Tôi lại chập chờn trong giấc ngủ, điều kỳ lạ là không bị ác mộng quấy rầy. Khi thức giấc, nhìn lại tập phác thảo dưới ánh nắng ban ngày, tôi bỗng nghi ngờ tất cả. Căn phòng trong tranh rất khác, chân dung của Jago lại càng khác hơn. Có lẽ trong bóng tối, dưới ánh sáng của ngọn nến đã làm cho chúng trở nên dữ dội và nguy hiểm…
Khi Janet mang nước nóng tới, tôi đưa cho cô ta xem bức tranh “căn phòng ác mộng”.
– Cô xem căn phòng này thế nào, Janet? – tôi nhìn cô dò hỏi.
– Ôi, nó thật là đẹp, – cô buột lời khen ngợi.
Tôi hỏi tiếp: – Cô biết, căn phòng này ở đâu chứ?
– Căn phòng này có thật hả cô? – Janet hỏi lại tôi… Chứng tỏ Janet chưa bao giờ nhìn thấy nó.
Sau bữa ăn sáng, Gwennol đi tới, tôi cũng hỏi ngay – tôi đã tìm thấy trong tập phác thảo của mẹ tôi một bức tranh thật tuyệt. Cô hãy nhìn bức tranh vẽ căn phòng này mà xem.
Cô nhìn, gật đầu tán thưởng.
– Cô biết căn phòng này chứ, Gwennol?
Cô bối rối. – Biết nó ư? Sao tôi phải biết, nó chỉ là một căn phòng bình thường thôi mà.
Một căn phòng bình thường! Thật thất vọng biết bao khi nghe cô nói vậy. Tôi muốn hét to lên rằng: Đó là căn phòng luôn ám ảnh cuộc sống của tôi, là nỗi sợ hãi thường trực của tôi. Một căn phòng không bình thường một chút nào đâu.
Nhưng làm sao tôi có thể nói điều đó ra được. Tôi đành nói – tôi ngạc nhiên biết chừng nào, nếu nó ở ngay trong lâu đài này.
Cô lắc đầu. Dường như cô cho rằng, tôi đang nghi ngờ bức tranh lộng lẫy kia có phải do mẹ tôi vẽ hay không… mà mối bận tâm ấy thì không liên quan gì tới cô kia chứ.
Ngay lúc đó có tiếng gõ cửa, tôi lên tiếng: – Mời vào.
Slack xuất hiện.
– Có trở ngại gì không, Slack? – Gwennol hỏi.
Chỉ là, tôi nghĩ chúng ta phải ra khơi sớm khi thuỷ triều đang lên, thưa cô Gwennol.
Đúng vậy. Chúng tôi cũng đã sẵn sàng.
Tôi bất chợt đưa bức tranh ra trước mặt Slack, và hỏi: – Slack, cậu đã nhìn thấy căn phòng này bao giờ chưa?
Khuôn mặt nhợt nhạt của cậu không hề biến sắc, ngoài sự chăm chú đăm chiêu nhìn vào bức tranh.
Tôi hồi hộp chờ đợi. Không chịu nổi sự đăm chiêu có phần hơi chậm chạp ấy của cậu, tôi đành lên tiếng hỏi tiếp – cậu nhìn thấy nó rồi chứ?
– Đây là một căn phòng đẹp, cô Ellen. – Cậu chậm rãi trả lời.
– Đúng vậy, Slack, nhưng trước đây cậu đã nhìn thấy nó rồi phải không? – Tôi nhẫn nại chờ đợi. Không biết, tôi sẽ nghe được cái gì sau khuôn mặt đăm chiêu và đôi mắt đờ đẫn kia?
– Tôi không có thể nói gì về… bức tranh này, thưa cô Ellen. – Cậu ta thủng thẳng trả lời.
– Tại sao không? – Tôi sốt ruột hỏi.
– Ellen thân mến, – Gwennol cười, nói – cô đã bị căn phòng đó ám ảnh. Mẹ cô chỉ vẽ một căn phòng ấm cúng, giản dị… chỉ có thế thôi. Đó là tất cả những gì mà bức tranh này muốn nói, phải không?
Slack gật đầu. Đôi mắt của cậu trống rỗng, vô hồn. Đúng là một kẻ đần độn! Lúc này tôi thầm nghĩ về Slack như vậy.
– Thôi, hãy đi nào, – Gwennol nói. – Mọi cái đã sẵn sàng rồi chứ, Slack?
– Tất cả đã sẵn sàng, thưa cô, chúng ta đi thôi. – Slack nói.
Chúng tôi đi xuống vịnh, noi thuyền neo ở đó. Biển hiền hoà yên tĩnh, đưa con thuyền nhẹ nhàng lướt sóng ra khơi. Một nụ cười rất mãn nguyện nở trên miệng Slack, khiến cho khuôn mặt câu rạng rỡ sinh động, khác hẳn sự đần độn khi ở nhà.
Tôi lặng lẽ qua sát Slack. Tay cậu khua mái chèo nhanh mạnh, nhịp nhàng dẻo dai, mặc dù tay cậu bé tẹo như tay của một đứa trẻ. Đôi mắt của cậu trở nên trong veo đầy ngây thơ, trừ khi nó khép lại.
Nếu biển yên tĩnh như thế này, khi quay trở về tôi sẽ chèo thuyền, – Gwennol hào hứng nói – cô có chèo được thuyền không, Ellen?
Một chút thôi, – tôi trả lời. Ngay lập tức tôi nhớ tới lần bơi thuyền trên sông Trentham… tôi và Phillip đã bị lật thuyền. Sự phiêu lưu của Phillip đã trả giá bằng sự cầu cứu…
Gwennol nói tiếp – sau này, khi đã được luyện tập, cô phải bơi thành thạo quanh đảo. Đây là điều kiện bắt buộc của những người muốn sống trên đảo.
Thuyền cập bến, chúng tôi lần lượt nhảy lên bờ. Slack thu dọn đồ, xắn quần lên cao trước khi nhảy ra khỏi thuyền. Cậu lội xuống, nước ngập hết cái chân khẳng khiu như chân chim của cậu. Cậu nhanh nhẹn đẩy thuyền vào bờ, cột chặt lại. Chúng tôi tung tăng trên bãi cát, đi về phía nhà trọ.
Bà Pengelly hớn hở chạy ra, mặt tươi rói khi nhìn thấy con trai. Bà âu yếm nói – Sao, thằng cưng của tôi đấy ư?… Chào cô Ellen, chào cô Gwennol. Tôi chắc là các cô cần đến ngựa ngay bây giờ?
– Đúng vậy đấy, bà Pengelly, – Gwennol nói – không biết, cô Ellen có gì thay đổi không?
Tôi nói, tôi cũng cần có ngựa. Bởi trong đầu tôi đã nghĩ tới Lãnh địa Hydrock. Đây là cơ hội cho tôi thực hiện lời hứa… tới thăm lãnh chúa Hydrock.
Được rồi, các cô tới chuồng ngựa đi, Cục Cưng của tôi nói sẽ với cha nó ý muốn của các cô. Nhưng trước hết các cô hãy thưởng thức món bánh nướng, uống một ly vang của chúng tôi… Trong lúc chờ đợi các cô còn phải trang điểm lại nữa chứ?
Gwennol hỏi: – Không có ai vừa tới nhà trọ hả bà Pengelly?
– Không, không có một ai vừa tới đây cả, trừ các cô. Bà Pengelly nói – chúng tôi sẽ mang rượu cho các cô uống nhé.
Chúng tôi đi vào nhà, bà Pengelly đã mang ra rượu mâm xôi, bánh nướng vàng nghệ… món ăn mà tôi đã được thưởng thức khi ở đây.
Chúng tôi vừa ngồi được một lát, bên ngoài sân đã có tiếng vó ngựa của ai đó lốc cốc khua vang, mỗi lúc một gần.
Gwennol vẫn ngồi im. Trên môi cô, một nụ cười từ từ hé mở, mặt cô tươi rói trở nên khá dễ thương.
… Ở trong phòng khách à? một giọng nói dõng dạc của ai đó nghe quen quen vang lên… Tôi đã nhận ra người đó là ai… – Lãnh chúa Michael Hydrock!
Trong lúc anh bước vào, Gwennol đứng bật ngay lên đi lại phía anh, họ cầm tay nhau. Nhưng ngay lập tức anh đã nhận ra tôi. Anh mỉm cười, vui mừng kêu lên: – Ồ, cô Ellen Kellaway…
Gwennol sững sờ ngạc nhiên nhìn chúng tôi, cô hết nhìn anh lại nhìn tôi, cô xúc động hỏi – có thể nào, anh… hai người cũng biết nhau à…”
– Ồ, đúng vậy, chúng tôi đã quen nhau từ trước, – Michael trả lời, đồng thời buông tay cô ra và đi lại phía tôi. Anh đưa tay bắt tay tôi, và hỏi: – Cô ở ngoài đảo vui chứ?
– Tôi rất vui, vì đang tìm thấy ở đó có nhiều điều khá thú vị, – tôi nói.
– Tôi không sao hiểu được… – Gwennol nôn nóng thắc mắc.
Michael ngập ngừng nói – Thật dễ hiểu…
Tôi vội giải thích hộ anh – Trong khi chờ đợi ra đảo, tôi đi dạo chơi thì bị lạc vào rừng Hydrock… Ngài Michael đây đã cứu giúp tôi.
– Ồ ra vậy, – Gwennol lạnh lùng nói.
Michael nhiệt tình mời mọc: – Các cô tới thăm Lãnh địa của tôi ngay bây giờ chứ?
– Vâng, cảm ơn anh, tôi rất thích điều đó. Tôi phải tới thăm ngôi nhà quyến rũ của anh ngay mới được, – tôi nhiệt tình đáp lại lời mời của anh.
– Bà Pengelly đã chuẩn bị sẵn ngựa cho các cô xong chưa? – anh hỏi.
– Tôi đã cho họ chuẩn bị sẵn sàng cả rồi. – Gwennol trả lời.
– Vậy thì tốt, chúng ta có thể cùng đi ngay, – Michael hào hứng nói.
Gwennol đưa ra ý kiến: – Ellen có thể có kế hoạch khác. Cô ấy thích dạo chơi vùng thôn quê.
– Đây là một phần kế hoạch của tôi, – tôi nói – Nhưng tới thăm Lãnh địa Hydrock cũng là trách nhiệm mà tôi phải giữ lời hứa với ngài Michael khi tôi vào đất liền.
– Đúng vậy, – anh tiếp lời – nếu cô không giữ lời hứa thì tôi sẽ rất buồn.
– Thật là vui, khi tôi được thăm lại lãnh địa Hydrock – tôi khẳng định.
– Bây giờ cô đã sống ở Kellaway, tôi e rằng Lãnh địa của tôi không là gì so với n.
