
– Khá, nhất là câu này, cái câu tao đã phải đọc đi đọc lại suốt từ nãy đến giờ.
Thỉnh thoảng tôi cũng biết ăn nói đốp chát, nếu thấy cao hứng. Nhưng với thằng Ackley thì chẳng ăn thua. Nó lại lân la khắp phòng, lại sờ cái này, mó cái nọ, tất cả những thứ đồ đạc, cả của tôi, lẫn của thằng Stradlater. Rốt cục, tôi đành quẳng quyển sách xuống sàn. Nó mà còn ở lì bên này thì có đọc cũng vô ích.
Tôi ngả người ra, và bắt đầu nhìn thằng Ackley lục lọi phòng tôi. Chuyến đi New York khiến tôi mệt bã người, chỉ trực ngáp dài. Nhưng tôi cũng cố gượng làm trò khỉ để chọc tức nó. Tôi xoay cái lưỡi trai ra đằng trước, rồi kéo sụp mũ xuống sát mắt. Tôi như thằng mù, chẳng còn nhìn thấy gì nữa.
– Ối, ối! Không khéo con mù mất thôi! – tôi rống to lên bằng một giọng khản đặc. – Mẹ ơi, sao mà tối tăm thế này, chết cha!
– Mày điên hả, ôn dịch? – Ackley nói
– Mẹ ơi, đưa tay cho con, khổ thân con! Sao mẹ không đưa tay ra giúp con, hở mẹ?
– Thôi đi đồ ngốc!
Tôi bắt đầu quờ quạng tứ phía như một thằng mù thật, nhưng vẫn ngồi nguyên trên ghế salon và mồm vẫn rền rĩ không ngớt.
– Mẹ ơi, mẹ hỡi! Sao mẹ không dắt con?
Dĩ nhiên, tôi chỉ làm trò thế cho đỡ chán. Lắm lúc tôi cũng thấy thích vậy. Vả lại, tôi thừa biết thằng Ackley là đứa dễ cáu nhất trần đời nên thích làm tình làm tội nó bằng những trò đùa tai ác, cho vui. Tìm mọi cách chọc tức nó, cố ý làm cho nó điên tiết nhưng chỉ được một chốc là tôi chán ngay. Tôi lại quay ngược chiếc mũ lại, rồi ngả người xuống ghế.
– Của ai cái này? – Ackley hỏi. Nó cầm cái băng nịt đầu gối của thằng Stradlater lên. Bạ gì nó cũng cầm, cái thằng thổ tả, kể cả mấy sợi dây giày. Tôi bảo nó cái nịt đó là của thằng Stradlater. Thế là nó vất ngay lên giường. Của nợ đó vốn nằm trên bàn ngủ, nó biết thế, nhưng vẫn cố ý vứt ra chỗ khác.
Rồi nó đến bên tôi, ngồi xuống tay vịn chiếc salon. Nó chẳng bao giờ ngồi theo kiểu thiên hạ vẫn ngồi, đã ngồi là thượng ngay lên tay vịn.
– Mày kiếm cái mũ thổ tả ấy ở đâu vậy?
– Dưới New York
– Mất bao nhiêu vậy?
– Một “đô”.
– Mày bị hố đấy – và nó bắt đầu vớ lấy que diêm, cạy ghét trên mười đầu móng tay gớm ghiếc của nó. Tứ thời nó chỉ chăm chút có mấy cái móng tay thổ tả ấy. Một thói quen kỳ quặc. Răng thì đầy những **********, ghét đóng vành ngoài hai tai. Thế nhưng chỉ lo trau chuốt có ba cái móng tay. Chắc nó tưởng nó sạch sẽ nhất xứ.
– Ở quê tao, chỉ lúc đi săn người ta mới đội thứ mũ đó, hiểu chứ? Thiên hạ chỉ đội nó khi bắn các thứ thú rừng.
– Chứ sao? – Tôi nói, bỏ chiếc mũ xuống, ngắm nghía một lúc. Tôi nheo một mắt, như thể đang nhắm bắn một con thú. – Nhưng thiên hạ cũng đội nó cả lúc săn người. – tôi bảo, – nên tao đội nó để săn người
– Thế bố mẹ mày biết mày bị đuổi chưa?
– Chưa
– Còn thằng Stradlater nhà mày đi đâu?
– Xem đá bóng. Nó hẹn gặp bồ ngoài bãi – Tôi lại ngáp dài. Không thể kiềm chế được. Trong phòng nóng kinh khủng, tôi lại mệt nữa, nên đâm buồn ngủ. Sống trong cái trường này, bọn tôi chỉ hoặc chết cóng, hoặc là phát ngốt vì bức bối. – Thằng Stradlater sướng thật! – Ackley nói – Này, đưa cái kéo tao mượn một chút. Mày có thủ sẵn trong áo đấy không?
