Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Cô Gái Mất Tích

Chương 7: Đêm của Nick Dunne

Tác giả: Gillian Flynn
Chọn tập

Boney và Gilpin chuyển địa điểm cuộc thẩm vấn của chúng tôi tới sở cảnh sát, nơi trông giống như một ngân hàng cộng đồng làm ăn thua lỗ. Bọn họ để mặc tôi một mình suốt bốn mươi phút trong một căn phòng nhỏ. Tôi thì quyết chí chẳng động cựa gì. Theo một cách nào đó, muốn giả vờ như đang điềm tĩnh thì phải điềm tĩnh. Tôi nhoài người ra trên bàn, tựa cằm lên cánh tay mình. Chờ đợi.

“Anh có muốn gọi điện cho bố mẹ Amy không?” Boney hỏi.

“Tôi không muốn làm họ phát hoảng.” Tôi nói. “Nếu một giờ nữa mà chúng ta không có tin tức gì của cô ấy, tôi sẽ báo cho họ.”

Đã ba lần chúng tôi trao đổi về vấn đề này rồi.

Rốt cuộc mấy tay cớm cũng đi vào và ngồi xuống bàn đối diện với tôi. Tôi cố nín để không phá lên cười bởi cảnh tượng này y chang như trong một bộ phim truyền hình. Cũng căn phòng như thế này, tôi đã từng thấy khi lướt trên kênh truyền hình cáp lúc tối khuya trong suốt mười năm qua, cùng với hai tay cớm – trông mệt mỏi và dữ dằn – diễn xuất như những ngôi sao thực thụ. Hoàn toàn giả tạo. Một sở cảnh sát ở Epcot. Boney thậm chí còn cầm một cốc cà phê giấy và một túi hồ sơ bằng bìa manila trông như thể một thứ đạo cụ. Đạo cụ của cảnh sát. Tôi thấy phấn khích, cảm giác như chúng tôi giống mấy kẻ giả đò: Nào, hãy cùng chơi trò Cô vợ mất tích!

“Anh ổn chứ Nick?” Boney hỏi.

“Tôi ổn, sao vậy?”

“Anh đang cười.”

Sự phấn khích bỗng trôi tuột xuống dưới sàn nhà. “Tôi xin lỗi, chỉ là…”

“Tôi hiểu.” Boney vừa nói vừa nhìn tôi như thể đang vỗ về. “Chuyện thật kỳ lạ, tôi hiểu.” Cô ta hắng giọng. “Trước hết chúng tôi muốn chắc rằng anh cảm thấy thoải mái khi ở đây. Nếu anh có nhu cầu gì thì cứ cho chúng tôi biết. Hiện giờ anh càng cung cấp nhiều thông tin cho chúng tôi sẽ càng thuận lợi, nhưng anh cũng có thể rời khỏi đây bất kỳ lúc nào, không sao cả.”

“Bất cứ điều gì các vị cần.”

“Được, tốt lắm, cảm ơn anh.” Cô ta nói. “Thế này. Trước hết tôi muốn loại trừ những thứ phiền hà ra trước đã. Những chuyện tào lao. Nếu vợ anh thực sự bị bắt cóc – khả năng này chúng ta vẫn chưa rõ, nhưng nếu điều đó xảy ra thật – thì chúng tôi muốn tóm cổ tên đó, và một khi đã bắt được hắn, chúng tôi muốn buộc tội hắn, rất nặng. Sẽ không có lối thoát. Hết đường ngọ nguậy.”

“Đúng vậy.”

“Cho nên chúng tôi muốn loại trừ anh ra một cách nhanh gọn và dễ dàng. Để tên đó không thể quay về và bảo là chúng tôi đã không loại trừ anh, anh hiểu ý tôi chứ?”

Tôi gật đầu một cách máy móc. Tôi không thực sự hiểu ý cô ta cho lắm, nhưng tôi muốn tỏ ra hợp tác hết sức có thể. “Bất cứ điều gì các vị cần.”

“Chúng tôi không muốn làm anh phát hoảng lên đâu.” Gilpin chen vào. “Chúng tôi chỉ muốn thực hiện tất cả những bước cơ bản.”

“Tốt thôi.” Lúc nào cũng là anh chồng, tôi nghĩ. Mọi người đều biết lúc nào cũng là anh chồng, vậy sao họ không thể nói thẳng ra rằng: Chúng tôi nghi ngờ anh bởi vì anh là chồng, và kẻ đó luôn chính là người chồng. Cứ xem Dateline thì biết.

“Được rồi, tốt lắm, Nick.” Boney nói. “Trước tiên chúng tôi sẽ lấy mẫu gạc ở phần bên trong má của anh để có thể loại trừ tất cả các mẫu ADN không phải là của anh trong ngôi nhà. Việc đó không sao chứ?’

“Chắc chắn rồi.”

“Tôi cũng muốn quét hai bàn tay của anh để kiểm tra dấu tích của vụ nổ súng. Một lần nữa, chỉ để phòng trường hợp…”

“Khoan, khoan, khoan. Có phải các vị đã tìm thấy gì đó khiến các vị nghĩ rằng vợ tôi đã…”

“Không, không, Nick” Gilpin ngắt lời. Anh ta kéo một chiếc ghế về phía bàn và ngồi ngược nó. Tôi tự hỏi liệu các tay cớm có thường ngồi như thế thật không. Hay một diễn viên cự tài nào đó đã làm vậy và tụi cớm bắt đầu bắt chước theo khi xem vì thế trông thật oách?”

