Rời khỏi Starlight Hotel, tôi đi ăn trưa rồi sau đó trở về văn phòng. Bây giờ đã hơn ba giờ chiều và trung sĩ Polnik đang chờ tôi. Polnik mỉm cười và lễ phép nói:
“Ông cảnh sát trưởng chuyển tôi sang làm việc với trung úy. Vậy xin trung úy cho biết bao giờ chúng ta bắt tay vào việc?”
Tôi nghiêm nghị nói với nhân viên của mình:
“Ngay bây giờ. Người chết là một gã tên Howard Davis. Theo tôi nghĩ thì hoặc hắn ta đã bị bắn gục ngay khi đến Pin City hoặc trong một thời gian ngắn sau đó. Trong trường hợp thứ hai này, hắn ta có lẽ đã thuê mướn một căn phòng nào đó trong vùng này. Nhiệm vụ của chúng ta là tìm cho ra căn phòng nơi hắn thuê mướn.”
Không buồn quan tâm đến vẻ hoảng hốt đang hiện rõ trên khuôn mặt Polnik, tôi chỉ tay về chiếc điện thoại đặt trên bàn cô thư ký dữ dằn:
“Trong khi tôi rà soát các khách sạn thì cậu kiểm tra cho tôi các hotel. Tôi cược với cậu là tôi sẽ tìm thấy trước cậu đấy.”
Polnik gừ lên:
“Ồ!”
Tôi đáp một cách nôn nóng:
“Chắc cậu biết các hotel rồi chứ? Đó là một loại lữ quán mà chúng ta có thể cho xe thẳng vào trong, một nơi cho mướn phòng trọ, nhưng thuộc loại khá sang. Cậu hiểu ý tôi chứ?”
Polnik lại gừ lên, nhưng lần này là một thứ tiếng dùng để bày tỏ sự khinh tởm rồi, với vẻ nhẫn nhục, gã bước đến bên máy điện thoại.
Nhìn cái dáng đi lắc lư đó từ phía sau, người ta có thể lầm tưởng đây là một giống người tiền sử còn sót lại. Tôi mở cuốn danh bạ điện thoại và tìm mục “Khách Sạn” để bắt đầu gọi cho từng nơi một.
Khoảng hai mươi phút sau, Polnik ra dấu cho tôi với vẻ đắc thắng. Y mừng rỡ nói:
“Tôi tìm thấy rồi trung úy ạ! Đó là hotel “Thiên Thai” cách Pin City tám cây số, nằm gần xa lộ đi San Bernardino. Chủ hotel cho biết Davis đã sống ở đó từ hai ngày nay, nhưng y đã đi từ chiều hôm qua và không thấy về.”
“Được! Chúng ta sẽ đến đó xem sao.”
Tôi và Polnik ra khỏi sở và chui vào chiếc Austin Healey. Sau khi cố thu người trên băng ghế cạnh tôi, Polnik hỏi với giọng thân tình:
“Thưa trung úy, có phải chúng ta đến đó chỉ để đơn giản là làm thủ tục?”
Tôi đáp bừa:
“Ừ theo tôi nghĩ thì chắc vậy.”
Cho xe vượt qua một chiếc Lincoln mới toanh trong khi chiếc này đang chớp đèn để quẹo, tôi tảng lờ như không trông thấy cái ánh đèn ngạo nghễ ở sau đuôi chiếc xe bóng loáng đó.
Bỗng dưng Polnik thốt lên:
“À… có phải chúng ta chỉ bắt đầu tiến hành thủ tục điều tra thôi chứ? Sau đó chúng ta có quyền vui thú với các em?”
Tôi nhướng mắt liếc nhìn gã:
“Các em nào?”
Khuôn mặt Polnik bừng sáng bởi một niềm tin tưởng mù quáng:
“Thì tôi đâu biết, nhưng… tôi chắc rằng đi với trung úy thì thế nào cũng có dịp vui chơi với các em!”
Tôi lạnh lùng nói:
“Một ngày gần đây, tôi sẽ gặp vợ cậu và nói đôi điều với cô ấy.”
Mặt Polnik cau lại:
“Bà xã của tôi rộng lượng lắm. Miễn sao đó là chuyện có liên quan đến công tác…”
Hotel Thiên Thai nằm cách xa lộ tám trăm thước, cạnh một con đường đất xem chừng dẫn về một cõi nào đó ở tận cùng thế giới. Ở cổng vào là hàng chữ bằng đèn néon: “Phòng Cho Mướn”. Tôi dừng xe ở phía bên kia cổng và thầm nghĩ, nếu Thiên Đường thật sự là như thế đó thì tôi sẽ chẳng băn khoăn tiếc nuối gì nếu chẳng may tôi không được vào.
