White Sands
Ravi Nara đậu chiếc ATV của y bên ngoài nhà chứa máy bay dùng làm bệnh viện và bước tới cửa. Trong túi y là một ống tiêm chứa kali clorua đủ để kết liễu trái tim yếu đuối của Godin không kém gì một viên đạn.
Y ngập ngừng trước cửa tòa nhà, không sao mở ra được. Y đã mất cả giờ đồng hồ tự lên dây cót tinh thần cho cuộc viếng thăm này, và nếu không có sự đe dọa của Skow, thì y sẽ không đi xa đến thế. Bọn họ đang theo dõi mình từ xa ở một nơi nào đó, y nghĩ. Tiến lên.
Y bước vào tòa nhà, khoác lên mình chiếc áo choàng thí nghiệm mới tinh, bước đến máy khử trùng, rồi giẫm chân lên công tắc trên sàn để mở cửa. Ánh sáng cực tím cường độ cao chiếu lên y từ mọi phía. Y đứng trong ánh sáng màu tía rực rỡ, chằm chằm nhìn qua cửa Bong bóng. Các y tá của Godin ngồi như lũ chó canh cửa ở hai bên giường. Hoặc lão hoặc ta, y tự nhủ. Nhớ điều Skow nói…
Tay NSA không hét lên vui mừng khi biết rằng máy tính có thể đạt tới trạng thái Trinity trong vòng mười hai giờ. Gã chỉ hỏi Godin còn sống được bao lâu nữa. Khi Ravi đáp là còn hơn mười hai tiếng, Skow bảo y rằng không thể để điều ấy xảy ra.
“Tại sao không?” Ravi hỏi mà sợ rằng chính y đã biết câu trả lời.
“Bởi vì như thế là quá trễ,” Skow cáu kỉnh. “Tổng thống đã gọi cho tôi từ Trung Quốc, ông ấy rất phiền lòng về tình hình Tennant. Rất nghi ngờ nữa. Tôi phải nói với ông ấy điều gì đó nghe có lý mới được.”
“Ý anh là nói sai sự thật.”
“Chính xác. Tôi nói với ông ấy rằng Peter ốm suốt từ bấy đến giờ, và tôi e rằng ông ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của Fielding. Tôi bảo Godin đã biến mất, và rằng có thể có một cơ sở nghiên cứu bí mật ở đâu đó. Lúc này FBI đang lục tung tổ hợp máy tính siêu hạng ở Mountain View.”
Ravi nhắm mắt và cầu mong đây chỉ là ác mộng. Trong phòng hội nghị ở Bắc Carolina, quyết định kết liễu đời Fielding dường như là một hành động chính thức của chính phủ. Trinity tồn tại để củng cố vị thế chiến lược của Mỹ trên thế giới. Fielding đã phá hoại sự tiến triển của nó. Nhưng khi người ta bóc trần lớp vỏ giả dối, thì vụ “thanh toán” Fielding sẽ trơ ra là một vụ giết người.
“Ravi?”
“Tôi đây.” Y biết Skow sắp yêu cầu y điều gì. Và y ghê sợ nó.
“Anh biết phải làm gì mà.”
Ravi cố chống đỡ lần cuối. “Anh nói nếu chúng ta khởi động được Trinity thì sẽ không còn ai quan tâm đến chuyện có ai đã chết để hiện thực hóa nó cơ mà.”
“Đó là trước khi có vụ rắc rối với Tennant. Chúng ta đã phải nổ súng ở Washington, giời ạ. Tôi đã vẽ nên Tennant như một tên tâm thần nguy hiểm, nhưng không sao. Ta đã có chứng cớ y học trợ giúp.”
“Những vấn đề đó là của anh chứ đâu phải của tôi.”
