White Sands, New Mexico
Ravi Nara tăng ga chiếc Honda ATV của y và chạy đến nơi mà đội ngũ kỹ thuật của Godin bị lừa đến mức gọi là bệnh viện. Không khí New Mexico làm cổ họng y khô rát, ánh mặt trời thiêu đốt khiến nhà thần kinh học kiệt quệ đến nỗi y cố ở trong bóng râm càng nhiều càng tốt. Một nhân viên kỹ thuật mặc áo choàng trắng đi ngang qua đường giơ tay chào y. Nara giận dữ đạp phanh rồi lại phóng thẳng.
Y đã phải căng óc ra nói chuyện với John Skow qua điện thoại bằng chiếc di động được đổi tần số để tránh nghe trộm mà tay nhân viên NSA đưa cho y. Nhưng Godin đã cận kề cái chết, y đành phải liều. Skow đã thẳng thừng rằng nếu Godin chết trước khi Trinity trở thành hiện thực thì sự nghiệp của cả lũ đi tong, mà có khi cả tính mạng nữa. Zach Levin, kỹ sư trưởng của Godin đã dự báo rằng nguyên mẫu Trinity có thể hoạt động hết chức năng trong vòng từ bảy đến mười ngày nữa. Nhưng dự tính ấy dựa trên cơ sở là bản thân Godin còn tiếp tục tham gia. Ravi biết, giữ cho Godin sống thêm hai mươi bốn giờ nữa là may lắm rồi.
Y ngờ rằng khó có bác sĩ nào từng làm việc căng đến thế để giữ cho bệnh nhân sống. Mới ba mươi sáu tuổi, Ravi Nara đã là một bác sĩ được trọng vọng. Ở quê hương Ấn Độ, y được đối đãi như một anh hùng, dù đã nhập quốc tịch Mỹ. Nhưng nếu Trinity thất bại dưới bóng đen vụ scandal sát hại người đồng đoạt giải Nobel thì không gì có thể cứu vãn danh tiếng của y được nữa.
Y lại nghĩ không biết có ai nghe lén cuộc điện đàm giữa y và Skow không. Tụi an ninh ở Bắc Carolina này hung tợn lắm, nhưng White Sands là lãnh địa chết tiệt của quân đội. Đến giờ y vẫn chưa chạm trán người nào. Có lẽ sự xa khuất của chốn này khiến bọn an ninh bớt hoang tưởng hơn.
White Sands lớn hơn cả Delaware và Rhode Island gộp lại. Khoảnh đất được rào riêng cho khu vực nghiên cứu của Trinity giống như một nốt ruồi trên con voi trắng, nằm trong một vùng rộng lớn do trường Tình báo Quân đội ở căn cứ Huachuca, bang Arizona quản lý. Trước khi Nara viếng thăm cơ sở này, Godin đã mô tả điều kiện sống ở đây “khắc nghiệt như trại lính Sparta”. Là một kiều dân ở New York, Nara đã nghĩ Bắc Carolina là nơi xa xôi hẻo lánh. White Sands là chốn khỉ ho cò gáy, một quang cảnh trên mặt trăng với toàn núi đá và thạch cao trắng, chỉ có rắn đuôi chuông làm bạn. Y ngờ mình sẽ gặp những người da đỏ phi ngựa qua đụn cát, đuổi theo sau là đám cao bồi trong phim của John Ford, nhưng bọn họ không xuất hiện.
Tổ hợp Trinity được bố trí kiểu đơn giản hình học. Có bốn tòa nhà chính là: phòng thí nghiệm nghiên cứu, bệnh viện, khu quản trị và nhà Cách ly. Còn có doanh trại, xưởng máy, trạm phát điện lớn, và một đường băng cho máy bay phản lực quân sự lên xuống. Những tòa nhà ấy không thật sự là nhà, mà chỉ là những kho chứa máy bay được cải tạo lại do các kỹ sư quân đội lắp ghép cấp tốc trong có năm tuần lễ. Chỉ có nhà Cách ly là khác. Đó là nơi đặt nguyên mẫu Trinity.