– Lãnh địa của anh rất đẹp, – tôi thành thật nói.
– Và có một ngôi nhà đẹp nhất ở đây, – Gwennol sốt sắng ca ngợi.
– Cám ơn Gwennol, – Michael nói – chính tôi cũng nghĩ như vậy.
Chúng tôi đi vào trại ngựa, noi có hai con ngựa đã được chuẩn bị sẵn cho chúng tôi. Bà Pengelly rất vui vì sẽ được ở bên con trai vài giờ tới, trong lúc chúng tôi đi chơi. Rất nhanh chóng, chúng tôi phi ngựa thẳng tiến tới Lãnh địa Hydrock.
– Tôi sẽ dẫn đường cho cô, cô Kellaway, – Michael hỏi tôi – liệu cô còn thuộc đường không? Ồ, chỗ mắt cá chân của cô thế nào rồi, có còn đau nữa không?
– Tôi không cảm thấy đau đớn gì nữa, mắt cá chân của tôi đã hoàn toàn bình phục…
– Vậy là…, cô đã bị đau ở mắt cá chân? – Gwennol hỏi.
Tôi đã kể lại mọi chi tiết đã xảy ra với tôi trong ngày bị lạc ở trong rừng như thế nào… nhưng Gwennol vẫn tỏ ra không vui, dường như cô rất buồn thì phải.
húng tôi đi vào đại sảnh của biệt thự, vẫn cái bàn ăn lớn với những cái ghế bành bọc kim sang trọng. Tôi thấy hoàn toàn tự tin, không còn bỡ ngỡ như lần đầu tới đây nữa.
– Ngôi nhà thật ấm áp, – tôi nói.
– Dĩ nhiên, chúng tôi đều cảm thấy thế. – Gwennol lạnh lùng nói.
– Đúng vậy, – Michael nói thêm – ngôi nhà đã cho người ta cảm giác được chào đón hay từ chối ngay từ khi mới bước chân vào. Nhưng với cô đó là sự chào đón, cô Kenllaway.
– Điều đó góp phần làm ngôi nhà thêm nổi tiếng, – tôi nói – tôi tin rằng nhiều người tới đây đều có cảm giác vậy.
– Cô có nghĩ, đó là một điều thú vị không? Tôi sẽ chỉ cho cô xem hết ngôi nhà này… Có đúng thế không Gwennol? – Anh hạ thấp giọng nói – Gwennol từ lâu đã là bạn của tôi. Cô ta hiểu biết ngôi nhà này không kém gì tôi.
Tôi chân thành nói – Ồ, thế thì còn gì thú vị bằng, tôi rất vui vì điều này.
Gwennol vội nói – Nhưng đáng tiếc là thời gian lại rất ít.
– Hãy nhìn bộ giáp treo trên tường kia, cô Ellen, – Michael tự hào nói – Nó được làm bằng hợp kim và đã có hàng trăm năm tuổi… được tổ tiên của tôi sử dụng trong cuộc Nội Chiến. Tôi thích giữ mọi kỷ vật của gia đình.
– Jago cũng thích vậy, có phải thế không, Gwennol? – Tôi gợi chuyện để Gwennol tham gia cho vui vẻ. Bởi tôi đã nhận ra cuộc đi chơi lần này là sự hẹn hò chờ đợi của Gwennol và Michael. Cô không vui vẻ gì với cuộc gặp gỡ tình cờ của tôi và Michael, và cô không muốn tôi đi chơi với họ. Tôi nghĩ rằng tình cảm của cô đối với Michael đã vượt quá giới hạn của tình bạn. Tình cảm ấy đã lộ ra khi tôi thường bắt gặp ánh mắt cô nhìn anh đắm đuối, miệng cười duyên với anh…
– Jago rất tự hào với Đảo Kellaway, – tôi như biện hộ cho anh: – Đúng vậy, tôi đã thấy mọi người rất kính trọng anh và anh cũng đã làm được nhiều việc tốt cho đảo.
– Ellen thân mến, họ sợ nói ra lời chống đối. Nếu như Jago không phải là Chúa Đảo và là chủ đất của họ thì anh ta đã bị đuổi ra khỏi nhà của họ từ thưở nào rồi.
– Tôi nghĩ, Jago không đến nỗi như vậy, – tôi chân thành nói.
Gwennol lông mày dướn lên duyên dáng, mỉm cười với Michael, cô nói: – Ồ! Ellen đã hiểu biết khá nhiều về cậu Jago.
Michael nhẹ nhàng chuyển sang đề tài khác, anh nói: – Nào, chúng ta đi thăm nhà thờ đi.
Chúng tôi đi qua đại sảnh bước lên một cầu thang bằng đá, đi tới một cái cửa gỗ sồi bịt sắt nặng nề.
Michael nói: – Đã có nhiều bi kịch diễn ra ở đây. Tôi sẽ chỉ cho cô xem, một cái hang ngầm của thầy tu ở trong nhà thờ, giống như cái lỗ nhọt lở loét kinh tởm… Một người bất ngờ phát hiện ra tên thầy tu khốn khiếp lén lút biến đi trong chốc lát bằng cái hang đó. Hoá ra, tên thầy tu này được một người đàn bà Tây Ban Nha liều lĩnh giấu diếm trong nhà, bà chính là vợ của ông tổ tôi… Sẽ có một ngày tôi sẽ viết tất cả các chuyện về gia đình, kể lại những sự việc đã diễn ra dưới mái vòm của nhà thờ kia.
– Ồ, thế thì thật thú vị, tôi sẽ gắng chờ đợi để được đọc nó, – tôi nói.
– Nếu cô muốn được chia sẻ thì Gwennol sẽ giúp cô, điều đó làm tôi rất vui.
Gwennol làm duyên, nói – không có công việc nào thú vị bằng công việc này. Michael là một lãnh chúa đặc biệt. – Gwennol làm bộ nhăn nhó: – Tôi chỉ e rằng, chúng tôi quá mộc mạc không làm vừa lòng sự cầu kỳ quý phái của cô.
Michael vội nói: – Chúng tôi có rất nhiều tài liệu tham khảo, đó là cả một tủ sách lớn của tổ tiên để lại. Hy vọng, rồi đây mọi người sẽ được đọc cuốn sách của chúng tôi khi nó đã hoàn thành.
– Một tập hồi ký thú vị! – Gwennol thốt lên, cô tỏ ra sốt sắng, tự hào với nhiệm vụ được giao.
Ngay sau đó chúng tôi lang thang đi dạo.
Chúng tôi đi vào nhà thờ. Đó là một thánh đường nhỏ, nền lát đá, các viên đá xếp thành các ô vuông với nhiều màu sắc khác nhau. Tất cả chỉ có mười hai cái ghế ngồi với đệm bọc vải lanh xếp làm hai dãy đặt giữa nhà. Một bàn thờ nhỏ trang trọng đặt trước hai hàng ghế. Michael cho tôi biết, chính ông ngoại của anh đã xây dựng thánh đường này, thời gian cách đây cũng không bao xa. Ngay một góc nhà thờ có một cái buồng nhỏ thụt vào trong với hai ô vuông nhỏ thông ra ngoài. Đây là buồng dành cho người đau ốm dự lễ, họ có thể nhìn vào thánh đường qua ô vuông nhỏ mà không sợ gây ra uế tạp, thiếu tôn nghiêm. Cái buồng được làm thêm sau này, nhờ sự quyên góp của các bà, với mong muốn khi già cả ốm yếu họ vẫn được tới dự lễ nhà thờ.
Michael nói tiếp – tôi sẽ chỉ cho cô xem phòng suởi nắng, nó sẽ làm cho cô phải ngạc nhiên.
– Căn phòng thật tuyệt, – Gwennol phụ họa theo.
– Ồ, có thể gọi nó là “Phòng mùa xuân”, – Michael nói – mùa xuân lần lượt trôi qua, may mắn biết bao trong căn phòng này luôn đón những đứa trẻ ra đời và đặt tên cho nó. Gia đình chúng tôi bao giờ cũng có những cậu bé để nối dõi. Tôi cũng muốn vậy.
– Anh có cậu bé nào chưa?
Anh lắc đầu cười…
Nhưng rồi anh sẽ có, – tôi cười… và nói – khi mà anh quan tâm tới nó như một nghĩa vụ quan trọng.
Đó là điều mong muốn lớn nhất của tôi đấy, – Michael khẳng định.
Gwennol liếc nhìn anh đầy ý nghĩa. Tôi nghĩ – đúng là cô ta đã yêu anh rồi. Tôi đã đi quá xa… Tôi không thể đi cùng với họ được nữa. Đáng ra tôi phải tách ra khỏi họ từ trước. Ý muốn của Gwennol đã quá rõ ràng, chỉ vì lịch thiệp mà Michael đã không tiện nói ra. Tôi thật vô tâm, tôi cứ tưởng anh muốn mời tôi tới thăm anh thật.
Phòng sưởi ấm, thực chất được đốt nóng bằng ánh sáng mặt trời, – anh nói – nó thu nhận ánh nắng làm cho căn phòng sáng trưng như một phòng khiêu vũ. Bây giờ căn phòng đã được ngăn đôi. Nó rất đẹp trong ngày cưới. – Anh dắt tôi vào một lối đi dẫn tới hầm chứa rượu, nơi tôi đã thăm lần trước. Chúng tôi leo lên một cái cầu thang đá, qua một hành lang dài thì vào tới phòng sưởi nắng. Ánh nắng được lùa qua những khung cửa sô lớn, chiếu sáng những tấm thảm màu xanh thẫm treo trên tường. Mỗi tấm là một phong cảnh khác nhau diễn tả thời kỳ nội chiến. Đó là các trận chiến nổi tiếng Naseby, Maston Moor… mà phòng chỉ huy của Hoàng tử Charles nằm trong một hốc cây sồi cổ thụ. Kết thúc chiến tranh, Hoàng tử được hoan nghênh nhiệt liệt ở trong một nhà hàng ở London…
Tôi say sưa ngắm nhìn các tấm thảm, bởi chúng được thêu thùa công phu, pha trộn màu sắc khéo léo, thật hài hoà, sống động. Michael nhìn tôi hài lòng nói – ở, đây cô còn được nhìn thấy ô chiêm ngưỡng. Hãy vào trong này, đây là noi các bà ngồi, cô thử nhìn vào cái ô kia… Có đúng là cô nhìn thấy rõ thánh đường không? Nào chúng ta ngồi xuống đây một lát. Tôi muốn kể cho cô nghe về hồn ma ở nơi đây… Được chứ, Gwennol?
Gwennol gật đầu, nói – Đó là một hồn ma thiêng lắm đấy, Elllen.