Skow bình tĩnh nói, lời lẽ của gã làm Nara ớn lạnh. “Anh không phải là người duy nhất biết mình có dự phần vào cái chết của Fielding. Tôi có băng ghi âm giọng anh. Những chứng cớ đổ tội. Tất cả chúng ta đều cùng chung một con thuyền, Ravi ạ. Anh, tôi, Geli Bauer, và cả tướng Bauer nữa. Nếu tất cả chúng ta đều kể cùng một câu chuyện thì không ai động đến ta được. Nhưng Peter phải chết.”
Ravi đau khổ nhắm mắt lại.
“Tính mạng của chúng ta nằm cả trong tay anh, Ravi ạ. Chỉ vài giây can đảm là anh lại trong sạch hoàn toàn.”
Trong sạch ư? y nghĩ. Mình không bao giờ trở lại trong sạch được nữa.
Việc giết Godin có trái đạo đức không? Lão cũng chỉ cách cái chết tự nhiên vài giờ nữa, nếu không có Ravi, lão đã chết trước đây mấy ngày rồi. Godin cũng ra lệnh giết Fielding mà chẳng thấy ăn năn gì. Hơn nữa, có một thực tế gần như tuyệt vời là giết chết Godin về mặt sinh học không thực sự chấm dứt cuộc sống của lão. Chừng nào các mẫu thần kinh của lão còn tồn tại, thì trí não và nhân cách của lão có thể phục sinh trong máy tính Trinity.
Vấn đề bây giờ không phải là đạo đức, mà là cơ hội. Khi một con người đã đến bờ thập tử nhất sinh như Godin, có đến dăm bảy cách để đẩy lão xuống vực. Nhưng các y tá của Godin không rời lão nửa bước. Ravi đã thử tìm cách điều họ đi hai lần trong ngày; lần nào họ cũng rút điện thoại di động trong túi ra gọi các y tá đang ngủ dậy trợ giúp.
Sau khi xem xét nhiều phương án, Ravi đã chuẩn bị chiếc xi lanh chứa kali clorua này. Để làm chệch hướng, y sẽ nhấn nút báo động trên màn hình rồi tiêm kali clorua vào tĩnh mạch. Theo sau là thông báo nguy kịch, và Godin không thể sống sót.
Đèn cực tím kêu vo vo rồi tắt. Ravi trông thấy bóng áo trắng mờ mờ của các y tá qua cửa kính bằng thủy tinh plexi của Bong bóng.
Con mẹ Geli Bauer ở chỗ quái quỷ nào không biết, y nghĩ. Công việc này hoàn toàn thích hợp với ả.
Ravi mở cửa sập bước vào rồi đứng sững, cổ họng y nghẹt lại. Đứng cạnh các y tá của Godin là Geli Bauer. Ả mặc đồ đen từ đầu đến chân, trông ả vẫn đầy nguy hiểm như lần cuối y gặp ả ở Bắc Carolina.
“Chào Ravi,” ả nói. “Anh có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi.”
Ravi không thốt nên lời. Geli mặc một chiếc gi lê chống đạn bên ngoài bộ áo liền quần màu đen, thắt lưng nặng trĩu súng lục, súng điện và dao găm.
Godin bấm công tắc nâng nửa trên của chiếc giường lên, mắt lão nhìn Ravi chằm chặp. Chỉ đến lúc này Ravi mới nhận ra lão đã thôi không thở oxy nữa.
“Cậu có gì muốn nói hả Ravi?” ông già hỏi.
“Tôi ngạc nhiên thấy Geli đã bình phục,” y lắp bắp. “Tôi nghe nói cô bị thương ở cổ.”
Geli mỉm cười, kéo cổ lọ màu đen xuống để lộ ra một dải băng trắng. “Chỉ là một vết sẹo mới bổ sung vào bộ sưu tập của tôi thôi. Nhóm phẫu thuật cho tôi rất giỏi.”
