Tôi gần như chắc chắn chính là hắn, nhưng cũng chỉ gần như, trước đây tôi chưa bao giờ ở vào tình thế chỉ gần như chắc chắn. Tôi cảm thấy yếu ớt, chếnh choáng, gần như phát ốm với một cảm giác lẫn lộn gồm cả kích động, không chắc chắn và hoàn toàn sai trái – nhưng tất nhiên, Người lữ hành Tối Tăm lúc này đang điều khiển xe từ băng ghế sau và những gì tôi cảm thấy không còn quan trọng tới mức khủng khiếp nữa vì nó có vẻ mạnh mẽ, lạnh lùng, hăm hở và sẵn sàng. Tôi có thể cảm nhận được nó đang nở căng ra trong tôi, hiện ra từ những góc Dexter Tối Tăm trong bộ não thằn lằn của mình, một cảm giác dâng tràn và căng nở chỉ có thể kết thúc theo một cách, trong trường hợp đó tốt nhất là theo cách này.
Tôi đã tìm ra hắn vài tháng trước, nhưng sau một thời gian theo dõi ngắn, tôi đi đến quyết định gã mục sư là một vụ chắc chắn, còn tên này có thể đợi lâu hơn một chút, cho tới khi hoàn toàn khẳng định được.
Tôi đã sai lầm biết bao. Giờ đây tôi phát hiện ra hắn không thể đợi thêm một giây nào nữa.
Hắn sống trên một con phố nhỏ ở Coconut Grove. Một vài khối nhà cùng một phía với ngôi nhà nhỏ nhếch nhác của hắn, cư dân láng giềng, là những khu nhà của người da đen có thu nhập thấp, vài hàng đồ nướng và những ngôi nhà thờ xập xệ. Chạy dài suốt nửa dặm theo hướng ngược lại là các triệu phú sống trong những ngôi nhà hiện đại to quá cỡ và được xây tường cao kiên cố để ngăn cản những kẻ như hắn. Nhưng Jamie Jaworski lại ở đúng chính giữa, trong một căn nhà hắn chia sẻ cùng cả triệu con rận và con chó xấu xí nhất tôi từng nhìn thấy.
Tuy vậy, đó vẫn là một căn nhà đáng ra hắn không thể có được. Jaworski làm lao công bán thời gian tại trường Cấp hai Ponce de Leon và từ tất cả những gì tôi biết, đó là nguồn thu nhập duy nhất của hắn. Hắn làm việc ba ngày một tuần, có nghĩa là chỉ vừa đủ để sống chứ không hơn. Tất nhiên, tôi không quan tâm tới khía cạnh tài chính của hắn. Tôi ngược lại rất quan tâm tới số lượng trẻ con bỏ nhà đi ở Ponce đã tăng lên một con số nhỏ nhưng đáng kể từ lúc Jaworski bắt đầu làm việc tại đó. Tất cả đều là các cô bé từ mười hai đến mười ba tuổi, tóc sáng màu.
Tóc sáng màu. Chi tiết này rất quan trọng. Vì một lý do nào đó, đây là loại chi tiết dường như cảnh sát hay bỏ qua nhưng lại luôn thu hút sự chú ý của những kẻ như tôi. Có lẽ vì điều đó không được đúng đắn về mặt chính trị, những cô bé tóc sẫm và có nước da sẫm đáng ra cũng phải có cơ hội tương đương trong chuyện bị bắt cóc, lạm dụng tình dục, rồi bị cắt thành từng mảnh trước máy quay, các vị có nghĩ vậy không?
Jaworski dường như cũng thường xuyên là nhân chứng cuối cùng nhìn thấy đứa trẻ mất tích. Cảnh sát đã nói chuyện với hắn, giữ lại qua đêm, thẩm vấn và không thể tìm ra bất cứ manh mối nào có dính dáng đến hắn. Tất nhiên, họ đã phải đối diện với những yêu cầu pháp lý rắc rối. Chẳng hạn như hình thức tra tấn gần đây đã bị cấm ngặt trong phần lớn trường hợp. Nếu không có một phương án thuyết phục đầy sức mạnh nào đó, Jamie Jaworski sẽ chẳng bao giờ chịu mở miệng về thú vui của hắn. Tôi biết, với tôi chắc chắn là không.