Có khoảng sáu ngôi nhà gỗ kiểu miền núi được xây dọc theo hình bán nguyệt quanh một chiếc sân đầy bụi và trơ trụi. Tường nhà bằng gỗ giờ đây đã tróc hết sơn, trông có vẻ điêu tàn. Nơi ngôi nhà đầu tiên có treo một tấm biển mới toanh ghi chữ: Giám Đốc. Tôi và Polnik bước về phía đó. Ông giám đốc bước ra hàng hiên để đón chúng tôi. Trông thấy ông người ta có thể ngỡ rằng đây là một kẻ vừa may mắn thoát nạn sau một chiến dịch làm sạch thành phố và đã tìm được cho mình một nơi trú ẩn lý tưởng…
Ông mặc một chiếc quần lao động bạc màu với bên trên là một chiếc áo sơ mi không mới mẻ gì. Tóc ông bạc trắng và chỉ còn chút đỉnh trên vầng trán hói nhẵn. Ông mỉm cười với chúng tôi và phô bày một hàm răng mà tôi thấy tốt hơn là nên được giấu kín. Ông cho chúng tôi biết ông tên là Lanoix và tôi nghĩ cái tên này nghe rất hợp với hoàn cảnh.
Sau khi Polnik đã giới thiệu chúng tôi với ông và cho biết mục tiêu của chúng tôi khi đến đây, ông ta nói ngay:
“Trông thấy gã Davis đó là tôi biết ngay có chuyện không ổn! Vâng, thưa quí ông, chỉ thoáng thấy gã là tôi biết ngay.”
Tôi thắc mắc:
“Tại sao thế? Ông đã trông thấy gì để kết luận điều đó? Phải chăng theo cách cư xử, ăn nói?”
Lanoix lắc đầu và nói gọn lỏn:
“Bởi gã chỉ đi có một mình.”
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là không có một người đàn bà nào đi kèm.”
Polnik liếc nhìn tôi bằng một ánh mắt am hiểu rồi đưa ngón tay lên gõ gõ vào đầu. Nhận thấy không thể dằn được cơn thắc mắc, tôi đành trơ tráo hỏi:
“Không có đàn bà? Ông thấy như thế là không ổn à?”
Với vẻ nhẫn nại, Lanoix giải thích tường tận ý nghĩ của mình:
“Trung úy phải hiểu cho rằng mọi khách hàng của tôi đều đến đây mướn phòng theo từng cặp! Đôi lúc đó là một ông lão đi với một cô trẻ, hoặc một ông xồn xồn cũng đi với một cô trẻ; nhiều khi thì hai người trẻ với nhau. Nhưng tất cả mọi người đàn ông đều có một cô đi kèm. Bởi không vì cái chuyện đó thì họ đến cái xó xỉnh này để làm gì chứ?” Ông bật cười nho nhỏ và thúc cùi chỏ nhọn hoắt vào hông tôi. “Vâng, thưa trung úy, ngay từ lúc đầu tôi đã biết cái ông Davis này là không ổn! Tay này phải có chuyện gì đó bất hợp pháp bởi không có cô nào đi theo hắn cả!”
Tôi nói bằng giọng can gián:
“Ở tuổi ông mà sao đầu óc còn lắm đàn bà thế!”
Ông ta lại bật cười nho nhỏ nhưng lần này tôi kịp trông thấy ông sáp lại gần nên đã lẹ làng né tránh cái cùi chỏ nhọn hoắt đó.
Với vẻ đắc thắng, ông nói:
“Cái gì chứ chuyện đó thì tôi chưa có già đâu! Nếu không tin thì trung úy cứ sang hỏi bà góa Smee, ở kề cận đây thì biết!”
Chúng tôi đi về phía căn nhà cuối và đứng chờ ông giám đốc mở cửa. Cửa vừa mở, Polnik đã vội vã bước vào và nhìn chồm qua vai Lanoix. Tôi trông thấy mặt y lộ hẳn vẻ thất vọng. Tôi liếc nhìn y bằng một ánh mắt đồng lõa. Polnik nhún vai, kéo mạnh ông giám đốc ra khỏi phòng và đóng ngay cửa lại.
“Cái thằng cha lộn xộn!” y nói, giọng tự tin.
Tôi tiếp, thật dịu dàng:
“Và cũng xứng để nhận lãnh cái hậu quả của sự lộn xộn đó!”
Chúng tôi nhanh chóng kiểm tra căn phòng của Davis. Gã này chỉ có độc một chiếc va li với bên trong là một bộ complet, hai áo sơ mi, mớ quần áo lót và vớ. Nhưng khi lục sang hộc bàn giấy, tôi tìm thấy một lá thư gởi đi từ San Francisco cho người nhận là Davis, cũng ở cùng một thành phố. Lá thư được gởi cách đây khoảng tám hôm.
Tôi rút lá thư ra khỏi bao.
Davis thân mến,
Thế là anh đã thiếu tôi sáu tháng tiền trợ cấp và tôi đã quá chán những lời phỉnh gạt của anh. Trong ba ngày nữa, nếu không trả hết cho tôi số tiền thiếu thì anh phải lãnh lấy hậu quả – tôi sẽ yêu cầu bắt giữ anh.
Anh khỏi phải điện thoại cho tôi để kể lể thêm này nọ vô ích – tôi sẽ không nghe anh đâu. Tốt hơn anh nên gọi cho luật sư của tôi hoặc bên cảnh sát để mà giải thích, tùy ý anh. Còn một điều nữa là tôi khuyên anh chớ có tìm cách trốn tránh tôi bởi tôi sẽ theo anh tới cùng. Anh không thoát khỏi tôi đâu, chớ có mưu toan lẩn tránh, vô ích.