Tim Ravi đập mạnh vào xương ức. Geli làm cái quỷ gì ở White Sands này? Tại sao ả lại bảo vệ Godin. Theo Skow cho biết, ả đã chấp nhận việc giết Godin là cần thiết và cùng bàn bạc kế hoạch với Skow cơ mà.
Ông già có vẻ thích thú trước vẻ bối rối của Ravi. “Này, tôi đây, từ cõi chết trở về đây.” Lão nói the thé. “Họ bảo lần này là bệnh tim.”
“Nhịp nhanh thất,” Ravi khẳng định.
“Tôi nghe nói chính các y tá đã cứu sống tôi.”
Giờ Ravi chỉ nghĩ đến chiếc xi lanh trong túi. Y cảm giác chắc chắn lúc này Geli sẽ bước tới khám xét y, lấy chiếc xi lanh ra mà bơm vào tĩnh mạch y.
“Họ đã làm mọi việc một cách hoàn hảo,” Ravi nói.
Godin gật đầu. “Cậu cũng đã làm thế chứ, Ravi? Nếu cậu ở một mình với tôi?”
Bụng Ravi quặn lên. “Tôi không hiểu, Peter. Tất nhiên tôi cũng sẽ làm thế.”
Godin phớt lờ câu trả lời. “Về phần Geli… tôi muốn cô ấy ở bên cạnh. Tôi thấy an toàn khi có cô ấy ở bên.”
Đôi mắt xanh sắc lạnh chòng chọc nhìn Ravi với vẻ tàn nhẫn. “Anh làm gì ở đây, bác sĩ Nara?”
“Tôi đang hy vọng có thể giúp ông thoát khỏi ống thở. Nhưng tôi thấy các y tá đã làm việc đó rồi.”
Godin liếc nhìn Geli. Hai người hình như đang có một trò chơi ngầm.
Ravi cố tìm lý lẽ đỡ cho câu nói dối của mình. “Levin nói với tôi máy tính có thể sắp đạt tới trạng thái Trinity. Tôi biết ông muốn mình càng tỉnh táo càng tốt khi điều đó xảy ra.”
“Và tất cả là nhờ Andrew Fielding,” Godin nói. “Sự mỉa mai thật ngoạn mục.”
Ravi lo lắng liếc nhìn Geli. “Đó là một phép màu, Peter ạ. Ông sẽ sống để xem mơ ước của mình thành hiện thực.”
Godin khép mí mắt chỉ còn ti hí. “Thật ư? Gần đây anh có nghe tin Skow không?”
Huyết áp Ravi tụt mạnh. “Sáng nay tôi có gọi cho anh ấy. Anh ấy vui mừng lắm. Anh ấy sắp bay đến đây.”
Godin khịt mũi. “Anh ta muốn có mặt vào thời điểm sáng tạo ra đời?”
“Tôi đoán thế. Ý tôi là, tất nhiên anh ấy muốn thế.”
Sự yên lặng tiếp theo gần như không thể chịu nổi. Ravi không sao dám nhìn vào mắt Geli. Y đang tìm cớ chuồn thì Godin hỏi, “Tôi còn được bao lâu nữa? Trong trường hợp xấu nhất?”
Ravi quá khiếp sợ nên không thể nói bất cứ điều gì ngoài sự thật. “Ông có thể bị nguy kịch trong vòng nửa giờ nữa. Nếu ông bị nghẹn thức ăn, sẽ gây ra một đợt tràn dịch màng não nguy hiểm.”
Godin nghiêm trang gạt đầu. “Lâu nhất tôi có thể sống được bao lâu?”
“Có thể… hai mươi bốn giờ.”
Ravi dồn hết can đảm bước đến giường. “Tôi muốn làm một khám nghiệm nhanh, nếu ông không phản đối.”
Geli chặn đường y. Ả không lộ vẻ đe dọa công khai, nhưng chính cử chỉ của ả tỏ ra nguy hiểm. Ravi khó lòng tin y đã có lần mơ làm tình với ả. Mơ tưởng y có thể thỏa mãn một người đàn bà mạnh mẽ và quyền uy dường này thì thật lố bịch.