Nhưng tôi biết hắn đã làm chuyện đó. Hắn đang giúp những cô bé đó biến mất vào những sự nghiệp phim ảnh rất nhanh chóng và tối hậu. Tôi gần như chắc chắn. Tôi vẫn chưa tìm thấy mảnh thi thể nào và chưa nhìn thấy tận mắt hắn làm điều đó, nhưng mọi thứ đều khớp. Trên mạng, tôi đã tìm ra được một số bức ảnh đặc biệt sáng tạo của ba trong số những cô bé mất tích. Trông chúng có vẻ không hạnh phúc lắm trong những bức ảnh đó, cho dù một số việc chúng đang làm vốn được coi là để mang lại niềm vui, như tôi vẫn được cho hay.
Tôi không thể khẳng định được mối liên hệ giữa Jaworski với những bức ảnh. Nhưng địa chỉ hòm thư là khu Nam Miami, chỉ cách trường học vài phút. Hắn đang sống nhờ mức thu nhập của mình. Mà dù thế nào đi nữa, tôi đang bị nhắc nhở mỗi lúc một quyết liệt hơn từ băng ghế sau rằng không còn thời gian nữa, rằng đây không phải là một vụ trong đó sự chắc chắn là vô cùng quan trọng.
Nhưng con chó xấu xí kia làm tôi lo lắng. Những con chó luôn là một mối rắc rối. Chúng không thích tôi và thường xuyên không tán thành những gì tôi làm với chủ của chúng, nhất là khi tôi không chịu chia sẻ những miếng ngon. Tôi cần phải tìm ra cách vượt qua con chó để tiếp cận Jaworski. Có thể hắn sẽ mò ra ngoài. Nếu không, tôi buộc phải tìm cách vào trong.
Tôi lái xe chạy qua trước nhà Jaworski ba lần, nhưng vẫn chưa có ý tưởng nào đến. Tôi cần chút may mắn, cần nó trước khi Người lữ hành Tối Tăm khiến tôi làm điều gì đó hấp tấp. Đúng lúc người bạn quý hóa của tôi bắt đầu thì thầm những lời gợi ý bất cẩn, tôi có được chút may mắn của mình. Jaworski ra khỏi nhà và bắt đầu leo lên chiếc Toyota bán tải màu đỏ méo mó của hắn khi tôi lái xe ngang qua. Tôi chạy chậm lại hết mức có thể và sau khoảnh khắc, hắn đã lùi xe ra và lao chiếc bán tải về phía đường Douglas. Tôi vòng lại bám theo.
Tôi không biết mình sẽ thực hiện việc này như thế nào. Tôi chưa được chuẩn bị. Tôi không có căn phòng an toàn nào, chưa có tấm ga sạch sẽ nào, chẳng có gì ngoài một cuộn băng dính và một con dao lạng thịt để dưới ghế. Tôi cần phải làm gì đó để không bị phát hiện, không bị chú ý, phải hoàn hảo, nhưng tôi chưa có ý tưởng nào. Tôi ghét phải tùy cơ ứng biến, nhưng lúc này tôi không có quyền lựa chọn.
Thêm một lần nữa tôi lại gặp may mắn. Mật độ xe cộ rất thoáng trong lúc Jaworski lái xe về hướng nam tới đường Old Cutler và sau khi đi thêm chừng một dặm, hắn ta rẽ trái về phía biển. Một dự án phát triển mới đang được tiến hành để cải thiện cuộc sống của tất cả chúng ta bằng cách biến cây cối và động vật thành xi măng và những người già đến từ New Jersey. Jaworski thong thả lái xe qua các công trình xây dựng, ngang qua một nửa sân golf với những cây cờ đã cắm vào đúng vị trí nhưng chưa hề có thảm cỏ, cho tới khi hắn gần tới mép nước. Bộ khung của một khu căn hộ cao cấp lớn đang xây dở dang nhô lên che khuất mặt trăng. Tôi tụt lại sau thật xa, tắt đèn pha, rồi nhích lại đủ gần để quan sát xem con mồi của mình đang định làm gì.
