Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đắm Đuối

Chương 8

Tác giả: Carter Brown

Tôi quyết định trở về sở và dừng lại ở một quán bên đường để ăn qua loa đôi chút. Tôi ăn cho qua bữa và biết rằng như thế hôm nay… Đúng bốn giờ, tôi bước vào văn phòng.

Vừa trông thấy tôi cô thư ký với bộ mặt khó ưa đã nói ngay:

“Trung úy Wheeler à, ông cảnh sát trưởng cần gặp trung úy gấp đấy!”

“Vâng, tôi biết chứ!… Thiếu tôi là ông ấy chịu hết nổi!”

Nàng mỉm cười, dí dỏm:

“Theo cái giọng của ổng thì em biết ổng đang cố hết sức để chịu đựng!”

Tôi gõ cửa phòng làm việc của Lavers rồi không chờ trả lời, tôi mở ra, tự động bước vào và đóng cửa lại.

Mặt không vui, ông cảnh sát trưởng nhìn tôi lầu nhầu:

“Cậu ngồi xuống đi, Wheeler. Sao vụ án Davis đã giải quyết đến đâu rồi?”

“Thì cũng đang xúc tiến” tôi thận trọng đáp. “Nhưng theo tôi nghĩ thì hẳn ông cũng không mấy quan tâm đến nó?”

Trước đây ông có nói với tôi là nếu tôi không tóm được tên sát nhân thì ông sẽ giao vụ này cho biệt Đội hình sự mà?

“Đúng! Nhưng có điều là trong mấy ngày gần đây tôi đã thay đổi ý kiến. Như cậu hiểu, bây giờ thiên hạ đều biết nạn nhân chính là Howard Davis và báo chí bắt đầu quan tâm đến chuyện này. Chính vì vậy mà tôi phải ra tay để xoa dịu dư luận, bởi nếu không thì sau này tôi ăn nói ra sao khi ra tranh cử?”

“Vâng.”

Lavers châm một điếu xì gà và nhìn chòng chọc vào mắt tôi:

“Nào, bây giờ cậu hãy cho tôi biết đã tới đâu?”

“Thưa, cái gì đã tới đâu ạ?”

“Thì diễn tiến điều tra của cậu, những thành quả mà cậu đã đạt được!”

Ông đột ngột đứng dậy và nói tiếp ngay:

“Nếu tôi không lầm thì chắc cậu vẫn đeo đuổi cuộc điều tra chứ?”

“Vâng, thưa ông tôi đang đeo đuổi cả ngày lẫn đêm.”

Lavers càu nhàu:

“Ừ, được. Tôi thấy tốt hơn hết là không nên hỏi về những công việc mà cậu phải đeo đuổi vào ban đêm. Bây giờ cậu hãy trình bày cho tôi rõ diễn tiến của cuộc điều tra để nếu bên tư pháp hỏi thì tôi có thể trả lời.”

Tôi nói cho ông về những điểm chính yếu của vụ án, nhưng không quá đi sâu vào chi tiết:

“Này, cậu có chắc chắn nhân vật John Kẻ Đưa tin là một nhân vật có thật? Cậu không nằm mơ hay xỉn bậy chứ?”

“Vâng, đây là chuyện hoàn toàn có thật.”

Ông cảnh sát trưởng cáu kỉnh hỏi:

“Thế thì tại sao cậu lại để hắn vuột đi, sau khi cậu đã cho hắn biết là cậu sẽ bắt giữ hắn vì hắn là nhân chứng và là tình nghi đồng lõa? Theo tôi nghĩ, đối với cậu, tóm cổ hắn là chuyện dễ như trở bàn tay. Sao cậu lại bỏ qua?”

“Như ông đã biết, trong khi tiến hành công tác tôi thường cho khá nhiều người biết rằng tôi sẽ bắt giữ họ với lý do họ là nhân chứng và tình nghi đồng lõa. Nhưng rồi tôi đã bỏ qua. Sở dĩ như thế có lẽ là vì tôi mắc phải một thứ mặc cảm rằng mình là kẻ có quyền hành…”

Lộ hẳn sự tức tối, ông Lavers nhìn thẳng vào tôi:

“Wheeler ạ! Tôi vốn là kẻ kiên nhẫn nhưng cậu phải biết là sự kiên nhẫn của tôi cũng có giới hạn! Cậu hãy cho tôi biết tại sao cậu lại… để vuột John Kẻ Đưa Tin?”