“Khám hắn đi,” Godin ra lệnh.
Lúc này Ravi biết y thất trận rồi. Y định chạy trốn, nhưng lúc này y như phải đối mặt với một con chó tấn công. Nếu y chạy, Geli sẽ vồ lấy y mà xé nát cổ họng.
Ả quỳ trước y mà khám người. Mấy móng tay ngọn hoắt của ả cào vào háng y đau điếng, nhưng khi bàn tay ả chuyển sang đùi phải, mắt ả bỗng lóe lên như mắt một đứa trẻ chơi ác. Thò tay vào túi quần, ả lôi ra chiếc xi lanh đầy, giơ lên cho Godin nhìn.
“Cái gì trong đó?” Godin hỏi.
“Epinephrine,” Ravi đáp. “Tôi muốn sẵn sàng trong trường hợp bị nguy kịch lần nữa.”
Geli lắc đầu. “Tôi vừa xem lại cuốn băng theo dõi anh trong phòng thuốc chiều nay. Thấy anh đang bơm đầy xi lanh này từ một chai có nhãn KCl. Kali clorua.”
Tay Ravi bắt đầu run.
Godin bình thản nói. “Tiến sĩ Thomas Case từ John Hopkins đang trên đường bay đến đây trong khi chúng ta nói chuyện. Anh hãy tóm tắt tình hình khi ông ta đến. Bác sĩ Case sẽ tiến hành những trị liệu cần thiết tại chỗ từ sau thời điểm này.”
Mặt Ravi tê dại đi.
Godin nhìn như muốn bóc trần y, cho y hết đường gian dối. “Anh không chờ được một ngày nữa để căn bệnh ung thư đưa tôi đi sao?”
Y biết nói gì đây? Đổ tội cho Skow liệu có đỡ cho y chút nào không?
“Đừng trả lời,” Godin nói. “Dù đã có những vinh quang trong quá khứ, anh còn muốn tiến xa hơn. Anh nhìn nhận thành tựu của bản thân mình không phải với niềm tự hào, mà với nỗi sợ rằng anh không thể nào lặp lại chúng. Anh là một kẻ ti tiện Ravi ạ. Fielding đáng giá gấp mười lần anh.”
“Còn ông thì sao,” Ravi nói mà ngạc nhiên về chính mình. “Có phải vì thế mà ông giết Fielding?”
Đôi mắt xanh nhắm lại, nhưng Godin trả lời rành rọt. “Fielding là một nhà vật lý vĩ đại, nhưng không ai có thể níu giữ tương lai. Ông ta sẽ có cơ may khác trong đời. Bây giờ ông ta đang tồn tại một phần trong nhà Cách ly, và đến một ngày mẫu thần kinh của ông ta sẽ đạt đến trạng thái Trinity. Ngày đó ông ta sẽ hiểu những việc tôi đã làm. Nào… bây giờ thì đến lượt anh ra đi.”
Nara chưa bao giờ thấy Geli cười thỏa mãn hơn lúc này. Cao hơn y khoảng tám phân, ả quàng tay quanh người y như người tình. Ả nhìn xuống mắt y với vẻ âu yếm ớn lạnh.
“Chỉ có một câu hỏi chúng tôi muốn anh trả lời,” ả nói. “Anh ấp ủ âm mưu này trong cái đầu nóng của anh, hay anh được ai giúp đỡ?”
Mày đã biết rồi còn gì, Ravi nghĩ. Y vùng vẫy cố thoát ra khỏi cánh tay Geli, nhưng ả chỉ càng siết chặt hơn. Rồi ả lướt móng tay dọc theo vai lên cổ y. “Thôi mà, Ravi… anh đã bao giờ tưởng tượng có lúc nào đó ở một mình với tôi chưa?”