“Chỉ là một kỹ thuật nhanh gọn thôi.” Gilpin nói tiếp. “Chúng tôi sẽ cố gắng thực hiện tất cả những bước cơ bản: Kiểm tra tay anh, lấy mẫu bông gạc, và nếu chúng tôi có thể kiểm tra cả xe của anh nữa…”

“Tất nhiên. Như tôi đã nói, bất cứ điều gì các vị cần.”

“Cảm ơn anh, Nick. Tôi thật sự cảm kích vì điều đó. Đôi khi các anh chàng cứ hay làm khó chúng tôi chỉ đơn giản vì họ có thể làm vậy.”

Tôi thì chính xác là tuýp ngược lại. Bố tôi đã nhuốm đẫm tuổi thơ tôi bằng sự buộc tội không thành lời, ông thuộc tuýp người luôn đi quẩn quanh để tìm cớ nổi giận. Điều này khiến Go trở nên đề phòng và hiếm khi nào chịu được sự giận dữ điên khùng vô căn cứ. Nhưng nó lại biến tôi thành một thằng xu nịnh như một phản xạ trước uy quyền. Mẹ tôi, bố tôi, các giáo viên của tôi: Bất cứ điều gì để công việc của thầy/cô/bố/mẹ được thuận lợi ạ. Tôi thèm khát nhận được sự đồng ý. Go đã từng nói với tôi: “Anh quả thực là một kẻ dối trá, lừa gạt và vụng trộm – chết tiệt thật – chỉ để khiến người ta tin rằng anh là người tốt.” Lúc đó chúng tôi đang xếp hàng mua bánh knish ở tiệm Yonal Schimmel, cách căn hộ cũ của Go ở New York không xa – tôi nhớ rõ mọi việc đến mức như vậy – và tôi mất hẳn cảm giác muốn ăn, bởi điều đó hoàn toàn đúng nhưng tôi chưa bao giờ nhận ra cả. Thậm chí khi Go nói như vậy, tôi đã nghĩ: Mình sẽ không bao giờ quên điều này, đây là một trong những giây phút sẽ ghi tạc mãi mãi trong tâm trí mình.

Chúng tôi, tôi và mấy tay cớm, đã có cuộc trò chuyện nho nhỏ về màn pháo hoa ngày 4 tháng 7 và về thời tiết trong lúc họ kiểm tra trên tay tôi có thuốc súng hay không, rồi họ dùng bông thấm chất dịch bên trong má tôi. Tôi làm ra vẻ mọi thứ bình thường như thể đang khám nha khoa vậy.

Khi mọi việc hoàn tất, Boney đặt một cốc cà phê khác lên bàn trước mặt tôi rồi nắm chặt lấy vai tôi nói: “Tôi rất tiếc về thủ tục này. Phần tệ nhất trong công việc của tôi. Anh có nghĩ mình đã sẵn sàng để trả lời một vài câu hỏi ngay bây giờ không? Nó sẽ thực sự giúp ích cho chúng tôi.”

“Vâng, chắc chắn rồi, ta tiến hành thôi.”

Cô ta đặt lên bàn một chiếc máy ghi âm kỹ thuật số nhỏ ngay trước mặt tôi. “Anh không phiền chứ? Nếu ghi âm anh sẽ không phải trả lời đi trả lời lại những câu hỏi giống nhau…” Cô ta muốn ghi âm để trói tôi vào một câu chuyện. Mình nên gọi luật sư, tôi nghĩ, nhưng chỉ những kẻ phạm tội mới cần đến luật sư, thế là tôi gật đầu: Không vấn đề gì.

“Vậy là: Amy.” Boney nói. “Hai người đã sống ở đây được bao lâu rồi?”

“Mới được khoảng hai năm.”

“Và cô ấy là người New York. Ở thành phố.”

“Đúng vậy.”

“Cô ấy có đi làm không?” Gilpin hỏi.

“Không. Trước đây cô ấy từng viết những câu trắc nghiệm tính cách.”

Mấy tay điều tra viên nhìn nhau: Câu trắc nghiệm?

“Cho các tạp chí tuổi mới lớn và các tạp chí phụ nữ.” Tôi nói. “Các anh cũng biết đấy, kiểu như “Bạn có phải tuýp người hay ghen tuông không? Hãy thử làm các trắc nghiệm của chúng tôi và tìm hiểu điều đó! Các anh chàng có cảm thấy bạn đáng sợ hay không? Hãy thử làm các trắc nghiệm của chúng tôi đi và bạn sẽ biết!’”

“Rất thú vị, tôi thích mấy cái đó lắm.” Boney nói. “Tôi không biết đó thực sự lại là một công việc đấy. Viết những câu trắc nghiệm như thế. Giống như… một nghề.”

“Giờ thì nó không còn là một nghề nữa. Không còn như thế nữa. Trên Internet đầy ắp những câu trắc nghiệm miễn phí. Những gì Amy viết thì thông thái hơn – cô ấy đã có bằng thạc sĩ ngành tâm lý học – vẫn đang có bằng thạc sĩ tâm lý học.” Tôi cười ha hả một cách không thoải mái bởi câu nói hớ của mình. “Nhưng thông thái đâu có bằng được miễn phí.”

“Sau đó thì thế nào?”

Tôi nhún vai. “Sau đó chúng tôi chuyển về đây. Hiện giờ cô ấy chỉ ở nhà thôi.”