Mong anh nhận nơi đây những tình cảm chân thành nhất của tôi.
Thelma.
Nhịp thở của Polnik hổn hển bên tai tôi như một con hải cẩu khi hắn chồm qua vai tôi để cố đọc lá thư.
Tôi phê phán:
“Cậu phải biết tôi vốn là kẻ ưa lịch sự và lần sau, nếu muốn đọc thư thì cậu hãy xin phép tôi một tiếng. À, tôi chẳng hiểu cái ông Davis này có bao nhiêu bà vợ nhỉ?”
Polnik vênh váo:
“Chắc cô Thelma này đã sát hại Davis. Tôi biết mà, đi đêm lâu ngày gặp ma. Dây dưa với gái cỡ như tay này thì có ngày cũng gặp phải một em thứ dữ!”
Tôi nhún vai:
“Tôi chẳng hiểu nữa. Cậu hãy kiểm soát những hộc bàn khác để xem có tìm được một cái gì nữa không.”
Tôi đốt một điếu thuốc trong khi Polnik bận rộn với công việc. Ba mươi giây sau, y đắc thắng giương cao một tờ giấy:
“Xem này trung úy! Lại một lá thư nữa!”
Đây là lá thư được viết trên giấy có in địa chỉ của hotel Thiên Thai, Pin City.
Thelma thân,
Hiện nay anh đang ở tại hotel Thiên Thai này. Anh đang đeo đuổi một cú áp phe rất lớn vì vậy anh mong em hãy suy nghĩ lại và cho anh trễ hạn thêm ít ngày nữa. Khi mọi việc xong xuôi, anh sẽ trả hết số tiền thiếu em và có thể sẽ tặng em thêm chút đỉnh nữa. Anh chỉ mong một điều đó là em hãy biết cân nhắc và đừng làm những chuyện tầm bậy như em đã đe dọa anh.
Anh mong em hãy sáng suốt bởi nếu không thì sẽ hỏng cả; lần này là một món tiền không nhỏ và anh…
Lá thư viết dở dang từ ba hôm rồi nhưng bây giờ thì tôi đã biết chắc một điều đó là Howard Davis không còn bối rối vì món tiền trợ cấp mà gã còn thiếu Thelma nữa. Tôi nhét hai lá thư vào túi và thế là, hai phút sau đó chúng tôi đã hoàn tất việc khám xét mà không phát hiện một điều gì đáng kể.
Lanoix đưa chúng tôi ra xe, miệng không ngớt lải nhải hỏi đi hỏi lại:
“Các ông có tìm thấy gì không? Howard Davis đã làm gì thế? Có phải hắn là một tên cướp?”
“Davis đã bị giết chết.” Tôi đáp khi bước vào xe.
Lanoix nhắc lại, mặt thích thú:
“Bị giết à? Ai là kẻ đã giết y? Trung úy vui lòng nói rõ cho đôi chút có được không?”
Tôi nổ máy xe và đáp:
“Thì dĩ nhiên cũng là do đàn bà.”
Ông giám đốc hotel nói ngay:
“Đúng thế, tôi vẫn thường bảo đàn bà là một lũ phiền phức, có sai đâu!” Ông hổn hển thở như một con hải cẩu. “Ai thế? Trung úy có biết người đàn bà đó không?”
Tôi nói bằng một giọng rất nghiêm túc:
“Thì đương nhiên. À, ban nãy ông có bảo rằng bà góa Smee ở đâu thế nhỉ?”
“Cũng trên đường này, phía dưới đồi…”
Lanoix sững sờ nhìn tôi một hồi. Thế rồi bỗng dưng ông chợt hiểu ra câu hỏi và kinh ngạc thốt lên:
“Ồ! Chẳng lẽ trung úy muốn bảo rằng…”
Tôi sang số và lao xe đi. Khi ra đến đường, tôi ngoái cổ nhìn lui nhưng không trông thấy gì ngoài một đám mây bụi đang dâng lên phía sau xe. Như thế cũng đủ để cho lão ta biết thế nào là lạnh gáy!
Khi chúng tôi trở về sở thì đã gần năm giờ rưỡi chiều. Tôi bỏ Polnik xuống và bảo y gọi điện về sở cảnh sát San Francisco để nắm rõ lý lịch của Thelma Davis và nhờ họ điều tra xem cô ta đã làm gì trong ngày hôm qua. Rồi tôi lái xe về nhà.
Đúng mười một giờ tối hôm đó, tôi vào khách sạn Starlight và mạnh dạn gõ cửa căn hộ nhìn ra sân thượng. Prudence Calthorpe mở cửa, nụ cười trên môi.
Nàng nói ngay:
“Trung úy đúng hẹn dữ! Phải chăng đó là vì lý do nghề nghiệp?”