Ravi trông thấy tòa nhà lạ bên phải y, đứng tách riêng ra ở khoảng giữa của tổ hợp. Được xây dựng giống như boong ke thời Thế Chiến II, nhà Cách ly có những bức tường bê tông dày mét hai, được gia cố bằng thép tôi và được bọc chì. Nó được trang bị bốn dây cáp điện khổng lồ, hai đường ống nước, và một hệ thống điều hòa không khí dân dụng. Không có đường dây điện thoại, cáp truyền hình đồng trục và mạng lưới cáp hạng năm chạy vào tòa nhà ấy. Không có giàn ăng ten hay chảo parabol nhô lên từ nóc nhà, như ở mọi tòa nhà khác. Tòa nhà Cách ly giống như một kiến trúc được xây để giữ Harry Houdini 1 , nếu Houdini có thể tự số hóa và chuồn qua dây thép hoặc đường truyền tín hiệu. Nếu nguyên mẫu Trinity hoạt động hoàn chỉnh, không ai – kể cả Peter Godin – muốn nó được kết nối với Internet.
Hôm nay Ravi đã tránh vào viện. Godin đã cận kề cái chết từ nhiều tuần nay, nhưng cách đây hai hôm lão bắt đầu trượt nhanh hơn về cõi vĩnh hằng. Ravi tin rằng cái chết của Fielding gây ra điều này, một sự cần thiết dã man đã giáng cho lão già cú đòn nặng hơn chờ đợi. Tất nhiên việc Fielding chết đã cho họ có được viên pha lê, như vậy mọi nghi ngờ về tính đúng đắn của việc giết ông ta là không cần thiết.
Chỉ vài giờ sau khi lấy được viên pha lê, họ đã khôi phục được tất cả những gì Fielding đã phá mất, và sau khi khám phá ra công việc độc lập mà Fielding đã làm, họ thấy mình chỉ còn cách thành công về mẫu máy khả thi trong gang tấc. Nhưng nỗi phởn chí vì thành công bị cắt ngang bởi vấn đề Tennant và bác sĩ tâm thần của hắn ta. Có lẽ việc xử lý chuyện này đã khiến Godin gục, nhưng theo các phân tích cuối cùng thì chính bệnh ung thư đã đốn ngã lão, như nó giết bất kỳ ai có khối u ác tính như vậy.
Ravi đậu chiếc ATV của y trước bệnh viện được cải tạo từ kho chứa máy bay, rồi bước vào trong. Kho được chia làm nhiều “phòng” bằng những vách ngăn, không gian nào có trần – kể cả phòng tắm – nên mùi khó chịu liên tục lan khắp tòa nhà không trừ chỗ nào. Peter Godin không phải bận tâm về điều ấy. Lão chiếm một căn phòng kín gió có áp suất dương mà không một tác nhân lây nhiễm nào có thể lọt vào. Được cung cấp nước và không khí lọc, căn phòng plastic có biệt danh Bong bóng giống như một chiếc lồng ấp giữa tòa nhà này.
Để Ravi và các y tá khỏi mất thời gian mặc quần áo bảo vệ, gần cửa Bong bóng có lắp đặt bộ khử trùng bằng tia cực tím. Để tự tiệt trùng, Ravi chỉ cần rửa tay, đeo mặt nạ rồi đứng trước bức xạ đủ lâu để quần áo và da sạch hết các vi sinh vật nguy hiểm. Quá trình này chỉ mất hai phút, nhưng gần đây nó khiến Ravi cáu kỉnh. Tất nhiên y vẫn không thể trách Godin. Steroid và hóa học trị liệu đã hạ gục hệ miễn dịch của ông già, và Godin muốn cái điều mà mọi người từ ngàn xưa đã muốn: đánh lừa thần chết.
Đèn cực tím kêu vo vo cuối cùng đã tắt. Ravi giẫm chân lên một công tắc kích hoạt cho cánh cửa sập bằng thủy tinh plexi của Bong bóng mở ra rồi bước vào trong. Godin nằm bất tỉnh trên giường bệnh, xung quanh la liệt các màn hình và thiết bị hồi tỉnh. Thân thể lão bị đường truyền tĩnh mạch trung tâm xuyên vào và được đấu nối với màn hình bằng những sợi dây dẫn mảnh. Cái đầu chỉ huy của lão chẳng nổi bật hơn màu trắng của tấm ga trải giường lão nằm là mấy.
Hai nữ y tá túc trực bên giường bệnh, theo dõi sát sao mọi thay đổi nhỏ nhất trong trạng thái bệnh nhân. Ravi gật đầu với họ, rồi rút bệnh án ra khỏi khe kẹp cuối giường đọc qua loa. U thần kinh đệm thân não, di căn, không mổ được. Y đã làm chẩn đoán này cách đây sáu tháng, khi lần đầu xem ảnh chụp não Godin qua Siêu-MRI. Thật kỳ quái khi nhìn thấy khối u phát triển bên trong một khối óc thuộc hàng tài năng nhất trên trái đất. Khi Godin yêu cầu Ravi giữ kín bệnh ung thư của lão, Ravi đã không do dự. Tiết lộ tình trạng Godin có thể chấm dứt cơ hội tham gia vào nỗ lực khoa học vĩ đại nhất lịch sử của y. Tất nhiên Ravi ra giá cho sự cộng tác của mình. Điều đó đúng thôi. Peter Godin quá giàu, Ravi Nara khá nghèo. Sự mất cân bằng này vì thế được đưa ra thảo luận, giá ở mức vừa phải. Tuy nhiên khoản tiền mặt và cổ phiếu Ravi đã nhận được lúc này trở nên quá tầm thường khi phải đối mặt với các nguy cơ.