“Ồ! Vậy là hai người đã có con rồi?” Boney cất giọng vui vẻ, như thể cô ta vừa phát hiện được một tin tốt lành.

“Vẫn chưa.”

“Ồ. Vậy thì hầu hết thời gian cô ấy làm việc gì?”

Tôi cũng có cùng thắc mắc đó. Amy đã từng là một người phụ nữ lúc nào cũng làm tất cả mọi việc, nhưng mỗi việc một chút. Khi chúng tôi dọn về ở cùng nhau, cô ấy đã rất quyết tâm học nấu ăn kiểu Pháp, phô diễn các kỹ năng dùng dao siêu tốc và trổ tài nấu món bò hầm rượu vang đỏ rất hào hứng. Sinh nhật lần thứ 34 của cô ấy chúng tôi bay đi Barcelona, và cô ấy đã làm tôi choáng váng khi phát ra những âm rung của tiếng Tây Ban Nha qua các cuộc hội thoại, nhờ đã bí mật học trước đó hàng tháng trời. Vợ tôi có một bộ não thông minh, nhạy bén và ham hiểu biết. Tuy nhiên những ám ảnh của cô ấy có khuynh hướng bị kích động bởi sự ganh đua: Cô ấy cần phải làm lóa mắt những gã đàn ông và khiến đám đàn bà phải ghen tỵ: Tất nhiên, Amy có thể nấu những món ăn kiểu Pháp và nói trôi chảy tiếng Tây Ban Nha và làm vườn và đan lát và chạy đường dài và giao dịch chứng khoán trong ngày và lái máy bay và trông cô ấy lúc nào cũng như một người mẫu đang ở trên sàn diễn khi làm những việc đó. Cô ấy nhất thiết phải là một Amy Tuyệt vời, luôn luôn như vậy. Ở vùng Missouri này, phụ nữ thường đi chợ ở Target và họ cần mẫn nấu những món ăn dễ tiêu hóa. Họ cười vì vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi mà họ còn nhớ được từ thời trung học. Họ chẳng cần phải ganh đua. Những thành quả không ngừng của Amy tuy được tán thưởng thật lòng nhưng có lẽ cũng có cả một chút thương hại nữa. Điều đó nói lên rằng kết cục tồi tệ nhất có thể xảy đến với cô vợ ưa đua tranh của tôi chính là: Một thị trấn của những kẻ bằng lòng mình thua cuộc.

“Cô ấy có rất nhiều sở thích.” Tôi nói.

“Có điều gì khiến anh phải lo lắng không?” Boney hỏi với vẻ quan ngại. “Anh không cảm thấy có vấn đề gì với chất gây nghiện hay rượu bia ư? Tôi không định nói xấu về vợ anh, nhưng có rất nhiều phụ nữ nội trợ, nhiều hơn anh nghĩ, họ sống qua ngày theo cách đó. Mỗi ngày đều dài lê thê khi anh chỉ có một mình. Và nếu từ rượu bia chuyển sang dùng chất gây nghiện – tôi chưa dùng đến heroin mà mới chỉ thuốc giảm đau theo đơn thôi – thì, hiện tại có một vài kẻ khá đáng ngại đang làm ăn quanh đây.”

“Nạn mua bán chất gây nghiện diễn biến ngày một xấu đi.” Gilpin nói. “Chúng tôi đã cắt giảm cả đám nhân viên cảnh sát – hẳn một phần năm lực lượng, và chúng tôi đang gặp khó khăn. Ý tôi là, tình hình khá tệ, chúng tôi bị quá tải rồi.”

“Tháng trước có một bà nội trợ, một quý bà dễ mến, đã đi đời mất cái răng vì dùng Oxycontin.” Boney bổ sung.

“Không đâu. Amy có thể uống rượu hay gì đó, nhưng không hề có ma túy.”

Boney nhìn tôi chằm chằm, chắc hẳn đây không phải câu trả lời mà cô ta mong đợi. “Cô ấy có bạn bè thân thiết ở đây chứ? Chúng tôi muốn gọi cho vài người trong số họ, chỉ để chắc chắn thôi. Không có ý xúc phạm gì đâu. Nhưng đôi khi hễ dính líu đến nghiện ngập ma túy thì ông chồng lại là người cuối cùng được biết đấy. Người ta thường thấy hổ thẹn, đặc biệt là phụ nữ.”

Bạn bè. Hồi còn ở New York, Amy kết bạn và đá bạn hàng tuần, họ chỉ giống như những dự án của cô ấy. Cô ấy có thể phấn khích tột độ vì họ: Paula là người dạy hát cho cô ấy và có giọng nói đong đưa rất dễ thương. (Amy đã học tại một trường nội trú ở Massachusetts, tôi rất thích mỗi khi cô ấy dùng kiểu diễn đạt vùng New England đó với tôi: đong đưa rất dễ thương), và Jessie, bạn cùng khóa học thiết kế thời trang. Nhưng chỉ sau đó một tháng, khi tôi hỏi về Jessie hay Paula, Amy nhìn tôi như thể tôi đang bịa chuyện vậy.