Tôi bình tĩnh đáp:

“Thưa ông, bởi tôi nghĩ rằng để cho hắn tự do thì sẽ có ích cho chúng ta hơn là nhốt hắn vào tù. Không sớm thì muộn hắn cũng mắc phải lầm lẫn … Và lúc đó tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ phanh phui được nhiều điều!”

Lavers há miệng định nói một câu gì đó nhưng tiếng chuông điện thoại reo lên. Ông cầm lấy ông nghe và nói “Lavers đây” bằng một giọng khô khốc, lắng nghe một lúc, thỉnh thoảng lại gừ lên một vài tiếng như thế muốn cho kẻ ở đầu đây bên kia biết rằng ông vẫn còn sống đấy. Cuối cùng ông nói, “Cảm ơn. Trung úy Wheeler sẽ đến ngay” và gác máy.

Tôi hỏi:

“Thưa ông, tôi phải đến đâu ạ?”

“Cú điện vừa rồi là của toán cảnh sát tuần tra. Cách đây mười phút, họ phát hiện một xác phụ nữ ở bên đường. Được biết nạn nhân tên là Thelma Davis, ngụ tại San Francisco.”

“Xác bà ta được tìm thấy ở đâu?”

“Ở phía đông, cách thành phố khoảng mười cây số, cạnh con đường đất dẫn ra đèo. Hiện xe tuần tra cảnh sát đang chờ trung úy ở đó.”

“Được, tôi sẽ đến.” Tôi nói và bước ngay ra cửa.

Ông cảnh sát trưởng gọi lớn:

“Này Wheeler! Cậu có nghe tôi không? Cậu phải làm một cái gì đi chứ! Tôi hạn cho cậu thêm hai mươi bốn giờ nữa. Sau đó tôi buộc lòng phải nhờ đến Đội Cảnh Sát Hình Sự.”

“Vâng, tôi hiểu. Bà ấy chết ra sao?”

Ông cảnh sát trưởng từ tôn nói:

“Bà ấy bị vặn cổ. Bây giờ tôi bắt đầu tin là nhân vật John Kẻ Đưa Tin của cậu là chuyện có thật.”

Tấp chiếc Austin Healey vào lề, tôi đậu lại ở sau chiếc xe tuần tiễu và nhảy xuống. Polnik cũng nhảy ra khỏi xe và thở phào nhẹ nhõm. Một nhân viên cảnh sát bước về phía chúng tôi và đưa chúng tôi đến hiện trường.

Anh ta nói:

“Tụi này đã phát hiện cái xác trong một trường hợp thật bất ngờ. Khi đang trên đường tuần tra và ngang qua đây thì bỗng nhiên một cơn gió đã thốc váy của nạn nhân lên. Mới đầu tôi chỉ liếc mắt qua” cứ tưởng như là một lá cờ hoặc đại khái là một vật gì như thế đang phất phơ trên cỏ. Rồi tụi tôi đã dừng xe lại để nhìn cho rõ hơn.

Tôi và Polnik đến gặp người cảnh sát thứ hai. Ông này chỉ tay về một nơi cỏ mọc um tùm. Cái xác của Thelma Davis đang nằm sấp ở đó, với cái đầu bị vặn gãy đến nỗi đôi mắt trợn trừng của nạn nhân như chăm chú nhìn chúng tôi một cách ngơ ngác.

Polnik nói, giọng khàn khàn:

“Đối với tôi thì cô này không hiền lành gì, nhưng ai mà đi giết người ta một cách dã man như thế! Ngay cả với một con chó người ta cũng không vặn cổ như vậy!”

Viên cảnh sát chỉ tay về một chỗ cách nạn nhân khoảng vài thước:

“Chúng tôi đã tìm thấy xắc tay của cô ấy ở đây. Trung úy có muốn xem qua không?”