“Vâng, một phần là do nghề nghiệp… và phần khác là do cô đã mời tôi đến đây vào lúc mười một giờ…”
Nàng ngắt ngang:
“Thôi, trung úy vào đi. Đứng đó mà lỡ gặp gió máy gì thì khổ.”
Tôi ngoan ngoãn theo nàng vào phòng khách. Hết biết cái cô này! Bộ tunique màu trắng sao mà hấp dẫn, đã thế lại còn xẻ một đường dài ở đùi! Nơi vai áo có thêu hai con beo đen đang đuổi bắt nhau trông thật sinh động, nhưng trên tất cả vẫn là cặp đùi thon dài của nàng.
Tôi thoải mái ngồi xuống ghế bành và nhìn Prudence đang bận rộn pha rượu ở quầy. Nhưng, chỉ một lúc sau thì tôi đã chán ngắt, bởi lúc này tôi chỉ trông thấy phần trên của nàng trong khi cặp đùi hấp dẫn thì đã bị che khuất bởi quầy rượu. Đồng ý là phần trên của nàng cũng là điều quyến rũ và có thể làm cho tôi quên đi thời gian đang trôi qua nhưng tôi biết sự phô bày của cặp đùi thon dài của nàng vẫn là điều gì đó cực kỳ cuốn hút…
Bên trên một chiếc bàn tròn gần chỗ tôi ngồi có trưng một bức ảnh, lồng kính cẩn thận là vì ở ngang tầm tay nên tôi cầm lấy để xem cho rõ. Đây là ảnh của một gã trạc tứ với đôi vai lực lưỡng của một võ sĩ đấu vật và dáng vẻ dứt khoát bạo tợn. Xét theo ánh mắt của gã ta thì hẳn đây là một kẻ không quen nhường nhịn ai – và sự hung hãn này lại được ghi đậm thêm bởi đôi môi mỏng trên khuôn mặt chữ điền kiêu hãnh. Tóm lại đây là khuôn mặt của người hùng trong phim hoạt hình ngoại trừ đôi mắt không có vẻ gì là hào hùng.
Thật dịu dàng, sát bên tai tôi vang lên giọng hỏi của Prudence:
“Lần sau chắc em phải rung chuông khi mang rượu đến cho anh?”
Tôi ngước mắt lên và trông thấy nàng đang đứng trước mặt, ly rượu trong tay.
Mỉm cười, tôi đưa tay đón lấy:
“Cảm ơn.”
Nàng hỏi:
“Anh có thích bức ảnh đó?”
“Trông khá được mắt. Ai thế?”
Nàng đáp, mặt vẫn thản nhiên:
“Jonathan Blake, ông chồng cũ của em. Hắn là một tay săn thú khét tiếng ở Phi Châu và đồng thời cũng là một tay nhảm nhí tối ngày chỉ biết pằng! pằng!”
“Bây giờ Blake đang ở đâu?”
Prudence nhún vai:
“Em chẳng hiểu… Có thể là ở Phi Châu, và cũng có thể là đang làm mồi cho một con sư tử nào đó.”
Tôi đảo mắt nhìn quanh phòng:
“Ông này là chồng trước kia của cô, vậy chứ bây giờ thì cô có sống với một ông chồng nào nữa không?”
Nàng đáp nho nhỏ:
“Một ông thôi cũng đủ phát ngán rồi.”
“Ồ, như thế thì tôi đỡ phải nhấp nhỏm.”
Prudence quả quyết:
“Trung úy chớ có lo lắng, chúng ta sẽ không bị ai quấy rầy đâu.”
“Thế thì tốt lắm!” Tôi nâng ly rượu lên. “Vậy, xin uống mừng cho tình bạn chớm nở của chúng ta, uống mừng khi biết rằng đầu của mình sẽ không bị nhồi rơm để treo lủng lẳng cạnh các thân hữu là Am, Stram, Gram!”
Nàng mỉm cười:
“Tuy không nhồi rơm đầu anh, nhưng em cũng muốn được biết tên anh bởi cứ gọi Trung úy! mãi nghe sao kỳ cục quá!”
Tôi đề nghị một cách rất thoải mái:
“Thế thì cô cứ gọi tôi là Al. Như thế có hai lợi điểm: đây là một cái tên ngắn gọn, dễ gọi dễ nhớ và hơn nữa đó chính là tên của tôi.”
“Nhưng Al là chữ tắt của tên gì thế anh?”
Tôi dứt khoát:
“Điều đó chỉ có tôi với mẹ tôi biết mà thôi. Còn cô, tên thật của cô là gì? Có phải là Prudence?”
“Ồ! Anh chỉ đơn giản gọi em là Pru được rồi. Như thế cũng thuận tiện như em gọi anh là Al vậy.”
“Thế là chúng ta đã quen biết nhau rồi đấy nhé!”
Nàng bước một bước sang bên cạnh và, thật là duyên dáng, nàng ngồi xuống trên đùi tôi. Tôi sững sờ trong giây lát, tưởng mình đang mê ngủ.
Nàng thì thầm, vẻ thơ ngây:
“Chắc anh đang nghĩ ràng em cám dỗ anh, có phải thế?”
“Nếu không được như em nói thì hẳn cơn đau dạ dày phải hành hạ anh dữ!”
“Và chắc anh cũng nghĩ rằng em đã si mê cái vẻ điển trai của anh, và không tài nào cưỡng nổi…”
Tôi nhún nhường:
“Chuyện đó anh không bao giờ dám nghĩ đến nhưng nếu cứ tiếp tục như thế này thì anh chắc rằng đôi chân mình hẳn phải tê cóng vì thích thú.”
Nàng tiếp, với lối nói rất ư thời thượng:
“Anh biết không, vì là một người đàn bà khá giàu có nên em không phải nhọc công tìm kiếm. Mỗi khi cần có một người bạn trai cho bớt cô đơn thì em tha hồ mà lựa bởi chín mươi phần trăm đàn ông trên cõi đời này đều sẵn sàng làm theo bất cứ điều gì em muốn.”
Tôi đáp ngay:
“Chắc tôi cũng như bao nhiêu kẻ khác, nhưng tôi hơn họ ở điểm là có mặt tại chỗ…”
Prudence lắc đầu:
“Anh Al ạ, hẳn anh không thể nào đoán được điều này đâu nhưng anh đang có trong tay một thứ mà em vô cùng mơ ước. Thôi, anh đừng suy nghĩ nhọc công, anh không thế nào biết đâu.” Nàng im lặng một lúc, cố tìm lời lẽ thích hợp. “Em muốn được anh giúp để bổ sung thêm bộ sưu tập.”
“Cô chớ có hù dọa tôi đấy nhé! Bộ cô muốn làm tôi phát rét và biến ra khỏi nơi đây ngay chứ gì? Đương nhiên tôi không muốn thấy cái đầu của tôi được treo bên cạnh bốn cái đầu thổ dân Da đỏ của cô!”
Nàng dịu dàng cầm lấy cái ly trong tay tôi, đặt nó xuống bàn rồi nắm lấy tay tôi và áp nó sát vào hông nàng trong khi tay nàng vẫn giữ chặt lấy nó.
Nàng nhỏ nhẹ:
“Anh hãy nghe em này, chỉ có một cơ hội này thôi vì thế em không muốn để vuột mất. Em muốn có một món của Howard Davis để sưu tập, một món mà anh có thể lấy cho em.”
“Anh lấy cho em à?”
“Vâng, chính anh!” nàng ôn tồn nói. “Anh là một sĩ quan cảnh sát và được chỉ định để điều tra về cái chết của Davis bởi vậy điều em yêu cầu không có gì là khó đối với anh.”
Tôi hỏi ngay:
“Thế thì em muốn cái gì? Một chiếc giày? Một lọn tóc của Davis? Hay một thứ gì đại khái như thế?”
“Không. Em chỉ muốn trái tim của hắn.”
Tôi phải nén cười khi nhìn thẳng vào Prudence và biết nàng không nói đùa.
Tôi thốt lên:
“Cô điên rồi!”
Nét mặt nàng vẫn không thay đổi:
“Thưa anh, có phải người ta sẽ giải phẫu tử thi của Davis? Nếu anh yêu cầu thì bác sĩ pháp y sẽ để riêng trái tim của nạn nhân cho anh… Em sẵn sàng trả năm ngàn đô nếu anh chịu khó ngâm nó trong một hủ đựng formaldehyde và mang đến đây. Hủ đựng trái tim thì anh khỏi lo.” Nàng suy nghĩ một hồi “… theo em thì trái tim của Davis phải được đựng trong một cái hủ xứng với nó, như thủy tinh Venice chẳng hạn… Em có thể đặt người ta làm theo hình thể của một cây vợt tennis!”
“Tôi muốn nhắc lại cho cô biết rằng: cô điên quá rồi!”
Bằng một cử động dịu dàng, nàng rời khỏi đùi tôi và bước đến cửa.
Nàng lạnh lùng nói:
“Vậy mà em vẫn tưởng anh là người nhiều sáng kiến. Thôi, như thế đủ rồi Al!”
Tôi gật đầu chấp nhận:
“Trước đây, khi chưa trông thấy cô thì tôi là một người có nhiều sáng kiến. Nhưng từ khi gặp cô thì tôi bỗng thấy mình lú lẫn.”
Prudence mở rộng cửa:
“Thôi, thế thì xin chúc trung úy một đêm yên giấc nhé!”
Tôi nhỏ nhẹ nói:
“Bộ cô nghĩ rằng tôi muốn rời khỏi đây hay sao?”
“Anh đừng có trây trúa! Anh phải hiểu rằng tôi chỉ cần gọi điện xuống dưới là người ta sẽ cho bảo vệ tống cổ anh ra khỏi đây ngay.”
Tôi cười cợt bẻ lại:
“Này cô bạo chúa thời hiện đại của tôi! Chắc cô quên rằng tôi là một nhân viên cảnh sát và đã như thế thì tôi không dễ dàng bị tống ra khỏi cửa như cô nghĩ! Nếu cô không tin thì cứ thử xem!”