Rồi có cả đám đàn ông luôn chạy rầm rầm theo sau Amy, sẵn lòng làm đủ thứ việc của một người đàn ông trong nhà mà đức lang quân của cô ấy không làm được. Sửa chân ghế, kiếm tìm loại trà Á Đông nhập khẩu mà cô ấy ưa thích. Đám đàn ông mà cô ấy thề rằng bọn họ chỉ là bạn, chỉ là những người bạn tốt mà thôi. Amy giữ họ ở khoảng cách xa đúng bằng một cánh tay – đủ xa để tôi không cảm thấy quá khó chịu, đủ gần để cô ấy chỉ cần búng ngón tay là bọn họ sẽ tuân lệnh ngay.

Còn ở Missouri… lạy Chúa, tôi thực sự không biết nữa. Ý nghĩ này chỉ vừa mới xuất hiện trong đầu tôi. Mày quả là một thằng khốn, tôi nghĩ. Chúng tôi ở đây đã hai năm rồi, và sau thời kỳ đầu náo nhiệt với việc gặp gỡ và chào hỏi, những tháng ngày đầu tiên bận rộn đó, Amy chẳng thường xuyên gặp ai nữa. Cô ấy có mẹ tôi, giờ thì bà cũng mất rồi, và tôi – cách thức chuyện trò chủ yếu của chúng tôi là công kích và phản bác nhau. Khi chúng tôi về nhà được một năm, tôi hỏi cô ấy một cách lịch thiệp giả tạo rằng: “Vậy bà thấy thích Bắc Carthage nhiều đến thế nào, thưa bà Dunne?”. “Ý anh là một Carthage khác, phải vậy không?” Cô ấy đáp. Tôi từ bỏ luôn ý định hỏi cô ấy muốn ám chỉ gì, nhưng tôi vẫn hiểu đó là một lời lăng mạ.

“Cô ấy có vài người bạn tốt, nhưng hầu hết họ đều ở phía Đông.”

“Còn những người bà con của cô ấy?”

“Họ sống ở New York.Thành phố.”

“Và anh vẫn chưa gọi cho bất kỳ người nào trong số họ?” Boney hỏi và nở nụ cười có phần sửng sốt.

“Từ lúc đó tới giờ tôi phải thực hiện mấy việc khác mà các vị bảo tôi phải làm. Tôi đã có lúc nào gọi điện được đâu.” Nói rồi tôi ký luôn giấy xác nhận cho phép điều tra thẻ tín dụng, thẻ ATM và truy lại các cuộc gọi từ máy di động của Amy. Tôi cũng cho họ biết số điện thoại cầm tay của Go và tên của Sue, người phụ nữ góa chồng hay lui tới Quán Bar, người có lẽ có thể làm chứng cho khoảng thời gian tôi tới quán.

“Đứa trẻ trong gia đình.” Boney lắc đầu. “Anh thật sự làm tôi nhớ đến cậu em trai của tôi.” Một cú đánh.”Tôi xin thề, đó là một lời khen.”

“Chị ấy cưng chiều cậu ta lắm.” Gilpin vừa nói vừa viết nguệch ngoạc vào một cuốn sổ. “Được rồi, vậy là anh rời khỏi ngôi nhà vào khoảng bảy giờ rưỡi sáng, tầm trưa thì có mặt tại Quán Bar, và giữa quãng thời gian đó anh đã ở bãi sông.”

Có một đầu cầu đổ bộ cách nhà chúng tôi khoảng mười dặm về phía Bắc, một nơi tập hợp những cát, bùn và mảnh chai bia vỡ, không lấy làm dễ coi cho lắm. Những chiếc thùng tròn lớn chứa rác đầy ứ cốc làm bằng chất dẻo Styrofoam và tã lót bẩn. Nhưng ở đó có một chiếc bàn picnic đón ngược hướng gió và ngập tràn ánh nắng ấm áp, và khi bạn nhìn thẳng về phía dòng sông, có nhiều thứ kinh khủng khác mà bạn có thể phớt lờ.

“Thỉnh thoảng tôi mang cà phê và tờ báo ra đó chỉ để ngồi thôi. Tận hưởng mùa hè hết mức có thể.”

Không, tôi chưa từng nói chuyện với ai ở bãi sông cả. Không, chẳng ai thấy tôi hết.

“Đó là một nơi khá yên tĩnh vào quãng thời gian giữa tuần.” Gilpin thừa nhận.

Nếu cảnh sát có hỏi chuyện bất cứ người nào biết tôi, họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra tôi hiếm khi nào tới bãi sông và rằng chưa bao giờ có chuyện tôi thỉnh thoảng mang cà phê ra đó chỉ để tận hưởng khí trời buổi sáng. Tôi có nước da trắng nhợt kiểu Ireland và không đủ kiên nhẫn để ngồi trầm ngâm, tư lự quá mức được: Tôi không phải một anh chàng sông nước. Tôi nói với cảnh sát như vậy bởi nó đã từng là ý tưởng của Amy, để tôi có thể tới nơi nào đó, ngồi một mình nhìn ngắm dòng sông mà tôi yêu quý và suy ngẫm về cuộc sống của hai chúng tôi. Cô ấy đã nói điều này với tôi sáng nay, sau khi chúng tôi thưởng thức những chiếc bánh kếp mà cô ấy làm. Cô ấy đã nghiêng người về phía trước, tựa lên bàn và nói: “Em biết chúng ta đang trải qua khoảng thời gian khó khăn. Em vẫn yêu anh nhiều lắm, Nick ạ, và em hiểu em còn rất nhiều điều phải nỗ lực. Em muốn trở thành một người vợ tốt đối với anh, và em muốn anh là chồng em và anh được hạnh phúc. Nhưng anh cần phải xác định xem anh muốn gì.”