– Không, tao cất nó đi rồi. Ra tủ mà lấy. Ngăn trên cùng ấy.
– Thì lấy ra tao mượn chút không được à? Móng tay tao dài quá, phải cắt cái đã.
Nó cóc cần biết bạn đã cất đồ đạc đi chưa, cất ở ngăn dưới hay ngắn trên. Tôi đành phải đứng dậy, lấy xuống cho nó mượn. Cứ thế này thì tôi đến ngoẻo mất. Tôi vừa mở tủ thì cái vợt của thằng Stradlater, cả cái bàn thấm bằng gỗ nữa, rơi xuống giữa đỉnh đầu đánh cốp một cái, đau kinh khủng. Thằng Ackley chừng khoái chí lắm, cười ngặt nghẽo. Tiếng cười vừa the thé, vừa chua. Trong lúc tôi phải lôi chiếc vali xuống, moi cái kéo cho nó, thì nó lại ôm bụng cười. Cái ngữ như Ackley, thì đừng cho nó ăn bánh làm gì, uổng tiền. Cứ cho nó xem cảnh ai đó bị một hòn đá giáng xuống đầu hoặc một trò gì đại để thế, bởi, nó chỉ biết ôm bụng cười hô hố, khi người khác hoạn nạn.
– Ra mày cũng có khiếu khôi hài đấy chứ, Ackley nhóc – Tôi bảo nó. – Mày cóc bao giờ biết thế, đúng không? – Vừa nói, tôi vừa đưa cho nó cái kéo.
– Mày có muốn tao bảo trợ, cho mày lên biểu diễn trên đài phát thanh không, Ackley nhóc?
Tôi lại gieo người xuống salon, còn nó thì chăm chú tỉa tót ba cái móng tay ghét bẩn.
– Mày ra bàn kia mà cắt cho tao được nhờ tí đi – tôi bảo nó. – Tao không muốn giẫm phải vụn móng tay khi bỏ dép – Tuy nghe rõ tôi nói thế, nhưng nó vẫn cứ vứt bừa xuống sàn. Cái tính nó thế. Kể cũng đáng ghét thật.
– Thế thằng Stradlater hẹn gặp con nào ngoài bãi? – Nó hỏi. Tứ thời nó toàn gạn hỏi tôi và chuyện Stradlater giao du với những ai, tuy rằng nó chúa ghét thằng đó.
– Tao cóc biết. Nhưng bận gì đến mày?
– Tao chỉ hỏi cho biết. Chứ tao cóc chịu nổi cái ngữ thối thây ấy.
– Thế nhưng nó, nó lại mê mày hết biết! Nó bảo với tao, mày là một hoàng tử đích danh! – Tôi nói. Gặp ai tôi cũng khen rằng nó là một hoàng tử đích danh. Đại để tôi vẫn thường giả ngốc, lúc đó, tôi thấy đỡ buồn tẻ chút đỉnh.
– Tứ thời, lúc nào mặt mũi nó cũng vênh vênh váo váo – Thằng Ackley nói
Tao không tài nào xực nổi cái ngữ mất giống ấy. Nó cứ tưởng nó…
– Này, mày không quá bộ lại cái bàn kia mà cắt được sao? – Tôi bực bội – Tao đã năn nỉ mày đến cả năm chục bận…
– Nó cứ vênh mặt lên suốt – Ackley lặp lại – Theo tao, nó chỉ là đứa bốc phét.
Thế nhưng nó cứ tưởng mình rất thông minh. Nó tưởng mình thông minh nhất đời…
– Ackley! Quỷ bắt mày đi! Mày không cắt mấy cái móng tay bẩn thỉu của mày ở đằng bàn kia được sao? Tao đã năn nỉ mày đến năm chục bận rồi, mày điếc hả?
Mãi lúc đó nó mới chịu dẫn xác lại mép bàn. Muốn bắt nó làm gì, chỉ có quát ầm lên thế. may mới ổn. Tôi ngước nhìn nó một chặp, rồi bảo:
– Mày cáu với thằng Stradlater vì nó bảo mày năm thì mười hoạ mới chịu đánh răng, đúng không nào? Chứ kỳ tình, nó chẳng hề muốn sỉ nhục mày! Nó nói thế là hoàn toàn vô tâm, chứ chẳng phải xúc phạm gì mày cả. Nó chỉ muốn mày sẽ thấy dễ chịu và trông dễ coi hơn, nếu đánh răng.
– Nhưng tao không đánh răng bao giờ? Mày đừng về hùa với nó.
– Không, mày không đánh răng, đừng chối. Tao vẫn theo dõi mày suốt, đích thị là mày không hề đánh răng.
Tôi nói bằng một giọng rất thản nhiên. Thậm chí còn thấy thương hại nó nữa. Tôi biết chẳng ai dễ chịu cả khi bị người khác chê là không vệ sinh.
