Dàn máy Hi Fi vẫn đều đặn nhả ra một giọng ca tình tứ trong khi tôi thừ người trên ghế bành, cầm trên tay ly rượu và tay bên kia là điếu thuốc. Bản nhạc nói lên tâm sự của một người con gái cô đơn tuy vậy, tôi không còn đầu óc đâu để lắng nghe. Trên chiếc bàn nhỏ ở tầm tay tôi là máy điện thoại. Bây giờ đã gần chín giờ và càng lúc tôi càng thấy bồn chồn hơn.
Đúng chín giờ, chuông điện thoại reo vang. Tôi vội vã cầm lấy ống nghe và lên tiếng ngay.
Ở đầu dây bên kia cũng vẫn là cái giọng nghèn nghẹn đó:
“Nếu muốn tóm cổ tên sát nhân thì trung úy phải nhanh lên chứ!”
Tôi bực tức:
“Vậy thì tôi phải làm gì bây giờ? Không lẽ tôi phải nhanh chân đi đăng báo tìm hung thủ à?”
“Vào lúc này hắn đang toan tính đánh cắp thêm một tử thi ở nhà xác. Nếu nhanh chóng, trung úy có thể bắt hắn tại trận.”
Một tiếng ’clic’ và thế là cuộc trao đổi chấm dứt.
“Chà?” tôi thốt lên và cũng gác máy.
Cứ là một lũ điên… Phải chăng là một trò nữa của John Kẻ Đưa Tin? Hay là… Tôi lại nhấc điện thoại và quay số nhà xác, nhưng chuông điện thoại vẫn reo mãi mà không thấy ai trả lời. Tôi gọi về tổng đài để hỏi xem đường dây ở đó có hư hỏng gì không.
Chỉ vài giây sau, tổng đài gọi về tôi thông báo:
“Thưa ông, đường dây ở đó vẫn không có gì trở ngại. Chắc không có ai ở đó để trả lời ông?”
“Ồ, thật ra thì ở đó đâu có thiếu người… Thôi, xin cảm ơn vậy!”
Tôi vội vã rời khỏi căn hộ và chui ngay vào chiếc Austin Healey. Mười phút sau, tôi đến nhà xác sau khi đã vượt qua tất cả những ngã tư đến đó. Dừng xe cách cổng vào khoảng hai chục thước, tôi đi bộ đến đó.
Như mọi khi, ngọn đèn màu xanh trên cổng vào hắt ra một thứ ánh sáng rất ư là thân tình và êm ả. Tôi thầm nghĩ, nếu trong ngôi nhà này có một con quỷ nào trông như Bruno và thủ sẵn ở đó những dụng cụ như của y, thì chắc tôi khỏi phải làm đơn xin thôi việc, bởi lúc đó chắc con tim nhỏ nhoi của tôi đã đóng cứng cánh cửa tự động đóng lại một tiếng “sịch” nhẹ. Thế là, tựa như một nhà thơ đã nói: tôi bây giờ một mình đối diện với đêm đen….
Tôi đứng im một lúc để làm quen với bóng tối. Một lúc sau, tôi mới nhận ra rằng chiếc bóng của tôi in đậm trên khung kính lờ mờ phía sau là một mục tiêu rất lý tưởng cho bất cứ ai đang rình rập trong phòng này.
Tôi rút súng ra khỏi bao, mở khóa an toàn và tiến vài ba bước về phía bóng tối dày đặc trước mặt.
Phải chi tôi nhớ mang theo cây đèn pin thì hay biết mấy!
Nhưng lúc này tôi nào có nhớ gì đâu… Tôi tiến thêm vài bước nữa, đụng phải cái quầy và thế là tôi đi men theo nó. Vẫn dò dẫm, tôi đẩy cánh cửa nhỏ để hướng về phòng đông lạnh. Cửa phòng này để mở và khi đứng ở ngưỡng cửa tôi thấy cái lạnh ẩm thấp nơi đây phả vào mặt tôi như những bàn tay đã thoát xác đang cố tình trêu chọc.