Rõ ràng cô ấy đã luyện tập trước lối trình bày của mình, cô ấy đã mỉm cười một cách tự mãn khi nói ra những lời lẽ đó. Và ngay cả khi vợ tôi đề nghị với một sự ân cần đến thế, tôi vẫn nghĩ: Tất nhiên là cô ấy phải làm đạo diễn cho mấy thứ này rồi. Cô ấy muốn hình ảnh của tôi bên dòng sông cuộn chảy dữ dội kia, với mái tóc bay bay trong gió nhẹ khi ánh mắt tôi dõi nhìn xa xăm về phía đường chân trời và ngẫm nghĩ về cuộc sống của chúng tôi. Tôi không thể chỉ đến mỗi cửa hàng bánh Dunkin’ Donuts được.

Anh cần phải xác định xem mình muốn gì. Thật không may cho Amy, tôi đã xác định rồi.

Boney ngẩng đầu lên khỏi những ghi chép của mình với vẻ hồ hởi. “Anh có thể cho tôi biết nhóm máu của vợ anh được không?” Cô ta hỏi.

“Ừm, không, tôi không biết.”

“Anh không biết nhóm máu của vợ anh sao?”

“Có thể là nhóm O?” Tôi đoán.

Boney cau mày, rồi kéo dài giọng như đang tập yoga. “Được rồi, Nick, đây là những việc chúng tôi sẽ làm để giúp anh.” Cô ta liệt kê: điện thoại cầm tay của Amy sẽ được theo dõi, hình cô ấy sẽ được lan truyền, thẻ tín dụng sẽ được điều tra. Những đối tượng tội phạm tình dục được nhận diện trong vùng cũng sẽ được thẩm vấn. Khu vực hẻo lánh xung quanh nơi ở của chúng tôi cũng sẽ được tìm hiểu. Điện thoại trong gia đình sẽ được ghi âm, phòng trường hợp nhận được bất kỳ cuộc gọi nào đòi tiền chuộc.

Tôi không rõ nên nói gì vào lúc này. Tôi lục trong trí nhớ của mình để tìm lời thoại: Trên phim người chồng thường nói gì vào thời điểm này nhỉ? Điều đó còn tùy thuộc vào việc anh ta có tội hay vô tội.

“Tôi không thể nói rằng những việc này khiến tôi thấy an tâm. Các anh chị… đây là một vụ bắt cóc hay một vụ mất tích, hay chính xác chuyện gì đang xảy ra vậy?” Tôi biết rõ những con số thống kê, qua chính chương trình truyền hình mà tôi đang đóng vai chính: Nếu trong vòng bốn mươi tám giờ đầu tiên không thấy bất kỳ một dấu hiệu nào, tình huống có khả năng rơi vào bế tắc. Bốn mươi tám giờ đầu tiên đóng vai trò quyết định. “Ý tôi là, vợ tôi đã mất tích rồi. Vợ tôi đã mất tích rồi!” Tôi nhận ra đây là lần đầu tiên tôi diễn đạt theo cách đáng lẽ đã phải được nói ra: hoảng loạn và giận dữ. Bố tôi là người đàn ông của muôn hình vạn trạng những cay đắng, thịnh nộ và chán ghét. Trong cuộc tranh đấu suốt đời để không biến mình thành một người như ông ấy, tôi đã nuôi dưỡng một sự bất lực trong việc biểu lộ hầu hết các cảm xúc tiêu cực. Lại thêm một điểm nữa khiến tôi càng giống một thằng tồi – dù cho ruột gan tôi có đang lộn tùng phèo thì người ta vẫn chẳng nhận thấy được điều gì trên gương mặt tôi và càng ít hơn qua những lời tôi nói. Đó là một vấn đề bất biến: hoặc kiểm soát quá mức hoặc hoàn toàn không kiểm soát gì.

“Nick, chúng tôi đang cực kỳ nghiêm túc trong vụ này.” Boney nói. “Các nhân viên khám nghiệm đã có mặt ở nhà anh trong lúc chúng ta đang nói chuyện, và việc đó sẽ cung cấp cho chúng tôi thêm thông tin để tiếp tục việc điều tra. Ngay lúc này đây, anh càng cho chúng tôi biết nhiều về vợ mình thì càng hữu ích. Cô ấy là người thế nào?”

Những câu nói thông thường của các ông chồng xuất hiện trong đầu tôi: Cô ấy ngọt ngào, cô ấy tuyệt vời, cô ấy tốt bụng, cô ấy cảm thông.

“Cô ấy là kiểu người thế nào ư?” Tôi hỏi.

“Cho tôi biết về tính cách của cô ấy.” Boney gợi ý. “Chẳng hạn, anh tặng gì cho cô ấy nhân dịp kỷ niệm ngày cưới của hai người? Đồ trang sức à?”

“Tôi chưa chuẩn bị được gì cả.” Tôi nói. “Tôi định chiều nay sẽ làm việc đó.” Tôi tưởng cô ta sẽ cười và lại nói ‘đứa trẻ trong gia đình’ thêm lần nữa, nhưng cô ta đã không làm thế.

“Được rồi. Vậy hãy cho tôi biết về cô ấy. Cô ấy có hướng ngoại không? Cô ấy có – tôi không biết phải nói thế nào – cô ấy có mang tính New York không? Theo kiểu có thể để lại ấn tượng khiếm nhã với một số người? Có thể gây cho người ta cảm giác bực bội?”