“Có gì trong đó?”

“Chẳng có gì quan trọng. Son môi, lược, phấn sáp, mười đô la tám mươi xu, một tập ngân phiếu, thẻ bảo hiểm xã hội, viết bic, khăn tay” chỉ có bấy nhiêu thôi trung úy. Nhưng có điều là trước đó, xách tay của nạn nhân đã bị lục lọi.

“Nghĩa là hung thủ đã lục xét xách tay của nàng?”

“Theo tôi nghĩ là như vậy và nếu tôi không lầm thì hung thủ cũng đã khám xét cái xác. Khi chúng tôi đến đây thì váy của nạn nhân bị kéo phủ đầu và, như ông thấy đó, quần áo lót của cô ta đã bị xé rách. Hung thủ chắc phải vội vã lắm thì phải! Chẳng hiểu hắn có tìm thấy cái mà hắn muốn tìm?”

Polnik nói xen vào:

“Hắn có thể là một tên bệnh hoạn. Phải chăng là một kẻ cuồng dâm?”

Tôi đáp:

“Chuyện đó bác sĩ pháp y sẽ cho chúng biết sau. Thế bác sĩ có đến không?”

Người cảnh sát đầu tiên nói:

“Thưa trung úy, chúng tôi đang chờ bác sĩ pháp y tới.”

Chúng tôi đã gọi diện về Pin City và ở đó người ta đã thông báo cho ông cảnh sát trưởng cũng như cho bác sĩ pháp y.

“Có phải trung úy đặc trách điều tra vụ Davis?”

“Đúng vậy.”

“Phải chăng nạn nhân đây là vợ của ông ấy?”

“Đúng, nhưng họ đã ly dị nhau rồi.”

Viên cảnh sát gật đầu:

“Thật kinh khiếp … Tôi vốn không ưa trông thấy cảnh đàn bà bị giết chóc, đã thế cái chết này lại quá ghê rợn!”

Tôi nói:

“Ồ! Đúng vậy. Thôi, cảm ơn các anh nhé. Tôi trông thấy như thế này là đủ rồi. Bây giờ tôi có việc cần phải đi nên không chờ bác sĩ pháp y đến được. Có lẽ tôi sẽ đọc báo của ông sau.”

Tôi và Polnik trở về xe và phóng nhanh đến Park Hotel. Chiếc xe quá chật đối với tấm thân to lớn của viên trung sĩ nếu hắn không giấu được vẻ mừng rỡ khi tôi dừng lại trước khách sạn. Cả hai chúng tôi chạy vội vào trong.

Tôi đến gặp ông quản lý khách sạn để cho ông biết sự việc xảy ra.

“Cô Thelma bị giết à?” Ông thốt lên kinh ngạc.

Đôi má của ông bắt đầu run lên nhè nhẹ và ông nói tiếp:

“Cô Thelma là một người khách thật dễ mến… Phải nói cô ấy rất là lịch sự, nhã nhặn!”

“Vâng, chúng tôi cần chìa khóa phòng của cô Thelma!”

“Thưa trung úy, có ngay ạ!”

Ông đưa tay rút một cái chìa khóa từ trong ngăn và trao tôi. Tôi trao nó lại cho Polnik cùng với lời căn dặn là lục xét căn phòng.

“Vâng, xong ngay” Hắn năng nổ nói và vọt đi.

Nhưng vừa leo được khoảng sáu bậc thang, hắn bỗng dừng lại và quay đầu nhìn tôi:

“Này trung úy, tôi cần phải tìm cái gì đó?” Hắn thắc mắc hỏi.

“Tôi chẳng biết nữa … Cậu cứ lên đó trước đi, lát nữa tôi sẽ lên sau.”

Lần này, Polnik lên cầu thang với một dáng điệu vững tin hơn.

Tôi quay sang ông quản lý:

“Ông có biết cô Thelma đã rời khỏi khách sạn vào lúc nào chứ?”

“Vâng, tôi biết. Sở dĩ như thế là vì nhằm vào ngày trực của tôi. Tôi trực vào thứ ba, ngày nghỉ trong tuần của Joe, nhân viên tiếp tân…”

“Thế cô ấy ra khỏi khách sạn lúc mấy giờ?”

