Ả vừa ra khỏi là tôi gieo ngay người xuống ghế, hút hai điếu thuốc liền. Mé ngoài cửa sổ, trời đã hửng sáng. Trời ơi, tôi thấy ngao ngán đến cùng cực… Đầu óc trống rỗng tới mức các bạn không thể hình dung. Thế là tôi bắt đầu trò chuyện thành tiếng với Allie, như vẫn thường làm thế mỗi khi thấy mình trống trải. Tôi bảo nó cứ dắt xe ra sẵn, đợi tôi đằng góc nhà thằng Bobby Fallon. Bobby Fallon là hàng xóm của tôi, hồi tôi còn ở dưới Maine. Số là có lần hai đứa trót hẹn nhau: đạp xe lên hồ Sedebego chơi còn định mang theo cả bữa sáng cùng hết thảy những thứ cần thiết, kể cả hai khẩu súng săn cỡ nhỏ của hai đứa. Vốn còn nhỏ, bọn tôi tưởng loại súng ấy cũng săn được chim muông như ai. Allie nghe lỏm được chuyện hai đứa tôi hò hẹn, nên bắt đầu nài nỉ xin đi theo bằng được, nhưng tôi khước từ. Tôi bảo, em hãy còn bé. Lúc này, khi tôi bị nỗi buồn xâm chiếm, tôi lại bảo nó: “Được, em cứ dắt xe ra sẵn, chờ anh trước nhà Bobby Fallon. Nhớ là đừng có lề mề đấy!”
Chẳng phải là tôi không bao giờ cho Allie đi theo. Ồ, không, tôi vẫn thường lôi nó đi cùng. Nhưng bữa đó, tôi lại không chịu đem nó theo trong chuyến phiêu lưu. Vậy mà Allie chẳng giận, nó có giận ai bao giờ! Nhưng chuyện đó cứ ám ảnh tôi suốt, nhất là những lúc buồn nản.
Mãi sau tôi mới thay quần áo ngủ, định đi nằm. Tôi nằm yên, nghĩ miên man một lúc lâu xem có nên cầu nguyện chút đỉnh không? Nhưng rốt cục chẳng ăn nhằm gì cả. Tôi không thể cầu nguyện được, ngay cả khi rất muốn làm thế. Trước hết, tôi là đứa vô thần. Chúa Cơ đốc đại để tôi rất quí, nhưng lai chẳng ưa toàn bộ những đoạn kinh bổn rất chi là khó hiểu còn lại trong Kinh Thánh. Còn các đấng tông đồ chẳng hạn, lắm lúc họ khiến tôi bực kinh khủng. Dĩ nhiên, khi Chúa đã chết, kể ra họ cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng lúc Chúa còn sống thì họ chẳng giúp ích được gì hệt như một đám vô tích sự chính cống. Đã thế lại cứ chơi khăm Chúa hoài. Những gì khiến tôi chán nhất trong Kinh Thánh thì đó chính là các đấng tông đồ. Sau Chúa Cơ Đốc, người mà tôi thích nhất trong Kinh Thánh chính là cái ông gàn dở, chuyên sống trong hang và cứ toàn lấy đá nhọn rạch nát người để sám hối. Cái ông ngờ nghệch ấy, khiến tôi còn thích gấp trăm lần mười hai vị thánh tông đồ kia. Hồi còn học dưới Whooton, tôi cứ cãi nhau suốt với một thằng bạn ở cùng tầng, thằng Arthur Childs. Nó là tín đồ phái Quaker, nên cứ lẩm nhẩm đọc Kinh Thánh suốt hết ngày này sang ngày khác. Nó là đứa rất tử tế, tôi rất quý nó, nhưng tôi với nó chẳng bao giờ chịu nhau về Kinh Thánh, nhất là về các đấng tông đồ của Chúa Cứu Thế. Arthur cứ một hai với tôi rằng, nếu tôi đã không coi trọng các đấng tông đồ ấy, thì tức là cũng chẳng quí mến gì Chúa Cơ đốc. Nó bảo: một khi Chúa đã tự chọn ra thì có nghĩa là ta phải quí mến các đấng tông đồ. Nhưng tôi bảo, tôi biết là chính Chúa đã chọn họ, nhưng Ngài chọn chẳng qua chỉ vì tình cờ thôi. Tôi bảo nó, Chúa không có đủ thời giờ để suy xét cặn kẽ, nên tôi chẳng nỡ trách Chúa. Vị tất Ngài đã có lỗi, nếu Ngài không đủ thời giờ? Tôi nhớ có hỏi Arthur: ý cậu ra sao – Giu đa có phản Chúa không, có phải xuống hoả ngục sau lúc tự vẫn? Arthur bảo, dĩ nhiên. Tôi không đồng tình với nó chính là ở chỗ ấy. Tôi bảo, tớ dám đánh cuộc một ngàn dollar ăn một là Chúa Cơ đốc chẳng bao giờ nỡ đuổi cái ông Giu đa khốn khổ ấy xuống hoả ngục! Ngay cả bây giờ nữa, tôi cũng dám đánh cuộc từng đó, nếu trong túi tôi có đủ một ngàn. Những ông thánh tông đồ kia thì chắc sẽ đày Giu đa mà chẳng chút phân vân! Chứ Chúa Cơ đốc thì không đời nào! Gì chứ chuyện đó tôi dám đưa đầu ra bảo đảm. Thằng Arthur bảo, tôi nghĩ thế vì tôi chẳng bao giờ đi lễ. Cũng đúng, mà cũng không. Quả tôi chẳng đi lễ bao giờ. Trước hết, vì bố mẹ tôi mỗi người theo một đạo, thành thử mấy anh chị em tôi, chẳng ai theo đạo nào. Thêm nữa, tôi chẳng đi lễ vì không chịu nổi mấy ông linh mục. Tại những trường tôi từng theo học, giọng ông linh mục nào cũng trơn như bôi mỡ, mỗi khi khởi sự giảng giáo lý, nghe đến là chướng tai. Tôi chẳng ghét gì bằng cái giọng trơn tru ấy. Tôi chẳng hiểu, sao họ không chịu dùng cái giọng mọi người vẫn nói, thế có phải dễ nghe không nào. Đằng này, cứ động mở miệng rao giảng là uốn a uốn éo đến phát lợm!
Tóm lại, khi tôi lên giường đi ngủ, trí não tôi vẫn chẳng tài nào nhớ nổi một câu kinh. Tới lúc bắt đầu nhớ được một câu thì ngoài cửa đã nghe léo nhéo giọng Sunny, ả mắng mỏ tôi đủ điều, thậm chí còn gọi tôi là thằng nỡm. Rốt cục, tôi đành ngồi dậy, hút thêm điếu nữa và chờ xem. Chắc tôi đã đốt sạch gần hai gói thuốc kể từ lúc rời khỏi Pencey.
Rồi thình lình có tiếng gõ cửa, lúc tôi vừa ngả lưng xuống, rít điều thuốc mới châm lửa. Tôi hy vong kẻ nào đó gõ nhầm, nhưng chỉ một thoáng tôi đã hiểu ngay, kẻ đó là ai. Linh cảm tôi kể ra chẳng đến nỗi nào.
– Ai đó? – Tôi hỏi. Rồi đâm hoảng. Tôi vốn rất nhát gan với những vụ rắc rối kiểu này. Lại có tiếng gõ cửa. Có điều lần này to hơn. Tôi đành chồm dậy, và cứ mặc nguyên đồ ngủ, ra mở cửa. Chẳng cần phải bật đèn nữa vì trời đã sáng rõ từ lâu. Trước cửa lù lù hai bóng người: Sunny và Moris, lão giữ thang máy.
– Gì thế? – Tôi hỏi. – Các người cần gì? – Giọng tôi run run.
– Chuyện vặt thôi, – Lão Moris lên tiếng. Còn thiếu 5 “đô” nữa. – Lão nói thay cho cả Sunny, còn ả thì đứng đực ra đấy, miệng há hốc.
– Tôi đưa cho cô ấy rồi còn gì? Tôi đưa cô ấy đúng 5 tờ. Ông cứ hỏi cô ấy khắc biết. – Chà giọng tôi run mới khiếp chứ.
– Phải 10 “đô” kia, cậu cả. Tôi chả bảo cậu thế là gì? 10 “đô” – chốc lát, 15 “đô” – suốt đêm. Cậu lú lấp rồi, hả?
– Nói dối. Lúc nãy ông bảo chốc lát thì 5 dollar. Đúng, ông bảo suốt đêm mới 10, tôi nghe rõ ràng, còn hạch gì nữa…
– Xuỳ tiền ra đi, cậu cả!
– Tiền gì? Tim tôi đập loạn xạ, như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Phải chi tôi đã ăn mặc hẳn hoi. Đằng này trên người vẫn chỉ bộ quần áo ngủ mà gặp những chuyện như thế này thì bực thật.
– Thôi, xuỳ ngay đi cho được việc. Moris nói. Rồi ẩy mạnh tôi một cái, khiến tôi suýt ngã ngửa dưới sàn. Lão khoẻ khiếp, cái gã chó đẻ ấy. Và tôi còn chưa kịp ngoảnh lại, lão với cô ả nọ đã vào hẳn phòng. Dáng điệu ngang nhiên, cứ như đây là phòng họ. Sunny ngồi lên bậc cửa sổ. Còn Moris thì gieo người xuống ghế, mở phanh cúc áo cổ, lão đang diện bộ đồng phục của đám giữ thang máy, bó sát người. Trời, tôi tức quá đi mất.