Nàng cắn môi suy nghĩ một lúc rồi đóng ầm cửa lại và bước đến ngồi xuống nơi ghế bành. Lần này nàng kín đáo kéo tà áo xuống để che đi phần nào cặp đùi tuyệt đẹp.
Một lát sau, nàng nói:
“Được rồi, thế thì chúng ta làm gì bây giờ?”
“Tôi có đôi điều muốn nói với cô. Thú thật là tối nay khi đến đây tôi đã mang sẵn trong đầu một số ý định. Trước tiên, tôi muốn biết cô đã nghĩ gì khi mời tôi đến đây và điều đó thì bây giờ tôi đã hiểu và nó vượt ra khỏi những mong đợi của tôi. Điều thứ hai là tôi muốn cô cung cấp cho tôi một số tin tức và theo tôi nghĩ thì cô có thể giúp tôi chuyện này.”
Prudence nói ngay:
“Cung cấp cho anh à? Tôi sẽ không cung cấp cho anh bất cứ một thứ gì, kể cả cây diêm để anh mồi thuốc cũng không!”
Rồi, sau một lúc suy nghĩ, nàng tiếp:
“Ừ nhỉ, nhưng tại sao tôi phải dứt khoát với anh như thế?”
Tôi dịu dàng nói:
“Theo tôi biết thì trước khi bị sát hại, Howard Davis đang sống với một người vợ…”
“Ồ, làm gì có chuyện đó bởi Davis và Pénélope đã ly dị nhau!”
“Tôi muốn nói về người vợ đầu tiên của anh ta, một người tên Thelma. Cô có biết bà ấy không?”
Prudence bực dọc:
“Làm sao mà tôi có thể biết được chứ? Davis đâu phải là chồng tôi. Anh hãy hỏi điều đó với Pénélope đi!”
“Đương nhiên là tôi sẽ hỏi. Vậy còn Jonathan Blake, cô có biết chắc là giờ đây ông ấy đang săn sư tử ở Phi Châu?”
Nàng nhún vai:
“Thú thật thì tôi không chắc lắm. Nhưng tại sao anh cần biết chuyện đó?”
Tôi đáp, với một giọng đượm chút chua chát:
“Thưa, bởi vì ở Pin City hiện có một kẻ am tường hết mọi chuyện của quí vị. Người này biết khá nhiều nhưng có điều hắn là một kẻ nhút nhát nên nhất quyết giấu tên và chỉ nói chuyện với tôi qua điện thoại mà thôi.”
Một thoáng ngạc nhiên hiện lên trong mắt nàng:
“Thế anh có nghĩ đó là Blake? Nếu thế thì hắn đang có mặt ở Pin City à?”
“Tôi không biết nữa… Cô có biết chắc là Blake hiện ở đâu không?”
Prudence lắc đầu:
“Em không thể biết được. Cách đây một năm, kể từ khi ly dị, Blake hoàn toàn biến mất.”
“Cô và ông ấy chung sống được bao lâu?”
“Hai năm.”
“Và rồi cơm không lành canh không ngọt? Như cô đã nói, Blake là một tay săn thú nổi tiếng ở Phi Châu và hiển nhiên, cuộc sống ở trong rừng rậm là điều không phù hợp với cô…”
Nàng mỉm cười khó hiểu:
“Blake và em không có cùng một quan điểm về đời sống. Dẫu sao chăng nữa thì em cũng không hề cảm thấy thích thú khi ở cạnh hắn bởi hắn chỉ biết tự hào về dòng dõi của mình, về danh dự của gia đình. Tôi có theo Blake trong một chuyến đi săn và cảm thấy quá chán con người của hắn! Một con người vô tích sự và chỉ biết tự hào suông.”
“Và điều đó đã khiến cô đâm đơn ly dị?”
“Không. Với tánh tình như thế thôi thì tôi còn có thể chịu đựng được nhưng sau khi cha tôi bị nạn thì tôi không còn muốn trông thấy cái bản mặt của hắn ta nữa.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra cho ông cụ?”
Nàng nhướng mắt ngạc nhiên:
“Bộ trung úy không bao giờ đọc báo à?”
“Ồ! Tôi chỉ đọc mục âm nhạc thôi. Cô làm ơn kể cho tôi nghe đi.”
Giọng nàng trầm hẳn:
“Ba tôi rất thương Blake. Hai người rất hợp ý nhau. Theo tôi nghĩ thì đam mê săn bắn là một cơn dịch để lây lan vì thế cho nên, sau một thời gian quen biết với Blake, ba tôi cũng bắt đầu nghĩ tới chuyện đi săn. Cuối cùng, cả nhà quyết định làm một chuyến sang Nam Phi, tất cả là năm người, ba, Blake, tôi cùng với Pénélope và Davis. Hai người này vừa mới kết hôn và đây là chuyến trăng mật của họ…” Nàng bất chợt dừng “… để vui hưởng dưới một mái lều và muỗi mòng bao quanh!”
Tôi hỏi ngay:
“Rồi sao nữa?”