Tôi rùng mình và nổi gai ốc khắp người… Chính vào lúc này, tôi bỗng nghĩ đến Charlie Katz. Tôi cảm thấy căng thẳng và biết rằng mình đang ở trong một tâm trạng mà nếu có một cái gì đó hoặc một ai đó – bất chợt động đậy trong bóng tối, thì đương nhiên tôi sẽ không ngần ngại nhả đạn ngay. Và nếu chẳng may nếu người đó là Charlie thì sau này tôi sẽ hối hận biết bao?
Tôi lớn tiếng gọi:
“Charlie? Charlie? Ông thần ơi, ông đang ở đâu vậy?”
Vẫn hoàn toàn im lặng. Tôi lê bước và tiến thêm sáu bước nữa, cho đến khi bàn tay trái của tôi chạm phải gờ của một cái hộc. Dọc hai bên tường là hàng kệ chứa những cái hộc đông lạnh với bên trong là xác người – điều mà tôi cố né tránh, không dám nghĩ đến.
Tôi vẫn tiếp tục tiến sâu vào, từng bước một, bàn tay trái men nhẹ theo những cái hộc để định phương hướng. Lúc này tôi hầu như đã tiến vào bên trong cùng cửa phòng đông lạnh và rồi, bỗng nhiên, không một tiếng động báo trước, có hai bàn tay lực lưỡng, xuất hiện từ khoảng hư vô, chụp lấy cái cổ của tôi, siết lại. Cùng lúc đó, một tiếng nổ dữ dội như xuyên thủng màng nhĩ của tôi: trong cơn kinh hoảng này, tôi đã tự động nhấn cò. Tôi cố vùng vẫy một cách tuyệt vọng để chống chọi với sự nghẹt thở và rồi đột nhiên tôi có cảm tưởng như ai đó đang muốn bứt cái đầu của tôi ra khỏi đôi vai.
Đôi chân của tôi bị nhấc bổng ra khỏi mặt đất và tôi vùng vẫy như một kẻ mê sảng. Tôi buông rơi khẩu súng với hy vọng là có thể dùng cả hai tay để tháo gỡ cái siết cổ đang làm tôi nghẹt thở nhưng mọi nỗ lực của tôi đều vô ích. Vang vang bên tai tôi là một tiếng cười khẩy nghèn nghẹn và tiếp sau tiếng cười đó là lại một cái siết mạnh, đau đớn. Đồng thời tôi cảm thấy mình bị nhấc bỗng theo chiều ngang. Bỗng chốc, cổ tôi không còn bị siết chặt nữa. Tôi có cảm giác như mình bị hất tung và bay lượn trên khoảng tối đen.
Và tôi đột ngột rơi xuống. Vùng tối đen nổ tung trong mắt tôi tựa những đốm pháo bông, nhưng những đốm pháo này chỉ lóe lên thật ngắn ngủi và sau đó, tôi không còn cựa quậy gì nữa. Tôi lịm dần vào đêm đen.
***
Vừa mở mắt ra, tôi thấy choáng váng bởi một thứ ánh sáng chói chang và phải nhắm ngay mắt lại.
Có giọng nói lo âu kề cận:
“Sao, trung úy thấy đỡ chưa?”
Tôi hé một mắt để liếc nhìn cái khuôn mặt đó. Khuôn mặt trắng bệch như mỗi tấm vải liệm đang cúi xuống nhìn tôi với một vẻ lo âu.
Tôi lầu nhầu nho nhỏ:
“Tôi không còn sống nữa. Hãy đặt xác tôi vào hộc đông lạnh và để cho tôi yên.”
Nhưng ngay sau đó, khi hiểu rõ những gì mình vừa nói, tôi vùng ngay dậy và quả quyết:
“Tôi đùa đấy! Bây giờ, tôi thấy rất khỏe!”
Những bức tường chao đảo, ngả nghiêng về phía trước, tạo thành một góc bốn mươi lăm độ và bắt đầu quay cuồng quanh cái trục của chúng trước khi dựng thẳng lên. Tôi nhắm mắt lại, chờ đợi và khi tôi mở mắt ra thì thấy chúng đã thẳng tắp ở những vị trí cũ.
Cố nén mừng rỡ, Charlie Katz nói:
“Bây giờ trung úy khá rồi đây nhưng trông cái vẻ bề ngoài của trung úy thật là kỳ cục!”