– Khi đó trong nhà này có ba chị em gái, – Michael kể – tất cả ba cô đều đến tuổi cưới chồng, nhưng người cha lại không muốn. Một cô đã bỏ nhà ra đi mãi mãi… Chỉ còn hai cô ở lại. Ngày mỗi ngày trôi qua… là một ngày đắng cay khổ sở với họ. Cuộc sống với họ là địa ngục, nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng, không hề phàn nàn, kêu ca… Cho đến lúc người cha sắp tắt thở, ông mới ân hận và xin các con tha thứ. Và họ đã làm cho ông toại nguyện. Ông chết và trở thành hồn ma… một hồn ma hiền hậu, chỉ quanh quẩn ở xung quanh nhà, luôn luôn xin tha thứ. Tha cho ông tội ích kỷ, làm cản trở hạnh phúc của họ…
– Đúng là một câu chuyện về hồn ma hay nhất mà tôi được nghe, – tôi xúc động thừa nhận.
– Đây là căn phòng ông nằm khi qua đời, – anh kể tiếp – căn phòng đã mang lại những cơ hội tốt cho tình yêu. Trong những ngày này căn phòng được đặt một cái giường, có màn che kín. Căn phòng luôn nhắc nhở mọi cô dâu và chú rể của dòng họ Hydrock… hãy trân trọng hạnh phúc!
– Đúng vậy, ông ta xứng đáng được dung thứ, – tôi tán thành.
Michael kể tiếp: – Ông đã được tha thứ thật sự. Vì ông đã đem lại suy nghĩ tốt đẹp cho tuổi trẻ, cô có đồng ý vậy không? Khi cô dâu bước chân vào nhà này, họ cảm thấy hạnh phúc bởi đám cưới long trọng của họ và đặc biệt còn bởi ông già Simon Hydrock không cho phép họ được làm khác đi.
– Điều đó rất thuận lợi cho cô dâu, – tôi bình luận.
Anh mỉm cười nhìn tôi, – Tôi chắc rằng cuộc đời cô sẽ hạnh phúc…Mẹ tôi hay kể cho tôi nghe câu chuyện này. bà từng là một cô dâu hạnh phúc. Bà thường nói: “Khi con có một người vợ tương lai, con hãy nói với cô ta rằng, cô sẽ được ưu ái hết lòng.”
Tôi nói – chính bà là người hạnh phúc nhất.
– Sự đánh giá tuỳ thuộc vào cách nhìn của mỗi người. Điều gì sẽ xảy ra, khi hai người cùng ở trong một hoàn cảnh như nhau? Chắc chắn sẽ có một người cho rằng mình hạnh phúc, một người than phiền cực khổ… Khi tôi mới lên mười, mẹ tôi phát hiện bà bị bệnh hiểm nghèo khó qua khỏi. Bà chỉ sống đúng mười tháng nữa. Bà đã nói cho tôi tất cả sự thật. Bà nhắc nhở tôi không được nghe lời xuyên tạc bóp méo câu chuyện hồn ma. Bà nói: “ Mẹ thật may mắn. Mẹ đã có một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng bây giờ mẹ sẽ chết trước khi cơn đau hành hạ.” Vậy là bà đã chấp nhận cái chết để chấm dứt sự đau đớn, khi bà biết không thể kéo dài cuộc sống lâu hơn được nữa.
Tôi như chìm đắm hoàn toàn vào câu chuyện. Gwennol nhìn Michael không chớp mắt, dường như cô đang nuốt từng lời của anh.
Anh kết luận: – Bây giờ, chúng ta đi ăn thôi, tôi chắc rằng các cô cũng đã đói bụng.
– Ôi, cảm ơn, anh thật chu đáo, – tôi nói – nhưng tôi không có ý định ăn trưa ở đây. Có lẽ tôi…
Cả Michael và Gwennol đều ngạc nhiên nhìn, tôi nói thêm – tôi nghĩ Gwennol có thể ở lại, còn tôi sẽ đi…
Có cô chúng tôi mới vui được, – Michael nói – đúng là chúng tôi có hẹn nhau, tôi nhận được thư của Gwennol… tất nhiên cô ta sẽ ở lại và cô cũng phải ở lại, – anh quay sang Gwennol – đúng vậy chứ Gwennol?
Anh lại quay sang tôi nói tiếp – bồ câu đưa thư là một phương pháp liên lạc ưu việt trên đảo. Biển ngăn cách chúng ta giữa đảo và đất liền, nhưng thư từ đã làm chúng ta gần nhau hơn. Thật may mắn, ở đảo có những con chim bồ câu chuyên đưa thư. Slack như có phép màu sai khiến được chim bồ câu, cô biết rồi chứ? Chúng tôi cũng có chim bồ câu đưa thư… Sau bữa ăn chúng ta sẽ đưa cô Kellaway đi thăm vườn nhé, Gwennol?
Tôi vui vẻ ngồi xuống bàn ăn, nơi nhìn qua cửa sổ thấy bãi cỏ xanh rì, hoà quyện vào cảnh vật thanh bình ấm áp, tràn trề sức sống hồi sinh sau mùa đông lạnh giá. Lòng tôi xúc động xao xuyến, tưởng như người cha già khốn khổ đang giơ tay run rẩy cầu xin Mùa xuân – Nữ Thần Tình Yêu – rộng lòng tha thứ… và nàng đã chấp thuận… Tôi ngắm nhìn Michael ngồi bên Gwennol, anh tỏ ra hài lòng với tất cả. Bỗng dưng tôi liền cảm thấy so anh với Jago, họ đều mạnh mẽ… nhưng ở anh sự quyến rũ bí ẩn chỉ bằng một nửa của Jago, còn sự tinh ranh khó lường thì chỉ Jago mới có.
Sau bữa ăn trưa, chúng tôi đi dạo xung quanh vườn. Một vẻ đẹp chuẩn mực gọn gàng, ngăn nắp được thể hiện ở nơi đây. Mốt vườn Italia thống lĩnh toàn bộ, chỉ có mỗi vườn hồng là theo kiểu Anh truyền thống. Qua con đường có rặng cây hai bên được xén tỉa cẩn thận, chúng tôi đi ra bãi tập ngựa ở bên một bãi cỏ xanh rì rộng lớn. Tại đây chúng tôi gặp vài người làm vườn đang cần mẫn làm việc, khi chúng toi đi qua, họ dừng tay cúi chào. Tôi nhận thấy ở họ sự kính trọng chân thành đối với ông chủ.
Đã tới lúc chúng tôi phải quay lại nhà trọ. Michael đưa chúng tôi ra tận bờ biển, noi Slack đang đứng đợi sẵn ở bên con thuyền… Chúng tôi đưa thuyền ra khơi.
– Hẹn sớm gặp lại, – Michael giơ tay vẫy chào, cùng với lời mời mọc ân cần.
Ngồi trên thuyền Gwennol im lặng nhìn tôi, một cái nhìn ngờ vực. Tôi cảm thấy quan hệ giữa chúng tôi đã thay đổi. Nếu sáng nay cô còn thân thiết gần gũi với tôi bao nhiêu thì bây giờ cô lạnh lùng xa cách bấy nhiêu.
Cuối cùng, Gwennol cũng lên tiếng – thật kỳ cục, cô đã gặp Michael mà không nói trước cho tôi biết.
Tôi nói – lúc này, có quá nhiều việc xảy ra với tôi, tôi chỉ kịp nói những điều cần thiết.
– Vậy là cô đã bị đau chân khi lạc ở trong rừng…
– Ồ, đúng vào lúc Michael xuất hiện, tôi bị ngã… Michael sau đó đưa tôi về nhà cứu chữa, rồi đưa tôi về nhà trọ.
Cô cười nhạt, nói – ồ, khi gặp chúng tôi, chân cô có sao đâu.
– À, tôi chỉ bị bong gân nhẹ, sáng ngày hôm sau tôi đã đi lại bình thường.
Đúng là một cú bong gân thật thích hợp, – Gwennol nói. Tôi chưa kịp phản ứng, thì thuyền đã cập bến, cô ta nhảy tót lên bờ đi thẳng về Lâu đài.
Tôi đi lên ngay phòng riêng của mình, kết thúc một ngày đi chơi không mấy thú vị. Nhưng dù sao tôi được an ủi chút ít bởi sự quan tâm của lãnh chúa Hydrock.
Trong bữa ăn tối Jago nhìn tôi với vẻ trách móc, anh hỏi tôi bỏ đi đâu trong ngày hôm nay. Tôi nói với anh tôi vào đất liền.
– Ellen, cô đã sẵn sàng rời bỏ chúng tôi ư?
Tôi nói – chỉ là một cuộc sạo chơi thôi mà.
– Trong lúc ở đây còn có nhiều chỗ mà cô chưa hề biết.
– Nhưng tôi chưa kịp nhìn nhận đánh giá lại tất cả những gì tôi đã biết.
– Cô có cái miệng thật dẻo… Gwennol, cô hãy nói rõ tất cả, được không?
– Ồ, tôi cho rằng đó chỉ là cơ hội…, – Gwennol nói.
– Vậy, cô đi những đâu? – anh hỏi.
Gwennol nói – tới thăm lãnh địa Hydrock.
– Và cả cô cũng đi theo sao, Ellen?
– Trước đây tôi đã từng gặp Michael Hydrock.
Jago đặt dao và nĩa xuống, nhìn tôi chằm chằm. Tôi cảm thấy chị Jenifry cũng nhìn tôi như vậy. Gwennol lặng thinh, ngồi im một chỗ…
Một lần nữa tôi phải nhắc lại câu chuyện tôi gặp Michael như thế nào và tôi bị đau chân ra sao.
– Cô đã bị thương! – Jago kêu lên – tại sao cô không nói với chúng tôi?
– Điều đó không có ý nghĩ gì, chỉ ngày hôm sau tôi đã khỏi và quên khuấy mất không còn nhớ tới nó nữa.
– Vì, đó chỉ là một kiểu bong gân nhẹ ấy mà, – Gwennol nói. Tôi cố đi cái giọng đầy mỉa mai của cô.
– Và những gì đã xảy ra sau đó? – Chị Jenifry hỏi?
Anh ta đã đưa tôi về nhà để bà Hocking nắn chân cho tôi… Tôi cho rằng, nếu không có sự chăm sóc đó tôi đã không thể đi được. Cuối cùng anh ta đưa tôi trở về nhà trọ.
Jago nói – đúng là một nhà quý tộc cao quý.
– Tôi cũng nghĩ vậy.
Tôi cảm thấy tin tức đó làm cho cả Jago và chị Jenifry thất vọng vô cùng.
Jago nói: – Ngày mai tôi sẽ chỉ cho cô nhiều chỗ ở trên đảo hơn. Sẽ có nhiều cái cần thiết để cô tìm hiểu.
– Cảm ơn anh, – tôi đáp.