“Tôi không biết nữa. Cô ấy không phải tuýp người không bao giờ tiếp xúc với người lạ, nhưng cô ấy không… không khó chịu đến mức khiến ai đó… hại mình.”

Đây là câu nói dối thứ mười một của tôi rồi. Amy của ngày hôm nay đủ khó chịu đến mức khiến người ta đôi lúc muốn làm hại cô ấy. Tôi phải nói rõ là Amy của ngày hôm nay, người mà giờ chỉ còn chút mơ hồ giống với người phụ nữ mà tôi đã phải lòng. Đó là sự hoán đảo khủng khiếp của một câu chuyện cổ tích. Chỉ trong có vài năm, Amy của ngày xưa, cô gái có tiếng cười sảng khoái và dễ chịu đã đúng nghĩa rũ bỏ chính mình, rũ bỏ những lớp da và cả tâm hồn, chất thành đống trên sàn nhà, và từ đó bước ra là một Amy mới với tính cáu bẳn và gắt gỏng như bây giờ. Vợ tôi không còn là vợ tôi nữa mà giống như nút thắt của dây kẽm gai đang thách thức tôi dám liều mình gỡ bỏ. Trong khi tôi với những ngón tay to bè, vụng về và căng thẳng lại chẳng hề có khả năng thực hiện được việc đó. Những ngón tay quê mùa. Những ngón tay kém cỏi đã không được rèn giũa để thực hiện một nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa nguy hiểm, đó là kết thúc Amy. Trong khi tôi còn đang rối trí, cô ấy chỉ thở dài và quay sang cuốn sổ tay trí tuệ bí mật của mình, trong đó cô ấy kiểm điểm tất cả mọi khiếm khuyết của tôi, vĩnh viễn ghi nhớ những thất vọng, bạc nhược, kém cỏi. Amy ngày xưa của tôi, chết tiệt, cô ấy vui vẻ. Cô ấy hài hước. Cô ấy làm tôi cười. Tôi đã quên hẳn quá khứ đó. Còn cô ấy thì cười nhạo. Từ sâu trong cổ họng mình, ngay phía sau cái hõm nhỏ có hình như ngón tay, đó là nơi tuyệt nhất để bật ra tiếng cười. Cô ấy ném tung những phiền muộn của mình như ném những nắm hạt cho chim ăn: Chúng đã ở đó, và giờ chúng biến mất rồi.

Con người cô ấy không phải như bây giờ, kiểu người mà tôi sợ nhất: một người đàn bà cáu kỉnh. Tôi không giỏi đối phó với những phụ nữ hay cáu bẳn. Bọn họ khiến tôi lộ ra những mặt không đẹp đẽ gì bên trong con người tôi.

“Cô ấy hách dịch à?” Gilpin hỏi. “Hay kiểm soát?”

Tôi nghĩ đến lịch làm việc của Amy, một kế hoạch được lên sẵn cho những ba năm sau đó. Nếu nhìn vào kế hoạch cho một năm tiếp sau đấy, người ta thậm chí sẽ thấy những cuộc hẹn gặp bác sĩ da liễu, khám nha khoa hay đến bác sĩ thú y. “Cô ấy là người luôn lập kế hoạch – cô ấy, các vị biết đấy, không làm việc gì mà không có sự chuẩn bị trước. Cô ấy thích lập các danh sách và đánh dấu các công việc được hoàn tất. Hoàn tất mọi thứ. Đó là lý do vì sao chuyện này thật khó hiểu…”

“Điều này hẳn khiến anh phát điên.” Boney thông cảm nói. “Nếu anh không phải tuýp người như vậy, xem ra anh rất giống với những người có nhóm máu B.”

“Tôi nghĩ mình có phần thoải mái hơn.” Tôi đáp, rồi nói thêm một ý mà tôi cho rằng nên có: “Chúng tôi bổ sung cho nhau.”

Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường, và Boney chạm nhẹ vào tay tôi.

“Này, sao anh không ra ngoài kia và gọi cho bố mẹ Amy đi? Tôi chắc là họ sẽ cảm kích vì điều đó.”

Đã quá nửa đêm rồi. Bố mẹ Amy đi ngủ từ chín giờ tối, họ tỏ ra hợm hĩnh một cách lạ lùng với cái giờ đi ngủ sớm sủa ấy. Giờ này hẳn họ đã say giấc rồi nên đây sẽ là một cuộc gọi khẩn cấp lúc nửa đêm. Điện thoại di động luôn được tắt vào 8:45, vì vậy Rand Elliott sẽ phải đi từ giường ngủ ra tận cuối hành lang để nhấc cái máy điện thoại cũ kỹ nặng nề lên nghe, ông ấy sẽ phải dò dẫm với lấy cặp kính, rồi nhặng xị với tay bật đèn bàn. Ông ấy sẽ tự viện ra với mình đủ mọi lý do để không phải lo lắng về một cú điện thoại lúc đêm khuya, tất cả những lý do vô hại khiến chiếc điện thoại có thể đổ chuông.

Tôi quay số hai lần nhưng đều dập máy trước khi chuông đổ. Khi tôi giữ máy thì lại chính Marybeth, chứ không phải Rand, đã trả lời điện thoại bằng chất giọng trầm ù ù bên tai tôi. Tôi chỉ kịp nói “Marybeth, con Nick đây” thì tôi không còn thấy ù ù nữa.

“Có chuyện gì vậy Nick?”