Tôi liếc mắt nhìn cục u ở trán lão với bên trên là một vết thương đang rỉ máu:
“Bộ bác tưởng đẹp đẽ lắm sao với những thương tích đó?”
Nói xong, tôi cố hết sức để đứng dậy. Sau khi đã đứng được trên hai chân, tôi bắt đầu xem xét hình hài của tôi. Bộ complet của tôi xem như vứt bỏ với quần bị thủng ở đầu gối và áo veston bị xé toạc phía trước ngực. Nhưng chuyện đó không hề gì bởi điều quan trọng đối với tôi hơn cả là liệu bản thân tôi có còn xài được nữa không… Tôi cựa quậy tay chân với một vẻ đắn đo và biết rằng, tuy chúng không muốn cử động chút nào, nhưng dẫu sao chúng vẫn còn lành lặn và có thể sử dụng được. Rồi tôi đưa hai tay lên ôm cổ và từ tốn xoay xoay cái đầu. Có lẽ tôi là kẻ duy nhất đã nghe thấy tiếng “rắc” khủng khiếp đó, nhưng tôi biết là tôi không lầm bởi chỉ đụng nhẹ đến thôi là tôi thấy đau đớn lắm. Tôi không còn có cảm giác về cái cổ của mình nữa và thay vào đó là một sự đau nhức đang nối liền cái đầu của tôi với hai vai. Tuy vậy, sau khi đã kiểm tra sơ qua, tôi cảm thấy an tâm hơn vì những đốt sống của tôi xem chừng không hề hấn gì.
Charlie lên tiếng:
“Chà, trung úy coi bộ lãnh đủ! Để tôi lấy cái gương nhỏ cho trung úy xem nhé!”
“Ờ… mà này, ông có chút gì uống để phục hồi sức khỏe trong trường họp nguy kịch không?”
“Có chứ” Lão miễn cưỡng đáp. “Nhưng trung úy hãy nhớ rằng whisky không phải là của chùa!”
Lão mở tủ và lấy ra một chai whisky loại tồi, đã vơi đi đôi chút, và hai cái ly. Tôi nhìn vào gương trong khi lão rót rượu ra ly. Phải công nhận là Charlie nói không sai: khuôn mặt tôi trông thảm thương hết sức. Máu vẫn nhỏ giọt từ vết thương trên mày phải của tôi, ướt đẫm gò má và cổ áo sơ mi. Ngay giữa trán là một cục u to tướng. Dưới cằm thì thiếu một mảng da và để lộ hẳn mớ thịt đỏ hoe trông kinh khiếp.
Tôi quyết định dừng lại nơi đó và không kiểm tra thêm, như thế để cho tinh thần khỏi xuống dốc. Tôi đưa tay đón nhận ly rượu mà Charlie trao cho, lòng đầy biết ơn. Whisky mang lại cho tôi một cảm giác dễ chịu. Tôi uống cạn ly rượu, châm một điếu thuốc và hỏi Charlie về chuyện xảy ra.
Charlie nói ngay:
“Trung úy à, tôi buộc lòng phải xin thôi việc. Chỉ một tuần mà bị tấn công hai lần như thế này là chuyện không thể chấp nhận được!”
“Đúng vậy. Nhưng chuyện gì đã xảy ra chứ?”
Lão nói, cay đắng và bực tức:
“Thì cũng y hệt như lần trước. Nghe có tiếng gõ cửa, tôi đến mở nhưng không thấy ai bước vào và thế là tôi thò đầu ra” và bụp!
“Bác có lý đó, Charlie ạ! Bác cần phải xin thôi việc chứ nếu không thì sẽ thành thói quen mất!”
“Còn trung úy, chuyện gì đã xảy ra cho trung úy?”
Tôi kể cho Charlie nghe về chuyện cú điện thoại, việc tôi gọi đến nhà xác nhưng không ai trả lời và cuối cùng là tôi đã quyết định đích thân đến đây để tìm hiểu rõ hơn.