“Lúc đó khoảng một giờ rưỡi.”

“Trước đó có ai đến đây tìm gặp cô ta?”

“Theo tôi biết thì không” đương nhiên là không kể trung úy đã đến hồi sáng.

“Vâng, tôi còn nhớ điều đó chứ. Tôi chỉ muốn hỏi là trong khoảng thời gian cô Thelma sống ở đây, đã có ai tìm gặp cô ấy?”

“Riêng tôi thì không biết nhưng Joe có thể trả lời trung úy về chuyện này …”

“… Chỉ tiếc một điều là hôm nay là ngày nghỉ của anh ấy. Tôi biết chứ! Vậy, có ai gọi điện cho Thelma vào sáng nay?”

Ông quản lý lịch sự nói:

“Rất tiếc, tôi không thể xác định với trung úy điều này. Khách sạn không có điện thoại cho từng phòng nhưng ở hành lang của mỗi tầng đều có một điện thoại.”

Tiếng bước chân nặng nề làm tôi phải ngừng đầu lên. Khuôn mặt nhăn nhúm, Polnik đang bước xuống những bậc thang cuối cùng.

Tôi tức tối hỏi lớn:

“Bộ cậu quên tôi đã dặn gì rồi sao?”

Hắn hổn hển đáp:

“Chỉ tốn công mất thời giờ thôi trung úy ạ. Cứ như là cái nhà hoang ở trên đó … Mọi vật đã bị ai đó xáo tung.”

Dứt khoát hôm nay không phải là ngày lành tháng tốt. Tôi châm một điếu thuốc và liếc nhìn ông quản lý, lòng không chút hy vọng tìm được lời giải đáp.

Tuy vậy, tôi vẫn nói:

“Ông hãy cố nhớ đi, có ai đến hỏi cô Thelma? Ông có trông thấy một kẻ lạ mặt nào ở phòng tiếp tân?”

Ông ta lắc đầu:

“Thưa trung úy, tôi chẳng trông thấy ai. Nhưng có điều là cầu thang cấp cứu của khách sạn này nằm ngay bên ngoài cửa sổ của các phòng bên từ con hẻm phía sau khách sạn, bất cứ ai cũng có thể leo lên được.”

“À … Thôi, xin cảm ơn ông vậy!”

Viên quản lý hỏi, vẻ ngần ngại:

“Bộ trung úy đi à?”

“Vâng, thì tôi đi đây” Tôi nói trong khi bước ra cửa.

Bằng một giọng e dè, ông gọi tôi:

“Này trung úy? Tôi rất tiếc phải làm phiền trung úy … vẫn bước về phía cửa, tôi đáp:”

“Không hề gì …”

“Trung úy à!” Ông ta bỗng gào lên một cách tuyệt vọng. “Thế thì tôi phải làm gì với cái bao thư mà cô Thelma đã dặn tôi là phải cất hộ cô ấy, trong tủ sắt?”

Tôi dừng phắt lại và đồng thời Polnik cũng dừng theo. Tôi và hắn tròn xoe mắt nhìn nhau một hồi và quay lại quầy tiếp tân.

Thái độ của viên quản lý trông bối rối thấy rõ. Ông nói:

“Trung úy thứ lỗi cho vì đã làm mất thời giờ của trung úy … Nhưng tôi muốn biết là mình phải làm gì với cái bao thư đó?”

Tôi nhỏ nhẹ gợi ý:

“Ông có thể trao nó cho tôi.”

Khuôn mặt ông ta sáng rỡ:

“Ồ, thế thì tôi nhẹ nhõm hẳn! Trung úy hãy chờ một chút, để tôi đi lấy ngay.”

Tôi phải chờ hết ba mươi giây dài lê thê mới trông thấy ông ta mang ra một bao thư màu vàng có ghi chữ “Thelma Davis!”. Ông trao nó cho tôi và liền đó, tôi trút bao thư xuống quầy. Một viên đạn khá lớn rơi ra và lăn tròn trên quầy. Polnik chụp ngay lấy nó và liếc nhìn tôi với một ánh mắt tràn đầy hy vọng.