Tôi hít vào một hơi.

“Chuyện về Amy à? Nói ta nghe đi.”

“Con, ừm – con xin lỗi, lẽ ra con nên gọi sớm hơn…”

“Nói cho ta biết xem nào, chết tiệt thật!”

“Bọn con kh-ông tìm thấy Amy.” Tôi lắp bắp.

“Không tìm thấy Amy?”

“Con không biết nữa…”

“Amy mất tích rồi sao?”

“Bọn con không chắc lắm về chuyện đó, bọn con vẫn đang…”

“Từ khi nào?”

“Bọn con không rõ. Con rời nhà sáng nay, khoảng hơn bảy giờ một chút…”

“Và anh đợi đến tận giờ mới chịu gọi cho chúng tôi?”

“Con xin lỗi, con không muốn…”

“Lạy Chúa tôi. Tối nay chúng tôi đã chơi quần vợt. Quần vợt, trong khi chúng tôi lẽ ra… Chúa ơi. Cảnh sát đã vào cuộc chưa? Anh có báo cho họ không?”

“Hiện giờ con đang ở sở cảnh sát.”

“Làm ơn chuyển máy cho người phụ trách, Nick.”

Ngoan ngoãn như một đứa trẻ, tôi đi tìm Gilpin. Mẹ vợ tôi muốn nói chuyện với anh.

Cuộc gọi đến nhà Elliott đã chính thức hóa chuyện này. Thông tin khẩn cấp – Amy mất tích – sẽ lan rộng ra bên ngoài.

Khi quay trở lại phòng thẩm vấn, tôi đã nghe thấy giọng nói của bố tôi. Đôi khi, trong những giây phút đặc biệt xấu hổ, tôi thường nghe thấy giọng nói của ông trong đầu mình. Nhưng đây là giọng nói của bố tôi thật, ở đây. Lời ông nổi lên thành đám bong bóng, như thể thứ gì đó từ một vũng lầy hôi thối. Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn. Bố tôi trong trạng thái hoàn toàn mất trí sẽ ném những lời ấy vào mặt bất cứ người phụ nữ nào, dù người đó chỉ hơi chọc giận ông: khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn. Tôi ngó vào một căn phòng họp, và kia, ông ấy đang ngồi trên chiếc ghế dài đặt cạnh tường. Bố tôi từng là một người đàn ông đẹp trai, mạnh mẽ với chiếc cằm chẻ. Tuyệt vời đến choáng ngợp là những ngôn từ mà dì tôi đã dùng để miêu tả ông. Giờ thì ông ngồi đó, lẩm bẩm với sàn nhà, mớ tóc vàng rối bù, quần lấm đầy bùn và những cánh tay trầy xước như thể vừa vật lộn thoát ra khỏi một bụi cây gai. Một vệt nước dãi lấp loáng chảy xuống chiếc cằm của ông trông như vết dãi của một con ốc sên, và ông hết gập rồi lại duỗi các cơ bắp chưa đến nỗi xuống cấp trên cánh tay mình. Một nữ sĩ quan với vẻ khó chịu đang ngồi kế bên bố tôi, cặp môi cô ta mím lại vì giận dữ và cố gắng lờ ông đi: Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?” Tôi hỏi cô ta. “Đây là bố tôi.”

“Anh nhận được cuộc gọi của chúng tôi không?”

“Cuộc gọi nào?”

“Để đến đón bố anh.” Cô ta phát âm rõ quá mức, như thể tôi là một đứa trẻ mười tuổi ngớ ngẩn vậy.

“Tôi – vợ tôi đang mất tích. Tôi đã ở đây gần như cả đêm.”

Cô ta chăm chú nhìn tôi mà không xâu chuỗi được thông tin nào. Tôi có thể thấy cô ta đang cân nhắc việc dẹp bỏ sự bực bội của mình và xin lỗi cũng như hỏi thăm tôi. Rồi bố tôi lại tiếp tục, khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn, và thế là cô ta quyết định giữ nguyên sự bực bội của mình.

“Thưa ông, bên Comfort Hill đã cố gắng liên lạc với ông cả ngày nay. Sáng sớm nay bố ông đã đi lang thang ra ngoài theo lối thoát hiểm hỏa hoạn. Như ông thấy đấy, ông ấy có vài vết trầy xước và xây xát, nhưng không bị tổn thương gì. Chúng tôi tìm được ông ấy trước đây vài giờ, lúc đó ông ấy đang đi bộ xuôi theo Đường Sông và bị mất phương hướng. Chúng tôi đã cố gắng liên lạc với ông.”

“Tôi đã ở ngay đây.” Tôi nói. “Ngay căn phòng chết tiệt ở bên cạnh, mà sao chẳng ai chịu xâu chuỗi mấy chuyện này lại với nhau cơ chứ?”

Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn. Bố tôi nói.

“Thưa ông, làm ơn đừng có nói với tôi bằng cái giọng đó.”

Khốn nạn, khốn nạn, khốn nạn.

Boney yêu cầu một viên cảnh sát – nam giới – lái xe đưa bố tôi về nhà để tôi có thể hoàn tất công chuyện với họ. Chúng tôi đứng trên bậc tam cấp bên ngoài sở cảnh sát, quan sát bố tôi được đưa vào yên vị trong xe, miệng vẫn tiếp tục lầm bầm. Suốt khoảng thời gian từ nãy đến giờ ông không hề nhận ra sự có mặt của tôi. Khi họ lái xe đi, ông thậm chí không buồn quay đầu nhìn lại.