Charlie xem chừng không tán đồng về sự dũng cảm của tôi khi đến đấy một mình để giải nguy cho lão. Lão phê bình:
“Nếu như bảo anh em khác thì có lẽ trung úy đã đến đây với ba xe cảnh sát để bao vây khu nhà này. Như thế thì hung thủ khó lòng chạy thoát.”
“Thôi, bác đừng nói nữa… Đó là chuyện mà tôi chỉ nghĩ đến sau khi xảy ra đụng độ.”
Lão vẫn còn ấm ức:
“Trung úy cứ xem phim hoạt hình thì biết, có bao giờ một nhân viên hình sự mà đi một mình đâu! Luôn luôn là có kẻ đi kèm hay ít nữa thì cũng dẫn theo một con chó!”
Mình mẩy ê ẩm cùng với cái lối nói đó của Charlie làm tôi phát cáu:
“Thì tôi đồng ý với bác nhưng nếu ở vào địa vị của bác thì tôi sẽ câm mõm ngay bởi nếu không sẽ có nguy cơ lãnh một cú đấm vào mặt.”
Lão nói, không chút gì là tức giận hay sợ sệt:
“Trung úy còn chờ gì nữa mà không báo cáo nội vụ về sở? Tôi liên tục bị lãnh gậy vào đầu thế mà có ai hay biết gì đâu?”
“Có chứ, tôi biết chứ. Còn người khác có biết hay không thì mặc họ. Nào, bây giờ bác hãy rà soát xem có mất mát gì không.”
“Được” lão miễn cưỡng đáp.
Tôi dõi mắt nhìn trong khi lão tuần tự mở những hộc đựng xác ra để kiểm tra rồi đóng lại. Tôi lợi dụng lúc lão quay lưng đi để rót thêm một ít whisky. Cuối cùng, lão trở lại bên tôi và gật đầu:
“Không mất mát gì. Như thế này thì tôi chẳng hiểu…”
“Có gì đâu mà bác không hiểu! Mọi việc rõ như ban ngày, nghĩa là tôi đã xuất hiện đúng lúc và vì thế hung thủ đã sợ hãi nên không thể thực hiện ý đồ đen tôi của hắn!”
Charlie chăm chú nhìn khuôn mặt sưng húp của tôi bằng một ánh mắt rầu rĩ.
“Cũng may cho trung úy đó! May mà hắn còn biết sợ chứ nếu không, hắn có thể giết trung úy…”
Tôi nói, rất khiêm nhường:
“Dẫu sao đi nữa thì tôi đã đuổi được hắn ra khỏi đây!”
“Tôi không…”
Lão ngưng ngang và nhìn vào cái ly của tôi với một ánh mắt nghi ngờ:
“Tôi tưởng ly rượu của trung úy đã cạn rồi chứ?”
“Vậy à?”
Charlie bước nhanh về phía chai rượu, chụp lấy nó và đưa lên ánh đèn để quan sát mức rượu.
Lão gào lên:
“Đồ khốn! Ông đã uống trong khi tôi quay lưng đi!”
Tôi thắc mắc:
“Làm sao bác biết được chứ?”
“Có khó gì đâu! Cứ mỗi lần uống là tôi lấy bút chì ra để đánh dấu. Bộ ông tưởng tôi là gì” tỉ phú à? Tôi làm gì có thừa tiền để cho ông súc miệng bằng rượu chứ?
Tôi ôn tồn nói:
“Bác chớ có bủn xỉn. Bác phải hiểu rằng chính tôi là người đã cứu sống bác! Nếu tôi không đến đây và làm cho hung thủ sợ hãi để bỏ trốn thì có thể hắn đã…”
Charlie thô bạo ngắt ngang lời tôi:
“Trung úy nhận được cú điện vào lúc mấy giờ? Có phải là chín giờ?”
“Chín giờ, đúng vậy. Tôi đã nghĩ đó là…”
Charlie nói lớn, vẻ khinh thường:
“Như thế thì hay ho gì! Tôi đã nhìn đồng hồ khi nghe có tiếng gõ cửa và lúc đó là đúng tám giờ rưỡi. Trung úy phải mất ít nữa là mười lăm phút để đến đây, như thế là thủ phạm có thừa bốn mươi lăm phút để làm bất cứ điều gì hắn muốn.”