Ravi sợ mình ********* ra quần mất.
Jerusalem
Rachel đã trải qua một đêm với đôi chút hy vọng. Nhưng khi mặt trời buổi sớm nhô lên trên biển Chết và chiếu sáng thung lũng Kindron, nàng từ từ chìm vào tuyệt vọng.
David đang chết.
Bác sĩ tâm thần tối qua xuất hiện để đánh giá tình hình là một người đàn ông thấp lùn, hài hước tên là Weinstein. Bác sĩ Weinstein có mớ tóc sẫm màu, đôi mắt đen linh hoạt không bỏ sót chuyện gì. Anh ta đã được đào tạo tại bệnh viện đa khoa Massachusetts ở Boston, nói tiếng Anh lưu loát.
Ngay khi đọc xong điện não đồ, anh ta ra lệnh dùng MRI chụp não David. Lúc đó Rachel quyết định phải nói ra một phần sự thật. Nàng hỏi Weinstein đã bao giờ nghe đến tên Ravi Nara chưa. Chàng bác sĩ tâm thần biết công trình của Nara và rất ấn tượng khi hay bệnh nhân mới của mình đã cộng tác nghiên cứu với người đoạt giải Nobel ấy. Rachel giải thích rằng nghiên cứu của Nara liên quan đến một máy MRI cực kỳ tối tân đã gây ra tác dụng phụ về tâm thần ở một số người. Vì lý do đó nàng khẩn khoản yêu cầu Weinstein hoãn các đợt quét bằng MRI cho đến khi không còn lựa chọn nào khác.
“Tôi hiểu điều chị đang nói,” Weinstein nói. “Và tôi rất tò mò. Nhưng theo tôi người đàn ông này chẳng sống được bao lâu nữa. Tôi chắc chị biết hình ảnh MRI khuếch tán theo trọng lượng cho thấy rõ thân não hơn chụp CT nhiều. Ở khu vực này có rất nhiều xương nặng mà chụp CT khó thấy được.”
“Tôi biết,” Rachel nói. “Nhưng anh có thật sự nghĩ rằng cơn hôn mê này là do khối u trong thân não gây ra?”
Nhà tâm thần học nhún vai. “Nói thẳng ra, đó là điều duy nhất chúng ta chưa biết rõ. Chị nghĩ những đợt quét của bác sĩ Nara đã sinh ra chất nào đó?”
“Vâng.”
Weinstein khoanh tay thở dài. “Chị có biết tôi đang nghĩ gì không?”
“Gì?”
“Bạn chị sẽ chết rất nhanh nếu chúng ta không tìm ra được vấn đề của anh ấy.”
Sáu mươi phút sau, bác sĩ Weinstein ngồi xem các bản quét MRI khuếch tán theo trọng lượng chụp thân não của David. Chúng không phát hiện một khối u nào. Khi anh kể lại những khám phá của mình cho Rachel, thì sóng theta và beta biến mất khỏi màn hình điện não. Rachel vồ lấy bảng đồ thị lúc này chỉ còn một sóng alpha đơn điệu thể hiện cơn hôn mê alpha.
Nàng bắt đầu khóc.
Bác sĩ Weinstein vòng tay quanh người nàng. “MRI không thể nào gây ra điều này.” Anh nói như thể đang cố tự thuyết phục chính mình hơn là Rachel. “Có lẽ chị nên gọi cho Nara. Chúng ta đang ở trên một vùng đất chưa được khám phá.”
Rachel nhắm mắt. Làm sao nàng giải thích được gọi cho Nara thì họ sẽ có nguy cơ bị sát hại?
“Tôi sẽ thử,” nàng nói. “Chắc phải mất chút thời gian mới liên lạc được với anh ấy.”
Weinstein đưa nàng sang phòng bên và hướng dẫn nàng cách gọi điện thoại đường dài từ bệnh viện. Xong anh ta cho nàng mã số nhắn tin của mình rồi về nhà.