Gwennol nói – tôi đã nói với Ellen, cô ấy có thể tập bơi thuyền.
– Cô biết bơi thuyền sao, Ellen? – Jago hỏi.
– Đúng vậy, nhưng tôi mới chỉ bơi trên sông, tôi nghĩ trên biển thì khác.
Gwennol nói hoàn toàn tương tự, chỉ cần cô chú ý tới thời tiết trên biển, cô có thể bơi như trên sông nếu biển yên ả…
Jago nói – lần đầu, cô chỉ tập bơi từ vịnh này sang vịnh khác… Ngày mai, tôi sẽ chỉ cho cô. Slack sẽ luôn ở bên cô, cô không được tập bơi một mình đâu.
Tôi trả lời, tôi rất thích và sẽ cố gắng làm theo chỉ dẫn của anh.
Jago, kết luận – bài học bơi đầu tiên, ngày mai sẽ bắt đầu.
Khi trở về phòng riêng, tôi mệt mỏi rã rời. Một ngày nặng nề đã trôi qua. Tôi đã có cuộc viếng thăm thú vị, tuy phần nào kém vui đi vì sự ghen tỵ của Gwennol. Thật ra điều này có nghĩa gì đâu, người cô yêu chỉ quan tâm tới tôi… bởi lòng thương hại.
Tôi thắp nến, căn phòng sáng trưng. Tôi ngồi vào bàn trang điểm chải tóc. Bỗng có tiếng gõ cửa.
Tôi đứng dậy, không có ai lên tiếng, chỉ có ánh nến rọi qua khe cửa khiến tôi không yên lòng.
Tôi đứng yên nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Một lát sau, cánh cửa bật mở. Chị Jenifry xuất hiện với cây nến trên tay.
– Tôi nghĩ cô đã ngủ say, khi không nghe thấy tiếng cô trả lời, – chị nói.
– Tôi vừa định lên tiếng, thì chị đã xuất hiện, – tôi giải thích.
– Tôi có chuyện muốn nói với cô, – chị đặt cây đèn lên bàn trang điểm, ngồi đối diện với tôi.
Chị nói tiếp – đó là chuyện của Gwennol và Michael Hydrock.
– Ôi, sao vậy?
Tôi bắt gặp bóng chị trong gương. Chị nhìn xuống dường như không dám nhìn thẳng vào tôi, chị nói – xung quanh đây, Michael là chàng trai đáng được lựa chọn nhất, giữa Michael và Gwennol đã có một mối quan hệ thân thiết, trong thực tế thì…
Tôi nói – còn hơn tình bạn, phải không ạ?
Chị gật đầu nói – Dư luận bàn tán chúng thật xứng đôi với nhau… nhưng có một cản trở.
– Cản trở ư? – tôi nhắc lại
Liếc nhìn bóng chị trong gương, tôi thấy miệng chị néo xệch thật thảm hại. Tôi thầm nhủ: hãy cẩn thận!
Chị chua xót nói – Gia đình danh giá đó, hình như có người cho rằng Gwennol không xứng đáng với dòng dõi của họ…
Môi dẩu ra cong cớn – chị nói tiếp – Đó là bà Hocking… ngoài đám con cái của công hầu bá tước ra, bất kỳ một người con gái nào bà ta cũng cho là không xứng với anh ta.
– Bà ta có quyền gì mà quyết định việc này?
– Bà ta là một mụ già quỷ quyệt, hay nghi kỵ. Cô đã gặp bà ta rồi phải không? Bà ta có uy quyền bởi bà là vú nuôi của anh ta. Bà luôn nhìn anh ta như một đứa trẻ cần có sự chăm bẵm, cưng chiều… và bà lo lắng, không có cô gái nào yêu quý chăm sóc Michael được như bà…
– Michael đã cho tôi một ấn tượng tốt. Anh ta tỏ ra là một người đàn ông hoàn toàn tự tin, dễ mến.
– Tôi nghĩ, dòng họ Kellaway hoàn toàn xứng đáng với vinh hạnh ấy, nhưng không may chi nhánh chúng tôi bị ô uế bởi chuyện… quỷ ám.
– Tôi xin đảm bảo Michael không tin vào chuyện này, chị Jenifry.
– Dù cho anh ta có tin hay không, nhưng mọi người vẫn tin điều đó. Trong tương lai anh ta sẽ bị tác động bởi dư luận và anh ta sẽ tin vào chuyện đó. Đã từ lâu Gwennol giúp anh ta thu thập tài liệu để viết sách. Hôm nay nó trở về với… một chút lo ngại.
– Vì sao vậy? – Tôi liều lĩnh hỏi.
Chị rướn người, mặt áp sát vào mặt tôi. Con quỷ độc ác thoáng hiện trên nét mặt của chị, gớm ghiếc y như trong gương hôm trước – Chị nói – Cô biết anh ta thích cô, đúng vậy không? Tất cả đều xuất phát từ cái trò chơi bong gân của cô.
Tôi tức giận phản đối: – Không! Đó không phải là trò chơi. Tôi bị bong gân thật sự mà.
– Đúng lắm, một sự thật ngọt ngào lãng mạn phải không? Tôi dám nói anh ta đã nhận ra cô… Các cô gái đi tới lãnh địa Hydrock thường do các bà mẹ xếp đặt, nhưng cô thì khác hẳn. Tự nhiên trái tim của anh ta được đánh thức… dẫu cho cô cũng là một Kellaway. Nhưng là một Kellaway thuần khiết, một Kellaway không có quỷ ám.
Lửa giận bốc lên, tôi gay gắt phản đối: – tôi xin nhắc lại đó chỉ là sự tình cờ. Lần đầu tôi gặp người đàn ông đó ở trong rừng vì tôi bị lạc, sau đó anh ta đã đưa tôi trở về nhà trọ. Lần này tôi gặp lại anh ta cùng với Gwennol, chúng tôi đi dạo chơi và ăn trưa tại nhà của anh ta. Vậy mà chị đã nghĩ tôi chiếm mất anh ta của Gwennol, trước một bà mẹ đang hy vọng ư? Không, tôi chỉ mới gặp anh ta, tôi thấy mến anh ta và thích ngôi nhà của anh. Ngoài ra không còn có cái gì khác nữa… chị hiểu không?…
– Dường như Gwennol nghĩ rằng… – Chị Jenifry ngập ngừng.
Tôi khẳng định: – Gwennol đang yêu, cô ta đang bị loá mắt vì tình yêu. Tôi xin đảm bảo với chị rằng, tôi không thể liều lĩnh lấy người đàn ông lần đầu tiên mới gặp làm chồng đâu.
Chị Jenifry đứng lên, cầm lấy cây đèn soi vào mặt tôi. Cây đèn chiếu hắt vào gương một nửa khuôn mặt của chị, làm lộ cái trán dô và con mắt gườm gườm dữ tợn… một mặt quỷ!
– Nhẽ ra tôi nói với cô nhiều hơn, – chị thầm thì nói – Nhưng tôi xin cô, đừng làm cho Michael bỏ rơi Gwennol.
– Ôi, chị Jenifry, thật buồn làm sao… theo tôi thì anh ta không phải là người đàn ông dễ thay đổi như thế. Anh ta biết yêu và biết chọn người yêu cho mình.
– Đấy chính là Gwennol – chị vội nói – Gwennol đã được anh ta lựa chọn.
– Và cả sau này nữa, vãn chỉ là Gwennol. Chị cứ yên tâm đi.
– Chúc ngủ ngon, – chị gượng gạo nói – tôi mong cô hiểu cho nỗi lòng lo lắng của một người mẹ.
– Vâng tôi hiểu, chị Jenifry. – Tôi an ủi chị.
Cánh cửa khép lại, chị biến mất vào bóng đêm, để lại con quỷ trong gương… Với tôi, chắc chắn nó còn đáng sợ hơn nỗi lo lắng của người mẹ vì con gái. Bởi đối với con người, quỷ không biết nhiều lời… quỷ chỉ biết có hành động.
Trước khi đi ngủ, tôi bỗng nhớ ra quyển sổ ghi chép mà tôi mới tìm thấy trong tủ. Nó như gợi ý cho tôi phải viết một cái gì đó.
Nỗi buồn ê chề vốn đã đầy ắp trong tôi bây giờ được chị Jenifry rót thêm vào làm nó tràn ra. Tôi quyết định viết thư chia sẻ với Esmeralda. Đã từ lâu, hẳn Esmeralda đang mong đợi muốn biết những ngày đầu tiên tôi sống ở trên đảo ra sao. Tôi sẽ mô tả cái vẻ bề ngoài êm ái của nó: – Đó là những trang trại nhỏ xinh đẹp, những ngôi nhà cheo leo trên vách đá, những mái nhà tranh được dựng dưới đêm trăng…
Tôi có ý định lấy giấy trong quyển sổ để viết thư. Quyển sổ bìa da nằm trong ngăn kéo bàn không biết đã có từ bao giờ mà giấy của nó đã ố vàng. Tôi mở sổ, nhưng thật khó khăn, vì tất cả các tờ giấy đã dính bết lại với nhau. Tôi cố lật tấm bìa, cuối cùng nó cũng bật ra. Tôi ngạc nhiên, sững sờ… chữ “S.K” lại xuất hiện, nó được viết ngay trên trang đầu. Sổ của cô ta! Tôi rất dễ dàng nhận ra kiểu chữ viết nguệch ngoạc ở trong tủ với chữ viết trong cuốn sổ là một. Bây giờ, dẫu tôi chưa biết cô là ai, nhưng tôi đã có chân dung của cô do mẹ tôi vẽ.
Tôi búng nhẹ vào tờ giấy, nó bung ra trang tiếp theo đầy chữ viết như gà bới. Tôi đọc:
“Tôi ghét nơi này, toi chỉ muốn trốn đi. Cha tôi ghét tôi ghê lắm. Tôi không biết tại sao. Nhưng sau này tôi biết ông không thích một ai… cả bà ấy… cả bé Bi.” – Tôi lật trang trước nhìn vào dòng chữ “Cuộc sống trên đảo”. À, tôi đã hiểu ra đây chỉ là một quyển vở tập làm văn của bé “S.K”, nó đã có từ lâu lắm rồi. Tôi đọc tiếp: “Tôi là một tù nhân bị giam giữ ở trong phòng này.” – Lời lẽ mới ngây ngô làm sao. Có thể xem như cô bé đang bị phạt vì lỗi nghịch ngợm, hoặc ngang bướng, quấy rầy người lớn chăng? Tôi đã có chân dung của cô, tôi sẽ hiểu về cô hơn. Chỉ cần có thời gian… Tôi sẽ hỏi Gwennol vào một dịp thích hợp.
Tôi đọc tiếp trang sau, một trang đầy chữ nguệch ngoạc.