Jaworski đã dừng xe cạnh khối nhà sẽ trở thành khu căn hộ cao cấp, rồi đỗ hẳn xe lại. Hắn ra khỏi xe, đứng giữa chiếc bán tải và một đống cát lớn. Trong giây lát, hắn chỉ đứng nhìn quanh và tôi dạt vào vệ đường, tắt động cơ. Jaworski nhìn chằm chằm lên phía khối nhà, rồi sau đó đi xuống con đường dẫn ra biển. Hắn có vẻ hài lòng và đi vào trong tòa nhà. Tôi gần như chắc chắn hắn đang tìm kiếm một nhân viên bảo vệ. Cả tôi cũng vậy. Tôi hy vọng hắn là kẻ biết mình làm gì. Thường thì tại những khu dự án phát triển xây dựng cỡ lớn như thế này, một nhân viên bảo vệ sẽ dùng xe điện đi tuần từ địa điểm này qua địa điểm khác. Điều đó sẽ tiết kiệm tiền bạc, nhưng dù sao, đây là Miami. Một phần chi phí dự kiến cho bất cứ dự án nào đều được dành cho phần vật liệu được lường trước rằng sẽ lặng lẽ biến mất. Theo nhận định của tôi, có vẻ như Jaworski đã lên kế hoạch giúp nhà thầu rải ngân hết kinh phí.
Tôi ra khỏi xe, nhét con dao lạng thịt và cuộn băng dính vào cái túi rẻ tiền mang theo. Tôi đã cho sẵn vào trong đó vài đôi găng tay làm vườn tráng cao su và vài bức ảnh, ngoài ra không còn gì khác. Chỉ là những thứ vặt vãnh tôi tải về từ Internet. Tôi khoác túi lên vai, lặng lẽ bước đi trong đêm cho đến khi tới chỗ chiếc xe bán tải rách tã của hắn. Thùng xe cũng trống trơn như trong buồng lái. Từng chồng cốc giấy và giấy gói Burger King cùng những vỏ bao thuốc lá rỗng hiệu Camel nằm dưới sàn. Chẳng có thứ gì không nhỏ nhặt và bẩn thỉu, hệt như chính con người Jaworski.
Tôi ngước mắt nhìn lên. Phía trên rìa khối nhà đang xây dở, tôi chỉ có thể nhìn thấy vầng sáng của ánh trăng. Một cơn gió đêm thổi ngang qua mặt tôi, mang theo nó tất cả những thứ mùi quyến rũ của chốn thiên đường nhiệt đới nơi chúng tôi đang sống: dầu diesel, thực vật mục ruỗng và xi măng. Tôi hít thật sâu và hướng suy nghĩ trở lại Jaworski.
Hắn ở đâu đó bên trong bức tường của tòa nhà. Tôi không biết mình có bao nhiêu thời gian, một giọng nói khe khẽ cất lên thúc giục tôi hãy khẩn trương. Tôi rời khỏi chỗ chiếc xe bán tải và đi vào trong tòa nhà. Khi bước qua cửa, tôi nghe thấy hắn. Hay đúng hơn là một thứ âm thanh vo vo, rào rạo là lạ hẳn phải thuộc về hắn, hoặc…
Tôi dừng lại. Tiếng động vọng tới, nghiêng theo một bên và tôi khẽ rón rén tiến về hướng đó. Một đường ống chạy ngược lên theo bức tường, một đường dây điện. Tôi áp một bàn tay lên đường ống và thấy nó rung động, như thể có thứ gì đang chuyển động bên trong.
Một tia sáng lóe lên trong đầu tôi. Jaworski đang lôi dây điện ra. Đồng rất đáng tiền, có một thị trường chợ đen cực kỳ phát đạt buôn bán đồng dưới mọi dạng. Thêm một cách thức khiêm tốn nữa để bổ sung cho đồng lương lao công eo hẹp, giúp hắn trải qua quãng thời gian dài đói kém giữa những lần mất tích của các cô bé. Hắn có thể kiếm được vài trăm đô la cho mỗi mớ dây điện ăn cắp.
Bây giờ, tôi hiểu hắn đang định làm gì, một ý tưởng lờ mờ bắt đầu định hình trong đầu tôi. Từ tiếng động, có thể suy ra hắn đang ở đâu đó phía trên đầu tôi. Tôi có thể dễ dàng bám theo hắn, ẩn kín đằng sau hắn cho tới thời điểm thích hợp, sau đó ra đòn. Nhưng tại đây tôi hoàn toàn trần trụi, hoàn toàn lộ diện và chưa sẵn sàng. Tôi đã quen thực hiện những chuyện kiểu này một cách chắc chắn. Bước chân ra khỏi những giới hạn thận trọng của mình làm tôi cảm thấy cực kỳ bất an.
Một cơn gai lạnh lặng lẽ trườn lên dọc sống lưng. Sao tôi lại làm chuyện này?