“Trung úy à, phải đây là thứ mà chúng ta đang tìm kiếm?”

“Rất có thể … Không lẽ chúng ta đi tìm một cô tóc vàng được gói ghém trong bao thư?”

Polnik rầu rĩ:

“Tôi biết chứ, trung úy. Tôi đâu còn mong đợi chuyện đó, nhất là từ khi tôi trông thấy Thelma Davis … Trung úy à, trong vụ này, tôi đã đổi hẳn tính nết rồi!”

Tôi nhét viên đạn vào túi, cảm ơn ông quản lý và trở về ra xe. Sau khi ghé lại sở để bỏ Polnik, Tôi cho hắn biết là tôi sẽ đến Biệt đội hình sự và nếu có gì cần thì hắn có thể đến đó gặp tôi.

Kim đồng hồ chỉ đúng bốn giờ rưỡi, khi tôi bước vào trụ sở của Biệt đội hình sự. Cửa phòng làm việc của đại úy Parker để mở vì thế khi trông thấy tôi ngang qua, ông lớn tiếng gọi tôi vào. Tôi dừng lại nơi ngưỡng cửa, tính chào hỏi qua loa.

Đại úy Parker mỉm cười chế giễu:

“Sao, khỏe chứ Al? Hình như ông cảnh sát trưởng đang ôm một số trọng án phải không?”

“Vâng, cứ lung tung cả! Tôi linh cảm rằng mọi việc sẽ được chuyển sang cho đại úy giải quyết trong một ngày gần đây!”

Với vẻ chán ngán, ông ta đáp ngay:

“Tôi chẳng muốn nhận những công việc dang dở của bên anh một chút nào! Bao giờ cũng thế, công việc không gỡ nổi là cứ chuyển sang đây! Anh hãy nói cho ông Lavers biết rằng nếu giải quyết không nổi những vụ án đó thì cứ việc xếp hồ sơ lại…”

“Vâng, tôi sẽ nói cho ông Lavers, nhưng theo tôi biết thì ông sẽ không nghe đâu… Ông cảnh sát trưởng là người say mê thi hành công lý và hơn nữa, bây giờ cũng sắp đến mùa tranh cử….”

“Al ạ! Tôi nghĩ anh nên trở lại làm việc với tụi tôi đi, như thế sẽ ổn định hơn.”

“Nhưng đại úy có hứa hẹn một cái gì hấp dẫn không? Thanh tra Martin đã chịu thay đổi trợ lý chưa?”

Parker lắc đầu, chán ngán:

“Chưa. Ông ấy vẫn giữ đám người cũ.”

Tôi mỉm cười thích thú:

“Như thế thì thà tôi tiếp tục làm trợ lý cho ông cảnh sát trưởng còn hơn. Vấn đề của tôi bây giờ là liệu xếp của tôi có bất thần đổi ý và thay đổi trợ lý hay không.”

Nói xong, tôi chào đại úy Parker rồi đi dọc theo hành lang để đến gặp chuyên viên vũ khí và đạn dược.

Vừa trông thấy tôi, Ray Morris đã thân tình thốt lên:

“À, ông vua tán gái đây rồi! Sao, trung úy có sưu tập được thêm một em tóc vàng nào nữa không?”

“Có chuyện gì mà trông cậu vui vẻ thế? Bộ ông thanh tra đang hấp hối chờ chết hay có gì hay ho hơn?”

“Ủa, trung úy không biết bây giờ là mùa xuân à? Thế thì trung úy bị lão hóa rồi.”

Tôi lấy từ túi ra viên đạn và đặt nó lên bàn làm việc của Ray. Tôi hỏi:

“Cậu nghĩ sao?”

Ray cầm lấy viên đạn liệng nó lên không rồi chụp lấy. Hắn lặp đi lặp lại nhiều lần cái động tác này.

Một lúc sau, hắn nói:

“Trung úy muốn tôi phải nói sao bây giờ?”

“Thì cảm nghĩ của cậu.”

“Nếu định cỡ đạn thì đây là thứ dữ à! Với viên này, ta có thể xuyên thủng một tấm ván dày như chơi! Để tôi xem thử nào.”