“Tôi sẽ viết bài tiểu luận với đề tài “Cuộc sống trên đảo”. Cô Homer nói tôi phải ở nguyên trong phòng cho tới khi viết xong bài tiểu luận, nhưng tôi không biết viết nó như thế nào. Tôi tự ý viết về cua, cá, sứa… tất cả những gì tôi thích, thay vì phải viết những điều mà tôi không thích và chưa được nghe ai nói. Tôi say sưa viết theo ý thích của mình mà không nhớ tôi còn phải đọc lại cho cha tôi nghe. Bởi vậy, bài tiểu luận đã làm cho cha ghét tôi thêm. Dì ghẻ cũng không ưa tôi với nhiều lý do khác nhau. Nhưng không ai làm tôi thích bằng bé Bi này. Nó thật đáng yêu, phải không? “Tôi nói với bé – bé chỉ bằng một nửa chị. Bé không phải là người lớn. – Tôi vui vì được làm chị của một bé Bi ngây ngô. Bé chỉ biết khóc vòi những gì bé muốn, bé chỉ biết cười khi có bất kỳ ai tới nựng, mặc dù trước đó bé đã cười ngặt ngẽo một lúc khá lâu. Tôi nghĩ tôi đã từng là bé Bi, nhưng chắc chắn không ai khen tôi đáng yêu cả.”
Tôi đọc tiếp trang sau: “Tôi chỉ đọc lại bài tiểu luận của tôi khi cô Homer trả lại nó cho tôi. Tôi đã bật cười khi đọc nó. Tôi đã lừa được cô giáo, đến lúc này cô mới phát hiện ra. Cô nói: “Tôi không biết em viết những gì nữa.” – Thật ra, đó toàn là những điều tôi tự nghĩ ra, những cái tôi nhìn thấy và cả những điều tôi phịa ra không có trong thực tế. Tôi thật quá quắt không làm đúng những gì cô muốn! Tôi đúng là một đứa trẻ nghịch ngợm, mặc dù có lúc cũng tỏ ra ngoan ngoãn đôi chút… Người ta nói dì ghẻ “trong miệng có cục nịnh bợ không bao giờ tan”. Bởi vậy cha tôi càng thêm ghét tôi. Tôi mong muốn được gặp ông để phân trần, nhưng ông không muốn. Mặc dù thi thoảng ông vẫn ghé thăm bé Bi và dì. Lẽ ra ông phải làm điều đó với cả mẹ tôi… nhưng vì ghét tôi nên ông ghét luôn cả mẹ tôi. “Đúng là một lý do tức cười, không sao hiểu nổi” – những người hầu đã bàn tán như vậy đó… Mẹ tôi chết khi tôi bảy tuổi, vào ngày trước ngày sinh của tôi một ngày. Nhưng có ai thèm nhớ ngày sinh của tôi đâu, ngoài một người lúc này tôi mới biết, đó chính là mẹ của tôi. Mẹ tôi rất thương tôi, bà đã bí mật tặng quà cho tôi đúng vào ngày sinh. Tôi đi hỏi tất cả mọi người, nhưng không ai nhận, kể cả cô Homer, bà Nanny… Ngày sinh của tôi vẫn có quà đều đặn của một người bí ẩn. Cho tới khi mẹ tôi chết, gói quà sinh nhật bí mật cũng biến mất. Vậy là tôi có thể khẳng định, người bí ẩn ấy chính là mẹ của tôi. Tôi thương mẹ quá, tôi chạy ra mộ mẹ khóc sướt mướt. Sau khi mẹ tôi chết, tôi càng trở nên tồi tệ hơn. Tôi gây ra nhiều chuyện khủng khiếp, giống như chuyện tôi ném thuốc nhuộm tóc của cô Homer xuống đất, khi mà cô đang giấu không cho ai biết cô đã dùng nó.”
Chao ôi, cô bé “S.K” thật ngây thơ, tội nghiệp. Những gì tốt đẹp phía trước đang chờ đợi cô? – Tôi thầm kêu lên. Tôi muốn biết về cô nhiều hơn, nhưng trang giấy cuối cùng người ta thường bỏ trống cô cũng viết hết cả rồi. Cô còn viết tràn cả ra bìa: “Tôi căm ghét số học”…
Tôi cầm mái chèo, Jago ngồi đối diện với tôi ở trong thuyền. Chúng tôi chèo thuyền tới một hòn đảo, khu bảo tồn chim. Theo lời anh chỉ dẫn, đây là một hòn đảo không xa Đảo Kellaway là mấy, rất thuận lợi cho việc luyện tập bơi thuyền.
Biển nơi này đẹp tuyện vời, nước xanh biếc trong veo, phẳng lặng như mặt hồ. Ngoài xa biển gợn sóng lăn tăn, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tôi say đắm thả hồn vào trong cảnh đẹp thanh bình…
– Đây là lúc thời tiết đẹp nhất trong năm, trước khi gió tháng mười thổi tới. – Jago nói.
– Chúng có dữ dội lắm không? – Tôi hỏi.
– Có thể lắm chứ. Nhưng không phải tất cả, chỉ trong ngày thời tiết xấu nó bất ngờ lồng lộn… Ồ, cô chèo thuyền tốt lắm, Ellen. Trông cô giống như một thuỷ thủ thực thụ.
– Nếu tôi ở lại đây trong một thời gian thì tôi cũng học được khá nhiều điều bổ ích đấy.
– Ellen thân mến, tôi hy vọng cô ở lại đây mãi mãi… – Anh bối rối nhìn tôi nói – Ellen, đừng trả lời, không vội. Cô là con người rất thích hợp với cuộc sống trên đảo. Cô đang bắt đầu yêu nó, cô có thừa nhận vậy không?
– Vâng, tôi đã tìm thấy sự thú vị ở nó. Điều đó quá rõ ràng, đâu cần tôi phải nói ra.
– Đúng vậy, tôi thật hài lòng. Cô đúng là một Kellaway.
– Kellaway, là xứ sở mà tổ tiên chúng ta đã tạo dựng lên. Thật đáng tiếc. Thật đáng tiếc, cả một thời gian dài, tôi phải sống lay lắt trong nhà của dì Agatha.
– Ellen, đừng có buồn, thời gian còn rất nhiều ở phía trước, – anh chân thành nói.
Tôi im lặng tập trung vào việc chèo thuyền. Đảo Chim đã hiện ra trước mặt, một mỏm xanh rì nổi lên giữa đại dương bao la…
– Hãy đưa thuyền vào bờ, – Jago nói.
Tôi đã quá tự tin vào khả năng của mình, nhưng thật ra với Jago tôi chỉ là một đứa trẻ khờ khạo đến tức cười. Anh đã giúp tôi neo thuyền vào bờ, cột chặt nó lại. Chúng tôi bắt đầu nhảy lên bờ, leo lên một cái dốc nghiêng thoai thoải để tới một vùng đất bằng phẳng trên cao. Đó là một bãi toàn là chim, chim vây xung quanh chúng tôi, hầu hết là Mòng Biển, chúng đang kêu la inh ỏi, vang cả một vùng.
Jago đưa hai cái túi căng phồng đựng thức ăn vụn ra, chúng tôi bốc thức ăn ném cho chúng.
– Khi tới đây, tôi luôn phải mang theo túi thức ăn này, – anh giải thích – đây cũng là sự tạ lỗi với Đảo, cũng là việc bồi thường cho đàn chim… của các vị khách không mời mà đến.
– Anh cho rằng, chúng không mến khách à?
– Hẳn rồi… Hãy nhìn đàn quạ chân đỏ kia mà xem, chúng hẳn có tới hàng trăm con. Sẽ có dịp chúng ta còn được thấy cả chim báo bão nữa. Những con chim mẹ tới đây để đẻ trứng, đẻ xong chúng lại bay đi ngay. Có lần tôi đã được nhìn thấy chúng.
– Chính khi đó anh mới tìm thấy điều thú vị?…
– Bất kỳ lúc nào tôi cũng tìm thấy điều thú vị nếu tôi muốn, Ellen.
– Tôi cũng nghĩ vậy.
Anh quàng tay qua người tôi, giúp tôi lên dốc. Người tôi như được nhấc bỗng lên, dó là điều anh mong muốn – một cơ hội gần gũi tôi.
– Ellen, cô đã hấp thu kiểu sống của dân đảo rồi đấy. Dĩ nhiên, đến một ngày nào đó, cô không còn thiết tha vào đất liền nữa, cho dù Lãnh địa Hydrock có tuyệt vời như thế nào. Ellen, tôi xin cô đừng có tới đó nữa. Với Gwennol, thì nó đã là cơm ăn nước uống hàng ngày không thể thiếu được… một sự gắn bó lãng mạn. Gwennoll là một cô bé ngây thơ, đáng thương… nếu không lấy được Michael Hydrock cô bé sẽ chết mất.
– Tại sao?
– Bởi dư luận độc ác của xã hội, bởi sự tưởng tượng rắc rối của con người, đã làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Trong cuộc sống, trong công việc và trong nhiều cái khác nữa… Hôn nhân và mê tín đã ăn sâu vào tiềm thức của con người qua nhiều thế hệ, không dễ gì xoá bỏ ngay được.
Tôi im lặng suy ngẫm.
– Anh nói – hãy ngồi xuống đây, Ellen. – Anh trải tấm khăn ra bãi cỏ, chúng tôi cùng ngồi xuống, nhìn ra biển, nhìn về đảo chính… Kellaway phơn phớt một màu xanh, bãi cát dài thoai thoải ôm lấy đảo, các mái nhà thấp thoáng ánh màu cam phơi mình dưới nắng. Hôm nay trời trong xanh không một gợn mây. Đảo Đá Xanh càng xanh thẫm giống như vương niện của Kellaway vậy. Tôi ước ao có một ngôi nhà ở trên đó để mọi người phải chiêm ngưỡng thán phục.
Tôi chợt nhớ ra, đọt ngột hỏi – Anh hãy nói cho tôi biết “S.K” là ai thế?
Jago nhíu mày suy nghĩ – ai nhỉ…?
“S.K” là tên người được viết tắt ở trong tủ. Tôi nghĩ, đó chính là người xưa kia đã từng sống ở phòng mà tôi đang ở.
Jago suy nghĩ một hồi lâu… bỗng anh chợt nhớ ra, bật cười ầm ĩ… Anh nói: – Ôi, cô đã nhắc tới Silvia.
– Silvia? Silvia Kellaway ư?
– Đúng vậy, cô ta là chị em cùng cha khác mẹ với cô.
Rốt cuộc bé Bi chính là tôi. Ôi, anh có biết tôi đã tìm thấy quyển sổ ghi chép của chị Silvia ở trong ngăn kéo tủ. Chị ấy viết về gia đình… về dì ghẻ và về bé Bi. Thật kỳ diệu biết bao! Ôi, chị của tôi.