“Hai cha con anh không thân nhau à?” Boney hỏi.

“Chúng tôi chính là khái niệm của sự không thân thiết.”

Đám cảnh sát kết thúc các câu hỏi của họ và đẩy tôi lên một chiếc xe tuần tra vào khoảng hai giờ sáng với lời dặn dò nên đi ngủ và phải quay lại đó lúc mười một giờ sáng để chuẩn bị cho buổi họp báo vào mười hai giờ trưa.

Tôi không hỏi liệu tôi có được về nhà không. Tôi bảo họ đưa tôi đến chỗ Go, vì tôi biết con bé sẽ thức và uống chút gì đó cùng tôi, chuẩn bị cho tôi một cặp bánh mỳ kẹp. Thảm hại thay, đó là tất cả những gì tôi muốn khi ấy: một người phụ nữ chuẩn bị cho tôi một cặp bánh mỳ và không hỏi bất kỳ câu hỏi nào.

“Anh không muốn đi tìm chị ta sao?” Go ngỏ ý trong lúc tôi đang ăn. “Chúng ta có thể lái xe đi tìm quanh đây.”

“Có vẻ vô ích thôi.” Tôi ngu ngốc nói. “Anh biết tìm ở đâu cơ chứ?”

“Nick, chuyện này thực sự nghiêm trọng.”

“Anh hiểu, Go ạ.”

“Vậy hãy hành động cho đúng mực, có được không, Lance? Đừng có kiểu ầm ừ chết tiệt như thế.” Đó là một kiểu giọng nặng nề mà Go luôn thể hiện khi muốn gạt bỏ sự thiếu quyết đoán của tôi, cùng với đó là ánh mắt trừng trừng và việc lôi tên khai sinh của tôi ra gọi. Làm gì có ai với khuôn mặt như của tôi đây lại đáng bị gọi là Lance cơ chứ. Con bé đưa cho tôi một cốc rượu Scotch. “Uống cái này đi, nhưng chỉ thế thôi đấy. Anh sẽ không muốn mình ngất ngưởng vào ngày mai đâu. Chị ta có thể ở chỗ quái nào được chứ? Chúa ơi, em thấy phát ốm lên được.” Go tự rót cho mình một cốc, uống ừng ực, sau đó lại cố nhấp từng ngụm trong khi đi tới đi lui trong bếp. “Anh không thấy lo lắng sao, Nick? Rằng nhỡ đâu có một gã nào đó, kiểu như, thấy chị ta trên phố và đơn giản là, quyết định bắt cóc chị ta? Đánh vào đầu chị ta và…”

Tôi cắt ngang. “Sao em lại nói cô ấy bị đánh vào đầu hả, cái quái gì vậy?”

“Em xin lỗi. Em không có ý vẽ ra cảnh tượng ấy, em chỉ… em không biết nữa, em cứ có ý nghĩ như vậy. Về một kẻ điên khùng nào đó.” Go rót thêm một ít rượu Scotch nữa, rơi bắn tung tóe vào cốc của mình.

“Nhắc đến những kẻ khùng điên.” Tôi nói. “Hôm nay bố lại trốn ra ngoài, bọn họ tìm thấy bố đang lang thang dọc Đường Sông. Hiện giờ bố về lại Comfort rồi.”

Go nhún vai: được rồi. Đây là lần thứ ba trong vòng sáu tháng bố tôi bỏ ra ngoài. Go châm một điếu thuốc và vẫn nghĩ về Amy. “Ý em là, chẳng lẽ chúng ta không thể tìm gặp ai để hỏi chuyện hay sao?” Con bé hỏi. “Phải có việc gì đó chúng ta có thể làm chứ?”

“Lạy Chúa, Go! Em thật sự còn muốn anh cảm thấy bất lực hơn thế này nữa hay sao?” Tôi phát cáu. “Anh đếch biết mình nên làm gì nữa. Chẳng có cái gì gọi là ‘101 lời khuyên khi vợ bạn mất tích’ hết. Cảnh sát nói anh có thể về. Nên anh về. Anh sẽ chỉ làm những gì họ bảo anh làm.”

“Tất nhiên là anh sẽ làm theo chỉ dẫn của họ.” Go lẩm bẩm. Con bé đã nhận cái trách nhiệm gian nan đằng đẵng là cố gắng biến tôi thành một kẻ nổi loạn. Chẳng đi đến đâu cả. Ở trường trung học tôi là đứa trẻ luôn tuân theo lệnh giới nghiêm, tôi là nhà báo luôn nộp bài viết đúng hạn, kể cả là những thời hạn giả. Tôi tôn trọng các quy tắc, bởi nếu người ta tuân theo các quy tắc, mọi việc sẽ thường êm xuôi.

“Mẹ kiếp, Go, anh phải quay lại sở cảnh sát chỉ sau vài tiếng nữa thôi, hiểu chứ? Em có thể làm ơn tử tế với anh một giây thôi có được không? Anh sợ đến phát điên lên rồi.”

Chúng tôi đọ mắt nhìn nhau trong vòng năm giây, rồi sau đó Margo đổ đầy cốc của tôi thêm lần nữa, để xin lỗi. Con bé ngồi xuống bên cạnh tôi, đặt một bàn tay lên vai tôi.

“Tội nghiệp Amy.” Con bé nói.

Chọn tập
Bình luận
720
× sticky