Nàng kể tiếp, giọng thơ ngây:
“Anh biết không, có một hôm con trăn đã chui vào lều của Davis và Pénélope và trườn lên giường của họ. Tuy ở trong đó mà họ không hay biết gì nên em phải đứng trước lều và hét lớn… Cảnh tượng cứ như là cháy nhà. Em thấy Pénélope kéo tấm bạt và chạy ào ra nhưng ngay lúc đó Davis đã giật ngược nàng lại để chen chân ra trước. Cái giật ngược này làm Pénélope mất thăng bằng và ngã xuống giường, ngay trên con trăn.”
“Rồi sao?”
Prudence tiếp, giọng vẫn thơ ngây:
“Hẳn chú trăn cũng không ngờ được sự thể lại như vậy. Nó bỗng dưng ưa thích con người và suốt vài tuần liền sau đó, nó vẫn sống quanh quẩn với tụi em.”
“Nghĩa là nó chỉ biết theo cô và Pénélope thôi chứ?”
Tôi mỉm cười khi trông thấy cái liếc mắt sắc bén của nàng và tiếp:
“Thôi, bây giờ chúng ta hãy trở lại với chuyện ông cụ thân sinh cô…”
Nàng nói, mặt thoáng buồn:
“Chẳng hiểu sao mà lúc đó ba em cứ dứt khoát là mình phải giết cho bằng được một con sư tử. Đúng là một ám ảnh. Ông dứt khoát không trở về nếu chưa săn được con mồi đó. Thế là trong vòng một tuần tụi em phải ngang dọc cả Phi Châu nhưng vẫn không tìm thấy một con sư tử nào.”
Prudence quay mặt đi rồi tiếp:
“Thế rồi một buổi sáng, khi mặt trời vừa lên thì sư tử xuất hiện. Blake là người đã nổ súng trước tiên nhưng phát súng đó chỉ làm cho con sư tử bị thương và vì thế nó nhảy chồm về phía đám người đi săn. Ba là người ở gần nhất và ông đã bóp cò nhưng súng bị tắc. Vài giây sau, Blake đã đốn hạ con sư tử, nhưng đã quá muộn…”
“Thế thì ông cụ đã bị sư tử vồ chết?”
Nàng nói nho nhỏ:
“Họ đã đưa xác ba về trại. Trông ông thật thảm thương… Ba là người em yêu quí nhất trên đời vì vậy em nghĩ rằng mình không thể sống nốt cuộc đời còn lại của mình với Blake. Mỗi lần trông thấy hắn là em nhớ đến tai nạn xảy ra cho ba… Vì vậy, em đã đâm đơn ly dị.”
“Ồ! Đó là chuyện năm ngoái rồi… Có điều tôi muốn biết là khi ra tòa ly dị, cô có đạt được những điều kiện tương tự như Pénélope hay cô phải chịu tiền trợ cấp cho Blake?”
“Em còn khôn khéo hơn Pénélope bởi vụ ly dị của em xảy ra trước Pénélope! Em đã có luật sư cố vấn và vì thế em không phải mất một xu nào cho Blake. Theo em biết thì hắn cũng chẳng cần mấy bởi hắn là kẻ có nhiều tiền lắm của. Sau đó em đã chỉ bảo cho Pénélope những thủ tục cần thiết để tiến hành ly dị Howard Davis.”
Chuông điện thoại bỗng reo lên. Prudence cau mày một hồi trước khi đưa tay nhấc ống nghe. Trong khi nàng trả lời điện thoại, tôi rót rượu vào ly và cố lắng tai nghe nhưng câu chuyện mà nàng trao đổi với ai đó không nói lên cho tôi một điều gì.
Nàng bắt đầu nói câu, “Prudence Calthorpe đây”, im lặng một lúc để nghe rồi cuối cùng cho biết, “Không được đâu, bây giờ tôi đang bận. Hãy gọi lại cho tôi vào sáng sớm mai nhé”. Chỉ có thế thôi.
Rồi nàng bước đến bên tôi và giải thích:
“Người gọi đến là một nhân viên phụ trách công việc kinh doanh của em. Tiền của mà em đầu tư nơi này nơi nọ vẫn không ngớt gia tăng và ông ấy phải gọi điện để báo cho em một vài sự việc! Em chẳng hiểu rõ về chuyện kinh doanh nhưng xem chừng có vẻ khá tiến triển.”
Nàng nhận ly rượu tôi trao với một vẻ biết ơn:
“Cảm ơn anh, em đang cần thứ này. Em đã trả lời anh mọi chuyện, vậy bây giờ anh còn thắc mắc gì nữa không?”
Tôi vẫn kiên trì:
“Còn hai điều thắc mắc nữa mà tôi muốn hỏi cô. Thứ nhất là tại sao cô đến Pin City này? Lý do khiến cho Pénélope đến đây thì tôi đã biết bởi cô ấy đang say mê cái chuyện truyền hình. Còn cô thì sao?”
Prudence nhõng nhẽo:
“Anh Al ạ, như anh biết đó, em không thể để cho Pénélope bơ vơ trong cái giai đoạn quyết định này của nàng! Đây là những bước đầu tiên của Pénélope trong lãnh vực truyền hình vì thế em đến đây để cổ vũ và ủng hộ tinh thần cho nàng! Thế còn cái thắc mắc kế tiếp của anh là gì?”