– Thôi, xuỳ tiền ngay đi! Để tôi còn đi làm, kẻo trễ.
– Tôi đã bảo các người rồi: tôi chẳng nợ nần ai, dù một xu. Tôi đã trả cô ấy 5 đô tử tế.
– Câm mồm đi. Rồi để tiền lên bàn kia!
– Tại sao tôi lại phải trả thêm 5 dollar nữa? – Tôi nói. Giọng càng run. – Ông định bịp tôi à?
Moris đã cởi nốt chiếc cúc áo chót cùng. Lão không mặc áo sơmi lót trong, nên phô hết cái bụng phệ đấy lông lá, khoẻ khoắn.
– Chẳng ai định bịp ai hết, – lão nói – Tiền đâu xuỳ ra, cậu cả, xuỳ ra!
– Tôi không đưa!
Tôi vừa dứt câu thì lão đã đứng dậy, đến bên tôi. Mặt lão có cái vẻ như thể đã mệt phờ người hoặc chán chường tới mức chỉ chực nôn thốc nôn tháo. Tôi hoảng quá, trời ạ. Tôi nhớ tôi đã phải bắt chéo hai tay trước ngực. Vì hoảng quá. Tệ nhất là tôi lại đang diện bộ quần áo ngủ trên người.
– Xuỳ ra đi, cậu cả! – Lão tiến tới sát bên tôi. Nhắc đi nhắc lại, độc một câu:
Xuỳ tiền ra đi, cậu cả! – Quân đê tiện diện đồng phục.
– Tôi không trả.
– Này, cậu buộc tôi phải xử tệ với cậu. Tuy tôi chẳng muốn hạ nhục cậu chút nào. Thế mà đành phải giở những trò như cậu vừa thấy. Cậu còn nợ bọn này 5 “đô”.
– Tôi chẳng nợ nần ai hết. Ông mà động đến tôi, tôi sẽ gào tướng lên cho xem. Tôi sẽ dựng cả khách sạn này dậy. Gọi cảnh sát, gọi cả thiên hạ tới! – Tôi nói cứng thế mà giọng vẫn run, như thể đang sốt cao.
– Thì cậu cứ gào đi! Gào cho thật to vào. Tuỳ thích! Nếu cậu muốn bố mẹ biết cậu ăn nằm suốt đêm với bọn gái làm tiền tuy vốn con nhà tử tế – Lão láu cá thật, gã chó đẻ ấy. Láu cá kinh khủng.
– Thôi để cho tôi yên! Phải chi ông nói cái giá 10 dollar ngay từ đầu thì đó lại là chuyện khác. Đằng này ông dám chắc với tôi…
– Sao, có đưa không thì bảo? – Lão dồn tôi vào sát bên cửa ra vào và dùng chính cái bụng phệ lông lá ấy ẩy tôi vào sát cửa.
– Đừng động đến tôi! Xéo ngay đi! – Tôi nói. Trong khi hai tay vẫn bắt chéo trước ngực, không nhúc nhích. Trời, đến con sâu, cái kiến chắc trông cũng chẳng thảm hại bằng. Thình lình, Sunny bỗng khai khẩu, tuy nãy giờ vẫn nín thinh:
– Moris này, tôi tìm cái ví nhé? Nó nằm kia kìa, ngay trên…
– Phải đấy, lấy đi!
– Đây rồi! – Sunny nói. Và huơ huơ trước mắt tôi tờ giấy bạc 5 dollar. – Thấy rõ rồi chứ? Tôi chỉ lấy chỗ anh nợ, không hơn. Tôi chẳng thèm trấn lột ai bao giờ. Bọn này chẳng phải kẻ cướp! Thế là tôi oà khóc. Bởi tôi không muốn, mà cứ phải nhè thêm 5 đô.
– Chẳng phải kẻ cướp! Thế mà đi thó của người ta 5 dollar, các người rõ là quân…
– Câm ngay! – Moris quát, rồi ẩy mạnh tôi một cái.
– Mặc hắn đấy, Moris!- Sunny bảo. – Ta đã đòi được nợ rồi. Ra thôi. Nghe rõ chứ, ta về thôi!
– Ừ! – Moris đáp. Nhưng vẫn đứng đực ra đấy.
– Moris, anh điếc hả? Thôi, mặc xác hắn!
– Thì ai thèm động tới hắn? – Lão đáp bằng một giọng tỉnh bơ như không.