– Thằng Stradlater không phải là đồ thối thây. Nó không xấu đến mức ấy.
– Còn tao, tao bảo nó là quân chó đẻ nên mới tưởng tượng ra thế.
– Có thể nó hay tưởng tượng, nhưng về nhiều điểm, nó là đứa không hẹp bụng. – Đó là sự thật. Rồi ít nữa mày sẽ hiểu ra. Mày thử hình dung, chẳng hạn, thằng Stradlater có một thứ đồ dùng gì đó mà mày rất mê. Nói giả dụ, nó đang thắt một chiếc cà vạt, mà chiếc cà vạt đó mày rất thích, là tao chỉ nói giả dụ thế cho dễ hiểu, mày đồng ý chứ? Mày có biết nó sẽ làm gì với chiếc cà vạt ấy không? Tháo ngay ra rồi tặng mày. Phải, nó sẽ tặng. Hoặc là nó sẽ làm gì nữa, tao đố mày đấy? Nó sẽ không nói không rằng, đặt chiếc cà vạt đó lên giường mày, hay trên bàn mày. Nghĩa là nó vẫn kín đáo tặng mày, hiểu chưa? Còn những thằng khác, không đời nào!
– Xì! – Ackley nói – Tao mà giàu có, tao cũng tặng cà vạt cho khối đứa.
– Không, mày chẳng tặng ai hết! Thậm chí tôi còn vừa lắc đầu vừa nói- Vì chẳng đời nào mày nghĩ tới chuyện đó đâu. Ackley nhóc! Nếu mày cũng giàu có như nó, mày vẫn là đứa đốn mạt như trước…
– Này, đừng gọi tao là “Ackley nhóc”, nghe chưa? Đồ quỷ dữ! Tao đáng tuổi bố mày đấy, ngốc ạ!
– Không, mày cóc đáng! – Nó lồng lộn lên đến nỗi tôi không thể nói tiếp được nũa. Bởi chẳng bao giờ nó chịu bỏ lỡ dịp đốp vào mặt thằng bạn mới chỉ mười sáu còn nó đã mười tám, đôi mươi. – Một là tao không bao giờ cho mày vác mặt tới nhà tao…
– Này, câm ngay cái mõm đi, tao cấm mày gọi tao là…
Đúng lúc đó thì thằng Stradlater đẩy cửa lao vào. Tứ thời, lúc nào nó cũng vội, cũng lao như tên bắn bởi tứ thời nó toàn có những công việc rất hệ trọng. Nó chạy tới bên tôi, tát đánh bốp vào má tôi – cũng lại một thói quen không xực nổi – rồi hỏi lớn:
– Tối nay mày có đi đâu không, Holden?
– Chưa biết. Cũng có thể tao sẽ đi. Thế trời thế nào rồi, tuyết còn xuống không? Người nó bê bết tuyết
– Còn, vẫn xuống. Này, nếu mày không phải đi đâu thì cho tao mượn cái áo blouson da của mày tối nay.
– Thế bên nào thắng? – Tôi hỏi
– Chưa ngã ngũ. Nhưng tụi tao phải đi. Hỏi thật đấy, cho tao mượn cái áo một lúc, nếu mày không đi đâu. Ban sáng, tao trót đánh đổ lọ mực chết tiệt lên cái áo xám của tao.
– Được thôi, nhưng khéo mày làm bục hết chỉ vì mày to ngang như hộ pháp. – Tôi bảo. Tôi cao gần bằng nó nhưng nó nặng gấp đôi tôi, nên vai nó rộng lắm.
– Đừng lo! – Nó lao đến bên tủ áo. – Mày thế nào Ackley? – Nó hỏi, được cái rất hồ hởi. Nó chỉ hỏi cho có lệ, dĩ nhiên. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chào hỏi thằng Ackley tử tế.
Ackley không muốn đáp, nhưng dẫu sao vẫn phải ậm à ậm ờ, vì làm thinh thì không đủ can đảm. Rồi quay sang phía tôi, nó bảo:
– Thôi, tao về đây! Lát nữa tao sang!
– Được – tôi đáp. Chẳng ai phải khóc cả khi ngữ nó đứng dậy ra về.
Thằng Stradlater lúc đó đã cởi vét-tông, cà vạt.
– Phải cạo râu đã! – Nó nói – Râu tao mọc khoẻ khiếp. Tua tủa dưới cằm như người lớn.
– Thế con bạn mày đâu rồi?
– Đang đợi dưới hiên, nó vơ vội khăn tắm, hộp dao cạo râu, rồi ra khỏi phòng ngay. Nó toàn ở trần, vì nghĩ người ngợm nó cân đối lắm. Kể đúng thế thật. Gì chứ khoản đó đố ai dám dè bỉu.