“Ravi?” ông già thều thào. “Cậu đấy à?”
Ravi ngước lên khỏi bệnh án và thấy đôi mắt xanh sắc lạnh dán chặt vào y.
“Sao tôi thấy mệt thế này?” Godin hỏi.
“Có lẽ do tai biến ngập máu.” Godin vẫn còn bị động kinh từ khi tiếp xúc trực tiếp với Siêu-MRI.
Ravi bước quanh giường và nhìn vào khuôn mặt chảy nhão. Godin trước đây là một trong những người mạnh mẽ nhất mà y từng biết, thế mà căn bệnh ung thư đã làm lão suy sụp như một gã ăn mày hè phố. Mà không… điều đó không hoàn toàn đúng. Không gã ăn mày hè phố nào có được Ravi Nara và một tài sản hầu như vô tận để níu giữ sự sống. Ngay cả khi cận kề cái chết, khi tóc và lông mày rụng hết, Godin vẫn giữ được vẻ mặt nhìn nghiêng như chim ưng từng khiến chàng kỹ sư thiết kế máy tính trẻ tuổi năng động ngày đó nổi bật đến thế những năm cuối thập niên năm mươi, và năm thập kỷ sau đó.
“Khối u của ông đã phát triển rất nhanh, Peter ạ. Đến lúc này tôi chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi. Đó là trận chiến giữa việc giữ cho ông tỉnh, và giữ cho ông khỏi đau để hoạt động.”
“Mẹ kiếp cơn đau.” Godin nắm bàn tay sưng tấy của mình thành quả đấm. “Đau tôi chịu được.”
“Đêm qua ông đâu có nói thế. Đêm qua ông bảo mặt ông cháy rát còn gì.”
Godin rùng mình. “Bây giờ tôi đang tỉnh. Gọi Levin đến đây cho tôi.”
Zach Levin đã từng là trưởng phòng R&D trong công ty Siêu máy tính Godin tại Mountain View cho đến khi anh ta được đưa đến Bắc Carolina để điều hành đội Giao diện, đơn vị chịu trách nhiệm giao tiếp với máy tính Trinity. Levin là một gã ba mươi lăm tuổi cao ráo, da tái, tóc sớm bạc. Giống như sếp của mình thời còn sung mãn, Levin hình như có thể sống mà không cần ngủ.
“Tôi sẽ gọi anh ta vào,” Ravi nói.
Godin giơ tay lên, “Anh có tin gì về Tennant và Weiss không?”
“Từ lúc ở ga Liên Hiệp không còn dấu vết gì của chúng nữa.”
Lão già nhắm mắt thở dài khò khè, một dấu hiệu của điều đang chờ đợi lão trong tương lai gần. “Cô ta đã bắn Geli à?”
“Vâng, họ nói chính Weiss đã bắn.”
Godin cau mày, nửa dưới khuôn mặt lão nhăn nhúm khủng khiếp. Mặc dầu sống cùng vợ gần như cả đời nhưng lão không có con cái và luôn thể hiện tình thương của một người cha với Geli Bauer. Ý nghĩ này khiến da Ravi sởn lên; cứ như là tình cha con với rắn hổ mang vậy.
“Geli sao rồi?” Godin hỏi.
“Tôi nghe nói đã hoàn toàn khỏe mạnh. Người ta đã chuyển cô ấy đến Walter Reed. Chính bố cô ấy đã bố trí việc đó.”
Godin thoáng cười. “Nếu nó biết chuyện đó, chắc nó đã chẳng đi.” Nụ cười biến mất đột ngột. “Anh nghĩ Tennant đang mưu toan gì ở Washington? Tổng thống vẫn còn ở Trung Quốc kia mà.”
Ravi ước giá như y biết. Trong phần lớn dự án, tay bác sĩ nội khoa này làm y đau đầu nhất. Che giấu bệnh ung thư với dân ngoại đạo không khó khăn gì, thế nhưng Tennant luôn lưu ý Godin về việc trọng lượng tăng giảm bất thường, về dáng đi trở nên lòng khòng tập tễnh và những thay đổi trong cơ thể do steroid gây ra. Có thể giải thích đó là do chứng viêm khớp mãn tính của lão, tuy vậy trong sáu tuần gần đây Ravi vẫn buộc phải cách ly Godin khỏi Tennant.