Câu trả lời nhanh chóng xuất hiện, dĩ nhiên rồi, không phải tôi đang làm chuyện này. Ông bạn quý hóa ngồi trên băng ghế sau tối tăm của tôi mới là kẻ đang làm chuyện đó. Tôi chỉ lái xe đi vì tôi có bằng lái. Nhưng giữa chúng tôi đã đi tới một thỏa thuận chung, giữa anh ta và tôi. Chúng tôi đã đạt được một phương thức tồn tại cân bằng, thận trọng, một cách chung sống, thông qua giải pháp theo kiểu Harry của chúng tôi. Giờ đây anh ta đang điên cuồng xông ra ngoài những đường ranh giới được vạch bằng phấn cẩn thận, đẹp đẽ của Harry. Tại sao? Tức giận ư? Chẳng lẽ cuộc xâm nhập tư gia của tôi thực sự là một hành động xúc phạm tới mức làm anh ta thức tỉnh để ra tay báo thù?
Anh ta không tức giận với tôi – như mọi khi, anh ta dường như vẫn bình thản, phấn khích một cách lặng lẽ, háo hức với con mồi của mình. Và tôi cũng vậy. Tôi cảm thấy hơi chếnh choáng, lơ lửng như cánh diều cao vút, đùa nghịch trên lưỡi dao đầy phởn phơ khoan khoái, lắc lư qua một chuỗi những tiếng rì rầm nội tại giống đến kỳ lạ với những gì tôi luôn nghĩ về biểu hiện của các cảm xúc. Vũ điệu lắc lư chao đảo của nó đã lôi tôi đến nơi nguy hiểm, bẩn thỉu, chưa hề được lên kế hoạch trước để làm một việc do sự thôi thúc của khoảnh khắc mà trước đây luôn xuất hiện khi tôi đã lên kế hoạch chu đáo. Thậm chí kể cả khi biết rõ tất cả, tôi vẫn muốn thực hiện nó đến cùng cực. Tôi phải thực hiện nó.
Vậy thì được thôi. Nhưng tôi không nhất thiết phải thực hiện nó một cách trần trụi. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Một đống lớn những tấm thạch cao hiệu Sheetrock xếp ngổn ngang ở phía cuối phòng, được buộc chằng lại bằng bao vải. Chỉ trong khoảnh khắc, tôi đã cắt được cho mình một cái tạp dề và một cái mặt nạ trong suốt kỳ cục từ tấm vải bọc: mũi, miệng, mắt được khoét lỗ để tôi có thể thở, nói và nhìn. Tôi áp chặt nó lên mặt, cảm thấy nó làm biến dạng các đường nét trên khuôn mặt mình thành một thứ không thể nhận ra được nữa. Tôi buộc hai đầu ra sau gáy, thắt mảnh vải phủ nhựa lại thành một nút thắt vụng về. Vô danh hoàn toàn. Có vẻ hơi ngớ ngẩn, nhưng tôi đã quen đi săn với một cái mặt nạ. Và bên cạnh thôi thúc đòi hỏi thực hiện mọi thứ một cách đúng đắn trong đầu, như thế đơn giản giúp bớt đi một thứ cần bận tâm đến. Nó giúp tôi thư giãn hơn chút ít, thế nên đây là một ý tưởng hay. Tôi lấy găng tay từ trong túi ra và xỏ vào. Giờ tôi đã sẵn sàng.
Tôi tìm thấy Jaworski trên tầng ba. Một cuộn dây điện khoanh tròn dưới chân hắn. Tôi đứng trong bóng tối của cầu thang, quan sát trong lúc hắn lôi dây điện ra. Tôi lại rút lui vào dưới cầu thang và mở túi ra. Dùng cuộn băng dính, tôi treo những bức ảnh mang theo lên. Những bức ảnh bé nhỏ ngọt ngào của các cô bé mất tích, trong một loạt tư thế đáng yêu và lộ liễu khác nhau. Tôi dán chúng lên tường bê tông ở chỗ Jaworski có thể thấy khi hắn đi qua cửa xuống cầu thang.
Tôi quay lại nhìn Jaworski. Hắn lại rút thêm chừng hai mươi yard[33] dây nữa. Đoạn dây kẹt vào thứ gì đó và không thể lôi thêm được nữa. Jaworski giật mạnh hai lần, sau đó lấy một cái kìm nặng trịch từ trong túi đeo sau lưng ra và cắt dây. Hắn cầm cuộn dây dưới chân lên và cuộn chặt thành một cuộn lên cánh tay. Sau đó hắn bước ra phía cầu thang – ra phía tôi.