Tôi nói – chúng tôi có chung một người cha, người dì ghẻ mà chị ấy nói tới chính là mẹ của tôi.
– Silvia thật đáng thương, cuộc đời của cô ấy là một bi kịch… Jago ngậm ngùi nói.
– Vậy là… Silvia đã chết?
– Hình như đó là một định mệnh, cô ta đã bị chết đuối.
– Định mệnh ư?
– Thuyền bè đã không tìm thấy xác cô trôi dạt ở đâu… Silvia đã biến mất.
– Đáng tiếc biết bao! Khi đó chị Silvia bao nhiêu tuổi?
– Điều đó xảy ra… Bấy giờ, cô ấy khoảng… hai mươi.
– Chị Silvia đã sống ở trong lâu đài… ở trong phòng tôi đang ở.
– Đúng vậy, cô ấy là một cô gái khó hiểu. Không ai biết được tại sao cô ta bơi thuyền trong đêm như vậy? Không biết cái gì đã xảy ra với cô?… Có lẽ, đó là một hành động điên rồ, cô ấy đã mất trí.
– Anh nói chị Silvia bị… điên?
– Ôi, không đó chỉ là một sự mất thăng bằng, một sự quẫn trí tức thời. Những ngày tháng gần đó, cô ấy rất dễ ưa, nhưng đột nhiên cô ấy trở nên cáu bẳn. Cô ta trông rất lạ. Tôi đã cố tìm hiểu giúp đỡ cô ấy…
– Hãy kể tất cả cho tôi nghe đi. Đã từ lâu tôi không được nghe một chuyện gì về gia đình của tôi.
– Chuyện cũng không nhiều lắm. Cha của cô cưới vợ hai. Người vợ cả là bà Effie sinh ra Silvia, bà Effie và cha của cô luôn xung khắc với nhau, họ cãi nhau dữ dội như cơm bữa. Cha của cô vốn là người khó tính, ông chẳng có ngó ngàng gì tới Silvia. Có lẽ ông không yêu mến cô bởi cô không phải là một cậu con trai. Tôi không biết có chắc thế không. Trong bất kỳ lúc nào, ông cũng dành một chút thời gian cho con cái, nhưng ông không thể nào chịu nổi khi nhìn thấy Silvia.
– Ôi, Silvia thật đáng thương! Có thể chị ấy đã biết điều đó và chính điều ấy đã làm cho chị trở nên bất hạnh. Chị ấy bị quẫn trí… điều ấy không có gì đáng phải ngạc nhiên cả.
– Sau khi bà Effie chết vì bệnh viêm phổi, khoảng một hoặc hai năm sau cha của cô đi London vì công việc làm ăn và trở về cùng với một người phụ nữ, đó chính là mẹ của cô. Dường như đó cũng là sai lầm của ông. Sau khi cô được sinh ra, họ chỉ hoà thuận được với nhau một thời gian ngắn ngủi. Cuộc sống yên ổn của họ tồn tại không được lâu, họ cãi nhau kịch liệt… Rốt cuộc mẹ của cô đã bỏ ông, mang cô ra đi với một cuộc trốn chạy bất ngờ và lặng lẽ… Gia đình tan vỡ, cha cô cũng không còn thanh thản được nữa.
– Tôi nghĩ, cô bé Silvia đáng thương là người bất hạnh nhất.
– Tôi mong sao chúng ta biết được tại sao cô ấy lại ra đi? Tại sao cô ấy không để lại một dấu vết gì?
– Con thuyền của chị ấy trôi dạt… trở về trống rỗng, thì đó không phải là bằng chứng sao?
– Về cái chết của Silvia, thật ra cũng chỉ là dựa trên sự phán đoán của mọi người ở xung quanh nơi xảy ra tai nạn. Họ chỉ suy diễn từ hiện tượng đã rồi cùng với sự mê tín… Họ nói, cô ta bị bắt bởi “Tí Hon” người có sức mạnh siêu phàm. Cô ta luôn “điên dại”, bởi cô ta chính là người của “Tí Hon” nên họ bắt cô đem về nơi cội nguồn cô đã sinh ra… Một số người còn nói, vì bất mãn với số phận nên cô yêu cầu con Quỷ tới đưa cô đi… Ellen, cô cũng đã biết con Quỷ là một truyền thuyết ác ý về gia đình chúng ta rồi đấy.
– Vâng, tôi đã được anh kể cho nghe.
– Đúng vậy, rồi cô sẽ được nghe người ta kể nhiều điều rùng rợn hơn – có những đêm hoang vu biển động dữ dội, có tiếng kêu của Silvia hoà lẫn với tiếng gió rít và tiếng sóng vỗ. Một số người hầu còn cho rằng cô ta hay lảng vảng xung quanh lâu đài.
– Anh có tin, cô ta cũng lảng vảng… cả ở trong phòng của tôi chứ?
Anh bật cười, nói: – Tôi tin rằng cô không khiếp sợ vì những điều nhảm nhí đó. Ellen thân mến, nếu cần chúng tôi sẽ đổi phòng cho cô.
– Không, tôi không muốn như vậy. Ngược lại, tôi thích được gặp chị Silvia… Tôi sẽ đón tiếp chị, nếu chị lai vãng tới phòng tôi. Tôi sẽ kết bạn với chị. Trong thời niên thiếu tôi đã có tình cảm chị em thân thiết với Esmeralda.Tôi mong ước, bây giờ cũng có một tình cảm như thế với chị Silva ở lâu đài này.
Anh tựa vai vào tôi, vuốt ve mơn trớn tay tôi.
Một con mongd đực kêu rít,giễu cợt.Jago giả đò không thèm để ý.Con mòng được thể càng lớn tiếng rít to hơn.
Chúng tôi ngồi im bên nhau.Tôi miên man suy nghĩ về chị Silva, khi chị phải sống đơn độc ở lâu đài Kellaway, còn tôi sống như một người thừa kế ở nhà dì Agatha.Từ quyển sổ ghi chép của chị, tôi đã hình dung ra cuộc sống của chị:một đứa trẻ bị ruồng bỏ cô đơn và buồn tủi…Không có ai hiểu nỗi thống khổ đó bằng tôi.Nhưng dù sao tôi cũng may mắn hơn, khi bên tôi luôn có Esmeralda một người em, một người bạn gái thân thiết nhu mì biết nhường nhịn…Chị Silva thật đơn độc cô quạnh, không tình thương, không bạn bè chia sẻ.Tôi nghĩ mẹ tôi đã đối xử tốt với chị nhưng bà đã bỏ chi ra đi ngay khi tôi mới lên ba.Silva không chịu nổi cuộc sống đơn độc, chị đã sớm từ giã cuộc đời, ra đi vào lứa tuổi đẹp nhất…tuổi hai mươi.
Jago đã bị vây quanh, bởi đàn chim mà anh đang ném thức ăn cho chúng.Tôi cùng anh chia sẻ niềm vui ném thức ăn…lũ chim quay ra sà xuống vây ngay lấy tôi.Có lẽ cuộc sống thanh bình thật sự được biểu đạt bằng sự hòa hợp giữa con người và chim muông.
– Chúng thật đẹp phải không? – Jago nói – Ellen có biết chúng nhỏ bé thế nào không?…Con lớn nhất cũng chỉ nặng có vài aoxơ.Cô có thích bay như chúng không, Ellen?
– Sẽ thú vị biết bao khi được bay như thế.Tiếng kêu của chúng sao mà tha thiết vậy?
Chúng tôi đang say sưa vui đùa với chúng, bất chợ tôi phát hiện ra có một bóng người đàn ông đang leo lên dốc, tiến về phía chúng tôi.Jago cũng vừa nhìn thấy.Anh lên tiếng – sao, có phải ông James Monton không?…Ô, đúng rồi!Chào ông Manton!Ông đang làm việc ở đây à?
Chúng tôi đứng lên, bước tới gần ông Maton.Jago nói tiếp – Ellen, tôi xin giới thiệu đây là ông Manton.Ồ, còn đây là cô Ellen người mà tôi bảo trợ.
Tôi nhìn ông Manton nói – Ông là họa sĩ/
Ông ngạc nhiên, gật đầu bởi không ngờ tôi lại biết công việc của ông.
– Tôi rất vui được gặp cô – Ông nói – tôi vừa mới bơi thuyền tới đây để vẽ tranh.
– Ông vẽ đảo của chúng ta chứ,ông Manton? – Jago nói.
– Đúng, nhưng phải vẽ cả chim nữa.Đây là hình ảnh đặc trưng nhất của đảo Kellaway.Ánh sáng ngày hôm nay thật đẹp, màu sắc của biển mới tuyệt làm sao.
Chúng tôi gật đầu, thừa nhận, biển hôm nay đẹp hơn rất nhiều.
– Nắm bắt được nó là một điều khó – Ông họa sĩ nói – nhưng để thể hiện nó lại càng khó hơn, tôi đang cố thử xem sao.Tôi hi vọng cuộc viếng thăm của cô thật vui vẻ, cô Kellaway.
– Cám ơn ông Manton, tôi cũng đang đi tìm sự quyến rũ của nó.
Ông ngắm nhìn đàn chim đang bay xa dần.Sau đó ông nói:Chào tạm biệt! – và quay trở lại con đường mà ông vừa leo lên.
Tôi hỏi Jago: – Bây giờ ông ta sống có một mình ở trên Hòn Đá Xanh, phải không?
– Đúng, ông đã sống yên ổn nhiều năm ở đó, anh nói – Ông vẽ rất nhiều về biển và chim. Ông yêu thích công việc của mình. Có lẽ, chính vì thế mà ông thích sống ở đây.Thi thoảng ông cũng đi xa đến London để bán tranh.
– Ông không tới đảo Kellaway, kể từ ngày cãi nhau với cha của cô.Chúng tôi chỉ chào hỏi xã giao khi gặp mặt nhau.Ồ bây giờ đã tới lúc chúng ta chào tạm biệt nơi đây.Liệu cô có đủ sức để chèo thuyền về không?
– Tôi không thấy mệt chút nào, Jago.
Anh vươn vai đứng dậy ném hết những thức ăn cho lũ chim. Tôi cuộn tấm mền lại, cùng anh đi xuống chỗ neo thuyền.
Jago cúi người tháo dây neo, giữ thuyền lại và nói – Hãy nhảy xuống thuyền đi,Ellen, tôi giữ cho.
Tôi nhảy xuống thuyền và cầm lấy mái chèo.
– vậy là cô không vần phải tập nữa, cô đã là một tay chèo cứng rồi đấy. – anh nói.
…Chúng tôi đã cặp bến, thủy chiều dâng cao đưa thuyền cào sát bờ.Jago nói – Trước khi chúng ta về nhà, tôi muốn đưa cô tới gặp bà Tassie, một bà già thông thái trên đảo.