“Tôi không biết, Peter ạ. Tôi cũng lo lắm.”
Khi một y tá đến cho Godin uống ngụm nước, Ravi ước lượng thời gian sống còn lại của lão già kiên cường này. Điều này không dễ. Từ nhiều năm nay Ravi đã không làm việc trực tiếp với bệnh nhân, và Godin với loại u này đã vượt quá thời gian có thể sống theo bảng tuổi thọ trung bình. Tiên lượng thời gian sống của bệnh nhân trong trường hợp này là một kiểu bói theo điềm báo, mà những bác sĩ như Tennant rất giỏi việc này. Nhiều năm kinh nghiệm lâm sàng cho họ cái linh cảm về sống và chết. Nhưng bất kỳ một bà mụ nào cũng làm được điều đó.
Tiếng vo vo và tia sáng tím lóe lên khiến Ravi quay đầu lại. Qua lớp cửa trong suốt của Bong bóng, y trông thấy Zach Levin đang đứng trước đèn khử trùng bằng tia cực tím.
Phần lớn thời gian Levin ở luôn trong phòng bê tông của nhà Cách ly, nhưng anh ta dường như luôn cảm nhận được lúc nào thì Godin tỉnh lại. Levin và các kỹ thuật viên của anh ta giống như một đoàn tăng lữ, chăm sóc chu đáo sư phụ của mình trong giờ phút lâm chung, cũng như đón nhận tác phẩm của ông ta khi nó vừa ra đời. Những tăng lữ của khoa học, Ravi nghĩ. Cái thuật ngữ mới mâu thuẫn làm sao. Y vừa vẫy Levin vừa nghĩ, Mày làm tao rồ đếch chịu nổi rồi.
“Levin đến rồi,” Ravi nói, cố rặn ra một nụ cười.
“Tôi còn tỉnh được bao lâu nữa?” Godin hỏi.
“Cho đến khi nào không thể chịu nổi cơn đau thì thôi.”
“Trên đường ra cậu bảo Levin vào đây.”
Ravi cố nuốt giận. Cả cuộc đời y luôn là một thần đồng, thế mà trong vòng sáu tháng nay y có cảm giác như một viên ngự y hầu vua. Cuộc sống của y bị chế ngự bởi tính khí thất thường của một bạo chúa. Y giẫm chân lên nút bấm để mở cánh cửa sập và bước ra khỏi Bong bóng.
Zach Levin gật đầu chào y từ nơi lắp đèn khử trùng. Về mặt kỹ thuật, Levin và nhóm của anh nằm dưới quyền điều khiển của Ravi. Nhưng phần cứng và phần mềm của máy tính Trinity quá phức tạp nên y không thể hy vọng hướng dẫn đâu ra đấy cho người của Levin, ngoại trừ những vấn đề liên quan trực tiếp đến bộ não. Ngay cả khi họ đến hỏi y những câu hỏi về thần kinh hệ, y cũng cảm thấy như bị họ lợi dụng hơn là cần nghe y giảng giải. Họ bơi như một đàn cá piranha qua trí tuệ của y và ngấu nghiến những gì họ cần cho cuộc hành trình vào mê cung của những mẫu thần kinh…
“Ông ấy sao rồi?” Levin hỏi to.
Đèn cực tím kêu vo vo rồi tắt lịm.
“Ông ấy đang tỉnh đấy,” Ravil nói. “Minh mẫn.”
“Tốt. Tôi có tin hay cho ông ấy đây.”
Nhưng không phải cho tao, Ravi cay đắng nghĩ. “Cậu đã đặt thêm câu hỏi nào cho mẫu Tennant chưa?”
Levin có vẻ đang cân nhắc câu trả lời. “Tôi đã kết xuất mẫu bác sĩ Tennant khỏi máy tính cách đây một giờ rồi.”
“Ai bảo cậu làm thế?”
“Thế anh nghĩ là ai?”
Godin.
“Vào lúc này,” Levin nói, “vận hành hết chức năng Trinity quan trọng hơn bất cứ nguy cơ gì bác sĩ Tennant gây ra cho dự án.”
Ravi cũng cảm thấy như thế, nhưng y không muốn tay kỹ sư này biết. “Làm sao mà việc kết xuất mẫu Tennant ra khỏi máy tính lại giúp cậu làm được điều đó?”