Hắn với tay lấy cái kính lúp và đặt viên đạn xuống bàn.

Hắn xem xét một hồi rồi nói:

“Calíp sáu trăm. Đủ sức để đốn gục chú voi. Viên đạn này được sản xuất tại Bỉ.” Hắn đứng dậy và một lần nữa chơi trò tung chụp viên đạn. “Đấy là loại đạn chỉ còn bán ở Âu Châu mà thôi, kể cả loại súng để bắn cũng thế. Nếu nhập vào đất Mỹ thì một khẩu súng trường hai nòng thuộc calíp này giá chót cũng phải là hai ngàn đô, nhưng không đắt đâu, bởi đây là thứ khá tốt!”

“Và người ta đã mua viên đạn này từ Âu Châu để rồi vứt đây, không sử dụng…. Tôi chẳng hiểu tại sao nữa!”

“Sở dĩ không được dùng là vì đây là một viên đạn giả.”

“Không tin được,” tôi nói. “Tại sao cậu biết chứ!”

Ray lại tung viên đạn lên không.

“Thì căn cứ theo trọng lượng của nó! So với đạn cỡ này mà như thế thì nhẹ quá!”

“Cậu có tin chắc là đạn giả?”

Ray khô khốc vặn lại tôi:

“Theo trung úy thì tôi có phải là một chuyên viên về vũ khí và đạn dược không? Thôi được, ông khỏi cần trả lời. Bây giờ, để tôi tháo đầu đạn ra cho ông xem nhé.”

“Thì cậu cứ việc. Tôi không bận lắm đâu.”

Chỉ vài giây sau Ray đã tháo xong đầu đạn và đưa tôi cái vỏ đạn trống trơn.

“Trung úy đã hài lòng chưa? Bây giờ trung úy có công nhận tôi là một chuyên viên có hạng mà trung úy cần phải …”

Ray bỗng nhiên im bặt. Hắn cau mày và nhìn chăm vào cái vỏ đạn mà tôi vừa trao lại cho hắn.

“Trung úy chờ cho một chút…” Hắn nói và cầm lấy kính lúp để để săm soi.

“Chuyện gì?”

Ray nói nho nhỏ:

“À, ra thế!”

Hắn ngước mắt nhìn tôi và cố gượng cười:

“Tuy là một chuyên viên có hạng nhưng thỉnh thoảng tôi cũng nhầm lẫn, có điều là chỉ trong chốc lát thôi. Bây giờ, tôi xin nói lại cho trung úy rõ là viên đạn này đã xài rồi.”

Tôi ngạc nhiên:

“Tại sao như thế? Đầu đạn vẫn còn đấy mà!”

Chuyên viên Ray lại cúi nhìn viên đạn rồi lắc đầu. Cuối cùng, hắn nói:

“Ai đó đã khổ công với viên đạn này. Hẳn tay này là một người rất am hiểu về súng đạn và hắn đã bỏ ra khá nhiều thời gian để tính toán chính xác sức nổ cần thiết.” Một lần nữa. Ray gật gù. “Chắc chắn tay này là một chuyên viên!”

“Cậu nói tôi chẳng hiểu …”

Ray Morris đứng bật dậy:

“Một khẩu súng với calíp như thế thì viên đạn có đủ lượng thuốc nổ để đẩy mạnh đầu đạn hầu có thể đốn gục một con voi, sư tử hay những loại thú dữ tương tự như thế.” Hắn cho tôi xem đầu đạn. “Như trung úy đã biết, nòng súng loại này có những lằn rạch và đầu đạn xoáy nhanh khi phóng đi, như càng đảm bảo cho sự chính xác hơn. Trong trường hợp này thì đầu đạn, bằng một thứ kim loại mềm hơn nòng súng, phải có một đường kính lớn hơn nòng súng đôi chút.”

Tôi gật đầu, chứng tỏ rằng mình theo kịp những lời giải thích của Ray.