– Một phù thủy?
– Bà ta bói không đến nỗi tồi…rồi bà ta sẽ nói cho cô biết về tương lai.Cô có thích không?
Tôi gật đầu đồng ý.
Chúng tôi đi vào con đường mòn dẫn tới ngôi nhà tranh nhỏ nằm giữa một mảnh vườn trồng các loại thảo dược: mùi tây, nhân sâm, hồng thảo…và cả nhiều thứ tôi không biết, nhìn rất lạ.Chúng tôi vừa vào đến cửa, ngay lập tức một bà già xuất hiện.
– Xin chào Jago – bà già lên tiếng.
– Chào bà Tasse – Jago đáp lại – Tôi đưa người bảo trợ đến gặp bà.Đây là cô Ellen Kellaway.
– Xin chào tiểu thư – bà chào tôi.Tôi chào lại bà và chăm chú ngắm nhìn: Bà, một khuôn mặt già nua má hóp, nổi bật lên đôi mắt đen và sáng, tinh ranh như mắt khỉ.Người bà quấn một cái khăn vắt chéo để hở một bên vai.Một con mèo mun cà cà vào gấu váy của bà, mắt nó sáng xanh ghê rợn, lộ ra sự hoài nghi nhưng không đáng lo ngại.
Chúng tôi bước vào nhà, một gian nhà chật chội hắc mùi thảo mộc khô.Giữa nhà đặt cái lò sưởi nhỏ chỉ đủ đặt cái ông khói và một cái giỏ nhỏ mà con mèo mun đã nhảy vào nằm lọt thỏm trong đó, thò cái đầu ra ngó nghiêng nhìn chúng tôi.Tôi phải chú ý cúi khom người để khỏi đụng vào nồi niêu, soong chảo,lỉnh kỉnh để trên một cái bàn.Các túm thảo mộc treo tứ tung trên cột, trên xà…
– Ông đã đưa tiểu thư trẻ đẹp này đến thăm tôi.Vậy tôi sẽ chờ đợi để phục vụ những gì tiểu thư muốn – bà hài lòng nói.
– Cô ấy đang lo tìm hiểu về đảo, bà Tassie.Cô ấy chưa biết gì nhiều, mong bà chỉ bảo giúp.
– Vậy à.Cả cuộc đời tôi đã sống ở đây.Mẹ tôi lấy chồng, sinh con đẻ cái, làm nên ngôi nhà đêm trăng ở chính nơi này.
– Đó chính là thời kì của người ông vĩ đại của tôi – Jago nói.
Bà gật đầu, và nói – Ông là thủ lĩnh khai phá nơi này.Ông rất nghiêm khắc, gia đình Kellaway sẽ không chấp nhận bất kì một đứa con nào bỏ chạy.
– Chính điều đó đã làm chúng tôi gắn bó bên nhau – Jago nói – Bf xem bà nói cho tiểu thư Ellen đi chứ.
Bà cầm bàn tay tôi xòe ngửa ra nói – hãy để ta xem, tiểu thư đáng yêu.Nhưng bà không nhìn vào bàn tay mà chăm chú nhìn vào mặt tôi.Bà nói tiếp – ôi, thần linh đã mách bảo cho tôi nhìn thấy rất nhiều điều ở cô tốt cũng có mà xấu cũng có.
Jago yêu cầu: – Đừng có nói chung chung như vậy, xin hãy nói rõ tất cả cho chúng tôi.
– Có một điều cần phải nói nhiều hơn những điều khác, – Jago háo hức nhìn bà nói – Cô đã trải qua một nỗi buồn thê thảm trong cuộc sống vừa qua.Cô đã mất một người gần gũi.Đó là vận đen của cô.Bây giờ cô phải lựa chọn.Có hai con đường đang mở ra trước mắt cô.Cô phải lựa chọn thật chắc chắn, vì chỉ có một con đường đúng duy nhất.
– Tassie có ma lực đặc biệt.bà là một phù thủy cao tay nổi tiếng trên đảo. – jago ca ngợi.
– làm sao tôi biết được con đường nào đúng? – tôi hỏi.
– Cô sẽ được chỉ dẫn, tiểu thư đáng yêu cảu tôi.Con đường ở rất gần cô, tôi sẽ chỉ cho cô.Cô đã trở về nhà, về gia đình của cô, đây chính là nơi thuộc về cô, đó là một việc tốt.
Con mèo mun nhảy ra khỏi gỏi, nó vươn vai dài người, tiến tới cọ chà vào váy của chủ nó.
– Tôi nhìn thấy hạnh phúc đang đến với cô, nếu cô làm đúng.Nhưng tôi cũng nhàn thấy điềm buồn, nếu cô làm không đúng.Số mệnh của cô đang hướng vào con đường đúng nhưng có một chút ít quay vào con đường sai.
– Cô nên chú ý tới lời chỉ dẫn của bà Tassie – Jago nói – tất cả các cô gái trên đảo đều tới xem bà bói, họ nói bà không sai bao giờ.
– Vậy đó.Một tình yêu độc hại, tôi sẽ vạch nó ra cho cô xem:Một gã trai trẻ đã yêu, nhưng cô không muốn.Định mệnh đã định đoạt sẵn tất cả.Tình yêu đích thực sẽ sớm đến với cô.
Jago mỉm cười hài lòng với những gì bà ta nói.
Hãy tiếp tục đi, bà Tassie, – Jago hối thúc.
– Tiểu thư đáng yêu dĩ nhiên cô sẽ lựa chọn đúng con đường đi của cô.Co sẽ sung sướng hạnh phúc, có nhà cửa ổn định vững chắc.Cô có một con trai và một hoặc hai con gái, chúng sẽ mang lại cho cô nhiều niềm vui mãi mãi.Nhưng trước hết, bây giờ cô phải trở về gia đình của cô đã…
– Đấy, cô nghe thấy chưa Ellen – Jago mỉm cười, nói,mắt ngời sáng nhìn tôi.Tôi nghĩ:Anh đã yêu tôi!.Một viễn cảnh hiện ra, bỗng tôi giật mình, bởi nó rất giống với viễn cảnh đã qua, thật khủng khiếp!Tôi biết ngọn lửa hừng hực kia chỉ là một nửa có thật trong người anh, còn một nửa kia của của con người anh là cái khác.Anh còn khá trẻ, mới xấp xỉ ba mươi, tôi ngạc nhiên sao anh vẫn chưa lấy vợ?.Tôi chợt nhận ra nửa con người kia của anh là uy quyền, một cái bóng Carrington đầy quyền thế.
Bà Tassie dường như đã đi tới câu kết luận.Trong lúc đầu tôi lóe ra một đầu mối nghi ngờ:Jago!
Bà bắt đầu chuyển sang nói về về phép thuật, những cái bà đã làm cho các cô trên đảo: – Tôi đãphù phép làm bay các mụn cơm trên da, làm xấu mắt hoặc mũi của họ.Có nhiều người tin bà Tassie hơn cả thầy thuốc.Tôi xem tương lai cho họ cũng vậy.Cụ cố ngoại của tôi đã bị treo cổ và là một phù thủy.Bây giờ chúng tôi không bị ai treo cổ cả.Mọi người đã hiểu rõ chúng tôi hơn.Có loại phù thủy trắng và có loại phù thủy đen.Gia đình Pellar chúng tôi thuộc loại trắng.Đã lâu lắm rồi, có một nàng tiên cá bị mắc cạn, tổ tiên của tôi đã giúp nàng quay trở về biển.Vì thế, nàng đã cho gia đình tôi một đặc ân, khả năng nhìn thấy hậu vận tương lai của mọi người.
– Ellen, nếu cô gặp nàng tiên cá như vậy, hẳn nàng sẽ ban cho cco một đặc ân để có một khả năng gì đó. – Jago giỡn.
– Không,Đây là một sự thật – bà Tassie nói – trong số những đứa con, đứa con thứ bảy bao giờ cũng làm ăn phát đạt hết.Tôi có thể cho cô một câu thần chú để bảo vệ cô tránh khỏi cám dỗ của con quỷ.Vậy hãy tới tôi nhé, nếu một khi cô cảm thấy không yêu trong lòng.
– Đấy còn hơn cả lời mời, Ellen – Jago cười nói – Cô đã được bà Tassie chấp nhận chính thức là một thành viên cảu đảo.
Jago đặt lên bàn mấy đồng tiền, tôi nhìn thấy trong mắt bà Tassie ánh lên sự thèm muốn, bà tuy không nhìn vào tiền, nhưng nhẩm tính giá trị của chúng.
Chúng tôi quay về nhà khi trời đã xế chiều.
– Phải thừa nhận, bà Tassie xem tương lai đúng đấy chứ Ellen? – Jago nói.
– Và dường như vì tôi mà bà được được trả công hậu hĩnh.
Anh nhìn tôi láu lỉnh đáp: – Bà ta cũng xứng đáng được trả như thế,phải không?
– Nếu không nhận được tiền thưởng, tôi nói – họ không thể nói những điều tiên tri lạc quan như thế.Nhưng làm như vậy là xúi dục họ nói…?
– Tôi không nghĩ là bà ta dối trá…Thực tế là cô đang đi tới một sự tốt đẹp.
– Xin anh đừng quên, với tôi, nó đã đi vào dĩ vãng…
– Ellen, cô là một cô gái thông minh, tôi biết điều này từ khi mới gặp cô lần đầu.Bà Tassie màu mè chỉ là sự vui đùa một chút…Thật ra bà cũng đã chiếm được lòng tin của bọn trẻ trên đảo.Họ đã liều lĩnh không sợ gì đêm khuya khoắt, bí mật đến gặp bà, nhận một liều thuốc ái tình để thực thi với người yêu.
– Bà ta thật sự là đứa con thứ bảy trong bảy đứa con phải không?
– Cho nên mới có chuyện tổ tiên của bà gặp nàng tiên cá.Bà già Tassie luôn nói chuyện ngày xửa ngày xưa.
– Và mọi người đều tin bà!
– Có một số người tin đó là những người muốn được nghe bà bói, chấp nhận những điều bà nói.Một số không tin đó là những người tin vào việc làm của họ, dù có thành công hay thất bại họ đều chấp nhận, chỉ dẫn của bà Tassie không có ý nghĩ gì đối với họ.
– Vậy anh có tin vào bà Tassie không? Bà ấy nói về anh như thế nào?
Anh điềm tĩnh nhìn tôi, thẳng thắn nói – Tôi là người tôn trọng quá khứ.Nhưng với hiện tại nếu tôi thích một cái gì, nhất định tôi phải làm bằng được.
– Và nếu anh không làm được thì sao?
– Ellen thân mến, tôi luôn tin vào những gì tôi làm.