“Peter cho rằng một số vấn đề chúng ta gặp phải có nguyên nhân lượng tử. Ông ấy nghĩ biết đâu Andrew Fielding có thể giúp chúng ta.”
“Fielding ư? Cậu muốn nói cậu đã tải mẫu thần kinh của Fielding vào máy mẫu?”
“Đúng thế.”
“Cậu thật sự tin rằng mẫu thần kinh của ông ta sẽ giúp các cậu giải quyết nốt những vấn đề còn lại à?”
“Nói cho đúng ra, tôi không biết tại sao mẫu thần kinh của ông ta lại hoạt động khác mẫu của bác sĩ Tennant. Nhưng đây là một vấn đề thú vị. Tiến sĩ Fielding đang nghiệm cùng những thách đố mà Tennant đã trải qua – khủng bố, hỗn loạn, vòng phản hồi trong cuộc sống sinh học có những lối thoát bị cân bằng sai – nhưng ông ta hình như đã thích hợp với chúng ở tốc độ nhanh hơn nhiều.”
Ravi rùng mình. Levin nói cứ như Fielding còn sống vậy. “Cậu nghĩ điều đó có nghĩa gì?”
Chàng kỹ sư nhún vai. “Có thể chẳng là gì cả. Nhưng những điều mê tín của Godin đã ứng nghiệm quá nhiều lần nên không thể nào bỏ qua. Và chính cái công trình được lưu trữ trong tinh thể của Fielding đã đưa chúng ta đi xa đến thế. Nếu các vùng xử lý trong mẫu thần kinh của ông ta hoạt động với hiệu quả cao hơn của bác sĩ Tennant… thì có thể còn là cả một trận đấu mới.”
Trống ngực Ravi đổ dồn. “Nếu điều ấy xảy ra thì hậu quả sẽ ra sao?”
Levin không trả lời.
Ravi cảm thấy muốn tát vào mặt gã cao to này, nhưng hàm ý của những điều vừa biết đã đẩy suy nghĩ ấy ra khỏi trí óc y. “Được, cứ tiếp tục đi.”
Nụ cười ngạo nghễ của Levin cho Ravi biết lúc này lời nói của y chẳng có tí trọng lượng nào.
Ravi bước ra khỏi tòa nhà, leo lên chiếc ATV và nổ máy. Nếu những gì Levin nói là đúng, thì cú điện y gọi cho Skow là quá sớm. Trinity sẽ nhanh chóng trở thành hiện thực, bất chấp cái chết của Godin. Và nếu điều đó xảy ra, nó sẽ làm thay đổi mọi chuyện. Thay vì đi tìm kẻ chịu tội, tổng thống sẽ tìm những bộ ngực để gắn huân chương lên. Và nếu Ravi đi đúng nước cờ, y sẽ là người đứng ở hàng đầu.
Trong khi chạy xe về văn phòng của mình, y liếc nhìn lại khu Cách ly. Chôn nửa mình trong cát, khối nhà bê tông ấy toát ra cái cảm giác quyền lực mà y chưa từng thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Y đã từng trải qua cảm giác khó chịu trong các nhà máy điện hạt nhân, nhưng những nguy hiểm của một phản ứng hạt nhân còn đo đếm được. Ngay cả kịch bản tồi tệ nhất cũng có thể dự liệu, vì dù nguy hiểm đến đâu thì nhiên liệu hạt nhân cũng còn tuân theo quy luật tự nhiên.
Trinity sẽ khác hẳn.
Cách cơ sở này tám mươi cây về phía Bắc, vụ nổ hạt nhân đầu tiên trên trái đất đã biến nền sa mạc thành thủy tinh. Robert Oppenheimer kinh hoàng đứng nhìn trân trối vào mắt quả cầu lửa sinh ra từ đó, nhưng nỗi khiếp hãi của ông là nỗi khiếp hãi về bản thân cũng như về cỗ máy ông đã chế ra. Nhưng nếu máy tính bên trong tòa nhà Cách ly đạt hết tiềm năng của nó – nếu mọi vấn đề được giải quyết, và mẫu thần kinh đạt được hiệu suất 90 phần trăm – thì sáng tạo của Godin sẽ biến thứ đồ chơi chết người của Oppenheimer thành trò trẻ con. Vì khi con người nhìn vào mắt của Trinity, Trinity sẽ nhìn lại. Và nó sẽ biết nó đang nhìn cái gì.
Một hình thức thấp hơn của sự sống.
——————————–1 Harry Houdini (1874-1926): nhà ảo thuật huyền thoại người Mỹ gốc Hung.