Tôi ngượng ngùng nói:
“Thôi, bây giờ chúng ta xem lại các hộc đựng xác một lần nữa nhé?”
“Ồ! Tôi đã kiểm soát xong. Không thiếu ai cả.”
“Bác có bao nhiêu khách tất cả?”
Tôi kiên trì nói:
“Tôi muốn đích thân kiểm tra lại. Nào, bác hãy chỉ cho tôi những cái hộc có chứa xác!”
Charlie lầu nhầu rồi làm theo lời tôi. Cái hộc thứ nhất chứa xác của cô gái đã bị đánh cắp và sau đó được tìm thấy trong studio đài truyền hình. Xác thứ hai là một ông già. Tôi mở cái hộc thứ ba và trông thấy Thelma Davis với đôi mắt trợn trừng kinh ngạc như tôi đã gặp bảy tiếng đồng hồ trước đây. Tôi vội vã đóng hộc lại.
Cái hộc thứ tư là của Howard Davis. Khi khom người để nhìn kỹ hơn, tôi thấy tấm vải liệm bị vấy bẩn ở ngang tầm ngực.
Tôi nói, cáu kỉnh:
“Bộ bác không có được một tấm vải liệm sạch sẽ hay sao? Này Charlie, đó là điều tối thiểu mà ta buộc phải cung cấp cho họ.”
Charlie chưng hửng:
“Trung úy nói sao lạ thế? Tôi vẫn sử dụng những tấm khăn thật sạch! Trung úy tưởng tôi là hạng người gì chứ? Tôi luôn luôn tôn trọng những người đã quá vãng!”
“Nhưng người này thì bác có tôn trọng đâu!”
Charlie chồm tới, tức tôi:
“Đâu? Để tôi xem nào!”
Tôi chỉ tay về cái đốm bẩn màu nâu Charlie đỏ mặt, thốt lên: đã dùng khăn mới nhận từ tiệm giặt ủi…(Lão nghiêng người về phía trước). Nhưng sao lạ vậy nè! Chắc có chuyện không ổn…
Charlie kéo tấm vải xuống và cùng lúc đó, tôi nghe có tiếng ùng ục phát ra từ họng lão trông thấy cái lỗ toang hoác nơi ngực Davis. Tôi quay nhanh mặt đi để khỏi trông thấy cảnh tượng đó, Charlie tựa người vào hàng kệ, mặt tái xanh, mắt mở to khiếp đảm.
Tôi đóng hộc lại và chạy vội đến chụp chai rượu cùng lúc với Charlie. Hẳn lão ta đã quá sửng sốt đến nỗi không hề phản đối tiếng nào khi trông thấy tôi rót đầy hai ly rượu.
Sau khi tôi đã nốc cạn phần rượu của mình thì Charlie cũng bắt chước uống cạn theo tuy vậy, sự khiếp đảm của lão cũng không vơi chút nào… Mặt lão vẫn còn tái mét và đôi mắt vẫn trợn trừng kinh khiếp.
Tôi trấn an:
“Nào Charlie, hãy can đảm lên! Tôi biết bác đang bị sốc, nhưng trong đời hẳn bác đã từng gặp những cảnh ghê rợn hơn chứ!”
Lão gật gù và lẩm bẩm một điều gì đó.
Tôi phát bực:
“Thế thì chắc đây là chuyện kinh dị nhất mà bác từng gặp trong đời! Vậy mà lâu nay tôi vẫn tưởng bác là người không hề biết sợ..”
Môi run rẩy, lão hỏi nhỏ:
“Trung úy đã thấy gì chưa?”
“Thì đương nhiên! Hẳn phải là thằng điên mới chơi trò phanh thây xác chết ra như thế.”
Charlie yếu ớt gật đầu:
“Nhưng trung úy không hề thấy… Nó không còn đó nữa!”
“Nó không còn nữa à?” Tôi lặp lại câu nói của lão và cố giữ điềm tĩnh để khỏi đấm thẳng vào mặt lão. “Bác muốn nói ai không còn?”
Vẻ thảm thương, Charlie nói nho nhỏ:
“Trái tim đã mất rồi. Hung thủ đã cắt trái tim của tử thi và mang đi!”