Hắn tiếp:

“Với một khẩu súng cỡ đó thì viên đạn cần phải có đủ một lượng thuốc nổ khả dĩ để đẩy một đầu đạn lớn như thế ra khỏi một nòng súng với đường kính có phần nhỏ hơn.” Hắn nhún vai. “Người ta đã khôn khéo lấy bớt thuốc đạn hầu khi bắn nó có thể phát nổ nhưng không đủ sức để tông đầu đạn đi. Muốn được như vậy, hẳn tay này phải thử nghiệm nhiều lần mới tìm được một công thức ăn ý.”

Tôi vẫn còn thắc mắc: .

“Rồi sao? Chuyện gì xảy ra khi ta bóp cò?”

“Tôi đã trình bày với trung úy rồi đấy! Người ta sẽ nghe đạn nổ nhưng đầu đạn vẫn ở trong nòng súng.”

Tôi suy nghĩ một lúc và bỗng ánh sáng lóa lên trong tâm trí tôi. Cái thứ ánh sáng này chói chang đến nỗi tôi phải chớp chớp mắt… Rồi những ý tưởng hiện ra, rõ ràng hết sức.

Một lúc sau, tôi nói:

“Cảm ơn cậu nhé, Ray! Cảm ơn rất nhiều!”

“Có dịp để tiếp tay với trung úy là tôi vui rồi! Vậy trung úy có muốn lấy lại viên đạn?”

“Cậu vui lòng nhét đạn lại như cũ hộ tôi!”

“Ồ! được thôi. Nhưng, này trung úy, ông có thể giúp tôi một chuyện được không? Tôi muốn ông giới thiệu cho tôi em tóc nâu, cao khoảng một thước năm mươi bảy, gọn người, ăn mặc model, và nói chuyện có duyên…”

“Ray à, rất tiếc vì tôi chưa từng quen biết với một cô nào như thế.”

Hắn cay đắng thốt lên:

“Lại một ảo tưởng nữa đã bị tan vỡ… Vậy mà tôi vẫn nghĩ rằng trung úy có thể giới thiệu cho tôi một em với những tiêu chuẩn như thế…”

Tiếng chuông điện thoại reo lên làm hắn phải ngưng ngang. Hắn cầm lấy ống nghe và nói:

“Ray đây!”

Một lúc sau, hắn trao ống nghe cho tôi:

“Có người gọi cho trung úy đấy!”

Tôi cầm lấy và nói vào máy:

“Vâng, Wheeler đây!”

Ở đầu dây bên kia là một giọng nói nho nhỏ, nghèn nghẹn:

“Trung úy đó à? Tôi muốn báo cho trung úy một số tin quan trọng có liên quan đến cái chết của Howard Davis! Tôi không tiện nói ra vào lúc này vì thế tôi sẽ gọi lại cho trung úy vào lúc chín giờ. Trung úy nhớ nhé!”

Rồi là tiếng gác máy.

Tôi ngẩng đầu và thấy Ray đang chăm chú nhìn tôi.

“Chẳng hay người vừa gọi cho trung úy là đàn ông hay đàn bà?”

Tôi khốn khổ đáp:

“Tôi chẳng hiểu nữa. Ray à, có bao giờ cậu nhận được những cú điện thoại nặc danh?”

“Ồ, tưởng gì chứ chuyện đó thì có sao đâu? Chẳng hạn như, ‘Anh liệu hồn đó nhé!’ hoặc ’Xã hội chúng ta không chấp nhận những người lộn xộn như anh!’ và v.v … Chắc trung úy muốn nói về những cú điện như thế?”

“Không … nếu được vậy thì chắc tôi thích lắm!”

“Thì dễ thôi” trung úy lấy vợ đi là biết ngay!

“Nếu tôi chưa lấy vợ thì đó cũng chẳng phải là lỗi ở tôi… Sở dĩ mà tôi còn độc thân như thế này là vì chưa tìm được một cô nào chịu sống theo kiểu du mục trên chiếc Austin Healey của tôi … Ray à, như cậu biết đó, mấy cô thời này không như ngày xưa!”

Ray nói với vẻ vỡ mộng:

“Có như xưa hay không thì tôi đếch cần biết… Miễn sao có dịp để đi chơi với em là vui rồi.”

Bình luận