Nhưng rồi thình lình búng đánh bốp một cái vào chiếc áo ngủ của tôi. Không phải búng vào tôi, mà vào chiếc áo ngủ, nhưng tôi vẫn điếng người. Tôi mắng lão là đồ mất giống, quân chó đểu, bẩn thỉu.
– Mày bảo gì? – Lão hỏi. Rồi khum tay, đưa lên vành tai, như kẻ nghễnh ngãng. – Mày bảo gì, hả? Tao là quân gì, nhắc lại xem. Tôi đứng yên đấy, gào to. Tôi đang điên, hắn làm tôi phải điên tiết.
– Phải, tao bảo mày là đồ mất giống, là quân chó đểu bẩn thỉu đấy. Đồ mất giống bẩn thỉu, đồ bịp bợm. Vài năm nữa rồi mày sẽ khánh kiệt, sẽ phải bị gậy đi ăn mày. Áo xống mày rồi sẽ xác xơ, người mày rồi sẽ hôi như cú, bẩn như chó đói…
Tức thì hắn cho tôi một quả thụi khủng khiếp! Tới mức tôi chưa kịp né đã cảm thấy bụng dưới đau điếng người.
Tôi không bất tỉnh, bởi lẽ từ dưới sàn nhìn lên tôi vẫn còn nhìn thấy hai đứa xăm xăm bước ra, rồi khép cửa lại tử tế. Mãi tôi vẫn không sao gượng dậy được, hệt như hôm ẩu đả với thằng Stradlater trên Pencey… Nhưng lần này tôi có cảm giác như mình đang sắp lìa đời. Thật đấy, tôi tưởng mình sắp ngộp thở, như đang chới với dưới nước, không tài nào hớp được lấy một hớp khí trời. Khi đã ngồi dậy được, lê vào phòng tắm, tôi không thể nào thẳng người lên nổi. Hai tay cứ phải ôm ghì lấy bụng dưới lúc đi.
Nhưng chắc tôi là kẻ bất bình thường. Phải, tôi có lẽ là thằng điên, các bạn ạ. Trên đường vào phòng tắm, tôi bỗng tưởng tượng mình bị ghim một phát đạn vào giữa bụng, tưởng tượng gã Moris ấy đã bắn tôi. Tỉnh lại, tôi lần vào buồng tắm, tợp một ngụm Whitsky rõ lớn để trấn an thần kinh cho có sức mà khởi sự hành động. Tôi hình dung mình rời phòng tắm sau lúc đã ăn mặc tử tế, súng ngắn trong tay, chân cẳng chỉ hơi run. Tôi lần xuống thang gác – thang máy tôi nhổ toẹt vào, dĩ nhiên, tay bám vào hàng lan can, trong khi máu chốc chốc lại trào ra nơi khoé mép. Tôi xuống thêm mấy tầng nữa, tay vẫn ôm chặt bụng dưới, còn máu vẫn nhỏ giọt dưới sàn, rồi lên tiếng gọi thang máy. Lúc Moris vừa mở cửa, hắn đã rú lên, giọng khiếp đảm và man dại, cầu xin tôi tha chết, bởi lẽ thấy ngay khẩu súng ngắn trong tay tôi. Nhưng tôi liền cho hắn biết tay. Sáu phát cả thảy, tất cả đều nhằm thẳng vào cái bụng phệ đầy lông lá của hắn! Rồi tôi quẳng khẩu súng vào góc buồng thang máy, dĩ nhiên là đã chùi sạch mọi dấu tay. Xong, tôi lại bò lên phòng mình, gọi điện cho Jane tới để băng bó giúp các vết thương đang rỉ máu. Tôi hình dung cả cảnh nàng giữ giúp tôi điếu thuốc để tôi rít vài hơi trong lúc máu vẫn chưa thể cầm. Điện ảnh kể đáng nguyền rủa thật! Nó xô đẩy người ta tới chỗ ấy đấy. Chính các bạn cũng biết… Tôi ngồi trong buồng tắm cả tiếng đồng hồ, ngâm mình trong nước chốc lát rồi mới trở về giường. Mãi vẫn không chợp mắt được, tôi chẳng thấy nhọc mệt mấy, nhưng rốt cục rồi cũng ngủ thiếp đi. Tôi lại càng muốn tự vẫn hơn hồi sáng. Nhảy quách qua cửa sổ. Và chắc tôi đã nhảy thật, nếu tôi biết đích xác có ai đó sẽ tới kịp phủ lên người tôi một tấm chăn, khi tôi vừa ngã gục dưới kia. Tôi chẳng thích bị những kẻ ngốc tò mò dòm ngó cảnh mình nằm giữa vũng máu.