Không chút chần chừ, tôi nói ngay:
“Phải chăng cái gã am tường mọi chuyện đó là Blake, người chồng trước đây của cô?”
“Làm sao em biết được chứ? Với cái trí tưởng tượng phong phú của anh thì anh có thể nghĩ ra đủ mọi nhân vật! Với đôi mắt sáng như thế của anh thì đủ hiểu anh có thể tưởng tượng đến cái thứ gì! Lần đầu tiên khi trông thấy anh, đôi mắt anh như muốn xé toạc chiếc áo mà em đang mặc, có phải thế không?”
Tôi tức giận nói:
“Cô phải hiểu rằng nếu tay đó còn gọi điện cho tôi như thế một lần nữa thì chắc tôi phát điên mất! Tôi đã quá ngán cái lối truyền đạt điều này điều nọ của hắn!”
Prudence buông thõng tay và chiếc ly rơi xuống, vỡ tan. Mặt nàng tái mét và nàng nhìn tôi thật là kỳ lạ – có thể nói là nàng đang khiếp sợ.
Một lúc sau, nàng thì thầm:
“Có phải người đó đã bảo rằng muốn truyền đạt cho anh một số tin tức?”
“Đúng, hắn ta có lối nói như thế đó! Cứ mỗi lần gọi điện cho tôi là hắn cho biết là muốn truyền đạt cho tôi một tin mới.”
Nàng nói, thật nhỏ:
“Hắn là John Kẻ Đưa Tin…”
“Cô nói sao?”
Nàng lắc đầu:
“Ồ! Chẳng thể nào như vậy!”
Tôi nhắc lại:
“John Kẻ Đưa Tin? Phải chăng đây thực sự là tên của hắn? Thằng nào thế nhỉ?”
Nàng cố trấn tĩnh lại:
“Ô? Đó là cái tên mà em vừa bịa ra. Nghe cũng được quá, phải không anh? Em thấy nó thích hợp với cái chuyện mà anh vừa kể:”
“Cô xí gạt tôi! Nào nói thật đi, John Kẻ Đưa Tin là ai?”
Mỉm cười lẳng lơ, nàng giải thích:
“Này, anh phải hiểu cho em chứ. Bộ dưng không lại có một người tên là John Kẻ Đưa Tin hay sao? Đây chỉ là một cái tên xuất phát từ truyện bằng tranh!”
Nàng chăm chú nhìn tôi một hồi rồi quay gót biến vào phòng trong.
Tôi uống nốt phần whisky còn lại và thầm nghĩ mình phải làm gì trong những giờ phút kế tiếp nhưng rồi nỗi băn khoăn đó của tôi không kéo dài được lâu.
Từ phòng trong, có tiếng Prudence gọi:
“Anh Al, vào đây giúp em một tí!”
Tôi bước vào và thấy nàng đang đứng đó chờ tôi, lưng quay ra cửa.
Nàng nhỏ nhẹ ra lệnh:
“Anh hãy cởi hộ giùm em chiếc áo. Phía sau lưng đó!”
Tôi nghe theo và bước đến.
“Và bây giờ, để xem anh có đủ bản lãnh không nhé!”
“Em giở cái trò gì đây?”
“Nào, anh kéo hộ giùm em cái khóa phía sau áo đi!”
Chiếc áo tách đôi và rơi xuống chân Prudence.
Nàng quay lại, bộ ngực phập phồng theo hơi thở dồn dập. Nàng bá lấy cổ tôi và thì thầm:
“Hẳn anh còn nhớ, lần đầu tiên trông thấy anh nhìn em, em đã thầm nghĩ rằng nếu ta không đi đến cái giờ phút này thì chắc em buồn lắm.”
Nàng thở dài, lặng im một hồi rồi tiếp:
“Vậy mà anh cũng không cho em trái tim của Howard Davis!”
Khi bước đến giường, tôi nhận thấy cái sọ người vẫn còn đó, quấn quanh bởi chiếc khăn quàng bằng lông chồn vizon xanh quí hiếm.
Tôi hỏi:
“Phải chăng phù thủy Mary Miles là một cô gái già?”
Nàng tròn xoe mắt:
“Theo em nghĩ thì chắc vậy…”
“Chờ anh một chút!”
Tôi vươn tay và xoay cái sọ về hướng khác: bây giờ hai lỗ hỏm của mắt đã hướng về bốn cái đầu thổ dân Jivaros thu gọn bày trên tủ côm mốt.
Tôi nói với cái sọ:
“Rất tiếc nhé cô Mary Miles, nhưng như vậy thì tôi cảm thấy an tâm hơn!”
Prudence nhận xét:
“Cô Mary Miles này có thói quen mỉm cười thật duyên dáng với bốn cái đầu đó để rồi bọn chúng sẽ hát cho cô nghe một dạ khúc.”
“Dạ khúc gì thế em?”
“Bài “Tôi vẫn là kẻ cô đơn trên đời”…”
Và tôi cúi xuống hôn nàng để ngăn không cho nàng nói tiếp.