Chúng tôi quay trở về với lâu đài.Lòng tôi nặng chĩu những phiền muộn về những gì đã xảy ra trong ngày.Tôi lặng lẽ vào phòng riêng, tự nhủ, sẽ sẵn sàng đón nhận tất cả nếu đó là sự thật.Bóng tối bắt đầu bao phủ, tôi thắp sáng tất cả đèn trong phòng.Bất chợt, tôi thấy linh hồn cảu chị Silva như đang lởn vởn trong ánh đèn le lói hắt trên tường…
– Ôi, chị của tôi – tôi sợ hãi thì thầm.Dường như tôi còn nghe được cả tiếng cười, tiếng cười sặc sụa của Jago.Anh cười tất cả những chuyện bà Tassie nói ra, trong đó có cả những điều mà anh ra lệnh.Phải chăng đó là mánh khóe của anh?.Mánh khóe, anh đã từng áp dụng trong đêm nhạc Carrington, trong biệt thự Finlay Square.Lúc này đây tôi lúng túng như bị mất phương hướng.Với tôi, anh luôn dối lừa để đạt được mục đích.Anh thật khó lường, tôi không sao hiểu nổi.Anh đã không muốn tôi quan hệ với Michael Hydrock, nhưng lại muốn Gwennol với Michael Hydrock.Anh vì Gwennol hay vì lý do nào khác?
Anh đã vui sướng lắng nghe lời bà Tassie, người đã sẵn sàng chiều theo bất kì ý muốn nào của khách hàng, cho dù là chữa trị mụn cơm hay là tết vòng hoa cưới trên đầu cô dâu…
Phải chăng Jago muốn cưới tôi?
Đầu óc tôi có phần bối rối, nhưng trung thực mà nói tôi cũng có phần xúc động vì anh.Liệu tôi có thể hiểu tất cả con người đấy không?
– Silva, tôi thầm gọi – có phải chị đấy không, chị Silva?
Tôi lắng nghe.Im lặng…không một tiếng trả lời, chỉ có tiếng màn cửa lay động nhẹ trong cơn gió thoảng, và tiếng sóng biển ì ầm từ phía xa dội về.
Ngày hôm sau tôi đến tìm Slack.
Trên sân, cậu ta đang đứng nhìn con mòng biển lách chách đĩa cá.
– Nó không có thể bay được, cô Ellen, – Slack kể lể. – Tôi đã tìm thấy nó ở trên vách đá cao, nó nằm co ro trong một cái hốc, sắp chết vì đau đớn và đói.Nó đã bị dính bẫy.Những con chim nhỏ bé này luôn bị đe dọa bởi loài chim đọc ác khác.Nhưng chúng còn bị thương hoặc bị chết đói bởi con người đấy.
Cậu ta thả nhiên ré lên tiếng kêu cứu như mòng biển.Slack nói chuyện với chim…! Dường như cậu biến thành con chim bầu bạn với con cái.Cậu đã chấp nhận tất cả những gì mà cuộc sống đem tới cho cậu.Cậu hài lòng biến mình thành chim với quyền năng nói được tiếng chim mà chúa đã ban tặng.
– May mà cậu tìm thấy nó – tôi nói.
– Ngay lúc đó nó run rẩy sợ hãi, sau đó nó mới bình tĩnh trở lại khi tôi nói chuyện với nó.Lúc đầu tôi thò tay vào bắt, nó dãy dụa vỗ cánh phành phạc, cố chống cự lại.Cho tới khi tôi nói, tôi chỉ là Slack chữa cho nó khỏi bệnh thì nói mới chịu nằm im.Tôi đã chữa cho nó lành vết thương, nó đã có thể bay nhưng tôi không muốn nó bay đi ngay.Tôi muốn nó ăn chậm lại như trước, đừng có mổ lanh chanh như vậy.Bây giờ nó thương Slack lắm, cô có thấy thế không?
– Con chim bồ câu bị thương ở chân thế nào rồi, Slack? – Tôi hỏi.
– Bây giờ nó đã mạnh mẽ, trâng tráo quên mất cái chân đã từng bị đau.
– Và tôi hi vọng cậu đã nhận được một sự đền ơn xứng đáng.
– Tôi không có mong muốn gì nhiều hơn, cô Ellen.Chỉ cần nhìn thấy nó nhanh nhẹn mổ ăn lốp cốp là tôi vui lắm, tôi như nghe thấy nó nói: “Cám ơn, chào Slack hện gặp lại”
– Slack, tôi muốn yêu cầu cậu một việc.Cậu sẽ bơi thuyền cùng với tôi nhé?Tôi chỉ muốn cậu ngồi bên tôi.Bởi vì tôi đã hứa với ông Jago, tôi không tập bơi thuyền một mình.
Cậu vui vẻ nhận lời, tỏ ra thích thú trước sự tin cậy của tôi.
Tôi chèo thuyền quanh đảo.
– Cô cầm chèo đúng rồi đó, cô Ellen – Cậu nói – nếu cô nhận biết được đá ngầm.Vậy là cô đã có đủ khả năng để bơi ra xa, tuy nhiên cô còn phải phong những nguy hiểm bất ngờ xảy ra trên biển.Biển có thể đang êm ả như khăn lụa, nhưng năm mới mười phút sau đó có thể nhăn nhúm như một cái khăn lau nhàu nát.Lúc đó cô phải thật tỉnh táo, nhìn thẳng hướng đất liền tiến tới bơi thật nhanh.Tuy nhiên bơi xung quanh đảo thì rễ dàng hơn.Ở đây có nhiều vịnh nhỏ, cô có thể vào bờ nếu cô thích.
– Cậu có nghe kể về chuyện người chết đuối chưa?
Tôi chăm chú dõi theo nét mặt cảu cậu, cậu chớp chớp mắt suy nghĩ.
– Có, tôi có nghe.
– Về chị Silva, người chị cùng cha khác mẹ với tôi, chị bị chết đuối phải không?
Cậu im lặng.
Tôi hỏi tiếp – cậu biết chị ấy chứ Slack?
– Vâng tôi biết cô ấy.
– Tôi chỉ mới được nghe về chi Silva mà chưa hề biết chị thế nào.Khi tôi lên ba tuổi thì tôi đã đi khỏi nơi này, lúc đó chị Silva chừng mười ba tuổi.Ôi, tôi thương chị biết nhường nào!Hãy cho tôi nghe những gì cậu biết về chị ấy đi Slack.
– Cô Silva giống như một con chim bị nhốt ở trong lồng, – Slack nói.
Chao ôi, vậy chị Silva đã bị giam giữ như con chim, tôi thầm nghĩ.
– Chị Silva thường tới đây giúp cậu cho chim ăn phải không?. – Tôi hỏi.
Slack mỉm cười, gật đầu – Vâng, cô Silva có tới đây.Bọn chim bồ câu cũng biết cô, chúng đậu lên vai cô, khiến cô hơi e thẹn.Cô thật dịu dàng với chúng.
– Vậy là cậu rất thân với chị Silva, tôi vui vì điều đó.
Bất ngờ, cậu tỏ ra sung sướng, dường như hình ảnh của chị Silva đã khắc sâu vào trong lòng cậu, bỗng hiện về nâng niu vuốt ve com chim yêu thương ở trên tay, trong lúc cậu đang chữa chạy cho nó.
– Chị Silva có kể cho cậu nghe chuyện gì không, Slack?
– Ôi có.Cô Silva luôn nói về chim.
– Ồ, không về chị ấy cơ? Chị ấy có hạnh phúc không?.
– Lúc tôi mải chăm sóc chim, cô Silva nói: “Tôi vào đây được không Slack?Cậu chăm chú làm việc nên tôi không nhìn thấy, tưởng cậu không có ở đây”.Sau đó cô ngước mắt nhìn tôi, gượng gạo cười.
– Chị ấy rất đau khổ đúng không?
Cậu hoảng hốt gật đầu cậu nói: – Vâng, cô Silva thường hay khóc, khóc rất khủng khiếp,tôi chưa thấy ai khóc như cô.Cô vừa cười vừa khóc, cô căm ghét tất cả, cả lâu đài và cả Jago nữa.
– Tại sao chị Sliva lại bơi thuyền ra biển vào lúc đêm tối?Cậu có biết không, Slack?
– Đêm đó bão táp nổi lên dữ dội.
– Tôi biết.Nhưng tại sao chị ấy lại ra đi lúc đó?
Im lặng.Hai môi mím chặt, khiến tôi càng tin là cậu biết lý do tai sao.
– Họ nói chị Silva bị chết đuối phải không – Tôi gặng hỏi lần nữa.
Cậu gật đầu, trong lúc môi vẫn mím chặt…
– Con thuyền của cô ấy đã bị nước cuốn trôi dạt vào bờ – Cậu xúc động, bất ngờ thốt lên.
– Có lẽ chị Silva đã qua mệt mỏi, không chịu nổi cuộc sống đau khổ trong lâu đài, chị đã phải bỏ chạy.Bỏ chạy, để dũ bỏ nỗi bất hạnh, cậu có biết khonoh Slack?
Cậu gật đầu nói: – Có thể nói rằng cô Silva đã biến mất.
– Mãi mãi biến vào biển xanh sâu thẳm…
– Trong đêm bão, cô Silva bỏ đi khỏi lâu đài.Tôi còn nhớ, lúc ấy sấm chớp nổi lên dữ dội, họ nói ông trời nổi giận.Cô nghĩ thế nào cô Ellen?
– Không, không thể như vậy được.Nếu chị Silva ra đi đúng vào lúc đó hẳn đã cân nhắc kĩ để đi tới cái chết, không có con thuyền nào thoát khỏi cơn bão dữ dội như thế.
– Với con thuyền đi trên biển, không có gì là chắc chắn cả, cô Ellen.
– Nhưng cả một ngày họ đã mò vớt, tìm kiếm mà không tìm thấy chị ấy.
– Ôi cô Silva không còn ở đây nữa, cầu nguyện chúa phù hộ cho cô hạnh phúc với cuộc sống mới.Đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm phải không cô Ellen?
– Một số người hầu nói rằng hồn mà của cô vẫn còn trong lâu đài?
– Ôi, ra vậy.
– Cậu có tin vào điều đó không?
– Tôi nghĩ cô ấy vẫn ở bên chúng ta.
– Vậy, cậu có tin hồn ma của con người sẽ xuất hiện nơi họ bị oan ức đau khổ hay không?
– Tôi không biết, cô Ellen.
Mặt cậu tái nhợt, mắt chớp chớp.Vậy là cậu biết nhiều hơn thế, cậu không thể nói ra cho tôi biết, vì tôi chưa chiếm được lòng tin cậy ở cậu.
Có lẽ, rồi có lúc Slack sẽ nói. Hãy kiên nhẫn chờ đợi, tôi thầm nhủ, mặc dù trong lòng tôi luôn bị sự tò mò thôi thúc.