Rachel chằm chằm nhìn điện thoại, cố tự thuyết phục mình gọi cho Nhà Trắng. Đó là cách duy nhất nàng nghĩ có thể tiếp cận Ravi Nara. Nhưng có gì đó giữ nàng lại. Đó là một niềm tin đang lớn dần lên, rằng David dù bệnh tật thế nào, cũng không hoàn toàn hoang tưởng. Anh đã bảo nàng rằng Ravi Nara là mối nguy hiểm, và nàng tin anh một phần. David có thể không bao giờ biết về biểu hiện tín ngưỡng trong anh, nhưng phải chăng đó không phải là bản chất của tín ngưỡng. Tin mà không cần trả lời, không cần tưởng thưởng, không cần chứng cớ? Nàng đứng dậy, lau mắt và không động đến điện thoại.
Đó là trước đây mười giờ.
Từ lúc ấy đến giờ, nàng dành hết thời gian ngồi dán mắt vào màn hình điện não, giống như người hành hương nhìn một tượng đá cẩm thạch với hy vọng nó sẽ nhỏ lệ. Thế nhưng sóng alpha vẫn duy trì không đổi. Khi còn là một bác sĩ nội trú trẻ tuổi, nàng đã trải qua nhiều đêm ngồi nhìn các bệnh nhân từ từ trượt vào cõi chết không thể nào cưỡng được. Là bác sĩ tâm thần, nàng đã thấy những bệnh nhân tự tử chết trong gang tấc do những chất độc tự kiếm tác hại khôn lường. Tuy nhiên, chỉ có một trải nghiệm duy nhất từng đưa nàng đến cõi cô đơn tuyệt vọng như thế này.
Cái chết của con trai nàng.
Hồi ấy nàng đã dở sống dở chết, và bây giờ, sau khi tìm được người đàn ông một ngày nào đó có thể cho nàng đứa con khác, thì nàng lại thấy mình đang ngồi bên giường bệnh của anh, bất lực chờ đợi điều không tránh khỏi.
Vào lúc ba giờ sáng, một đợt sóng theta và beta mới xuất hiện trên màn hình điện não. Chúng kéo dài mười bảy phút, rồi biến mất. Cứ sau nửa giờ một, nàng lại vỗ tay bên tai David, nhưng sóng alpha vẫn giữ nguyên không đổi.
Theo máy thì David đã chết não.
Một giờ sau bình minh, nàng cúi xuống hôn lên trán anh, rồi sang phòng bên nhấc điện thoại. Phải mất một hồi cãi lộn với nhân viên trực, nhưng rồi vài phút sau nàng cũng được nối với tổng đài của Nhà Trắng ở Washington D.C.
“Tôi gọi để trình báo về Dự án Trinity,” nàng nói.
“Yêu cầu nhắc lại,” điện thoại viên nói.
“Dự án Trinity.”
“Xin giữ máy.”
Rachel nhắm mắt. Tay nàng run bần bật, và một tiếng nói bên trong bảo nàng bỏ máy. Nhưng trước khi nàng có thể thì một giọng đàn ông cụt lủn hỏi trong máy. “Xin hỏi ai gọi vậy?”
“Rachel Weiss.”
Có tiếng thở gấp. “Nhắc lại?”
“Tôi là bác sĩ Rachel Weiss. Tôi đang đi cùng bác sĩ David Tennant, tôi rất cần giúp đỡ. Tôi nghĩ anh ấy sắp chết.”
“Bình tĩnh nào, tôi sẽ…”
“Làm ơn,” nàng gào lên, cuối cùng nàng đã mất tự chủ. “Tôi cần nói chuyện với người có chuyên môn!”
“Bác sĩ Weiss, dù cô đang làm gì, hãy giữ máy. Cô đã đi đúng hướng. Đừng nghi ngờ gì điều đó.”