Tôi lùi vào trong cầu thang và chờ đợi.
Jaworski không cố tỏ ra im lặng. Hắn không hề trông đợi bị bất cứ ai làm gián đoạn và chắc chắn hắn càng không hề trông đợi gặp tôi. Tôi nghe thấy tiếng bước chân của hắn, tiếng lạo xạo khe khẽ của cuộn dây bị lôi đi sau lưng. Gần hơn…
Hắn đi qua cửa, bước qua một bước mà không hề thấy tôi. Thế rồi hắn nhìn thấy các bức ảnh.
“Ái chà,” hắn thốt lên, như thể vừa bị đấm mạnh vào bụng. Hắn trợn tròn mắt, há hốc miệng, không thể cử động, rồi tôi đã ở sau lưng hắn, kề dao vào cổ họng hắn.
“Đừng động đậy, không một tiếng động nào hết,” chúng tôi nói.
“Này, xem nào…” hắn nói.
Tôi khẽ xoay cổ tay, ấn mũi dao vào da hắn ngay dưới cằm. Hắn thở hắt ra tuyệt vọng, một tia máu nhỏ xấu xí vọt ra. Thật không cần thiết. Tại sao người ta chẳng bao giờ biết lắng nghe vậy chứ?
“Tao nói, không một tiếng động nào hết,” chúng tôi bảo hắn, giờ thì hắn im bặt.
Sau đó, âm thanh duy nhất là tiếng xoèn xoẹt của cuộn băng dính được bóc ra, tiếng Jaworski thở dốc và những tiếng tặc lưỡi êm ái của Người lữ hành Tối Tăm. Tôi dán băng dính lên miệng hắn, quấn một đoạn dây đồng quý báu của gã lao công quanh cổ tay hắn, lôi tới bên một đống Sheetrock được bọc trong vải nhựa. Trong chốc lát, tôi đã lôi hắn lên trói chặt vào cái bàn tự tạo.
“Chúng ta hãy nói chuyện nào,” chúng tôi nói bằng giọng ôn tồn, lạnh lẽo của Người lữ hành Tối Tăm.
Hắn không biết mình có được phép nói hay không, trong trường hợp nào đi nữa miếng băng dính cũng sẽ làm chuyện đó trở nên khó khăn, vậy là hắn giữ im lặng.
“Hãy nói chuyện về những cô bé mất tích,” chúng tôi nói, đồng thời giật băng dính khỏi miệng hắn.
“Oao… cái… ý ông là gì?” hắn nói. Nhưng hắn diễn không được thuyết phục lắm.
“Tao nghĩ mày biết ý tao muốn nói gì,” chúng tôi nói với hắn.
“Không… không,” hắn nói.
“Ồ, có đấy,” chúng tôi nói.
Có lẽ là hơi thông minh. Việc tính toán thời điểm của tôi đã sai lệch, cả buổi tối này đều sai lệch. Nhưng hắn đã trở nên bạo gan hơn. Hắn ngước mắt lên nhìn vào khuôn mặt sáng lóa của tôi. “Ông là ai, cớm hay là gì?” hắn hỏi.
“Không,” chúng tôi nói và cắt rời tai trái của hắn ra. Đó là thứ gần lưỡi dao nhất. Con dao sắc lẻm và trong giây lát, hắn không thể tin nổi chuyện đó vừa xảy đến với mình, vĩnh viễn, mãi mãi không còn tai trái nữa. Vậy là tôi ném cái tai lên ngực hắn để hắn tin. Đôi mắt hắn trợn tròn, hít đầy hai buồng phổi để hét lên, nhưng tôi đã nhét một mớ vải nhựa vào mồm hắn trước khi kịp làm chuyện đó.
“Đừng có làm vậy,” chúng tôi nói. “Những chuyện còn tồi tệ hơn có thể xảy ra.” Và sẽ là thế, chắc chắn rồi, nhưng hắn không cần phải biết.
“Những cô bé mất tích?” chúng tôi lại hỏi, dịu dàng, lạnh lùng, rồi đợi một lát, quan sát đôi mắt hắn, để bảo đảm chắc chắn hắn không gào lên, sau đó tháo cuộn vải bịt miệng hắn ra.
“Chúa ơi,” hắn rên lên. “Tai tôi…”
“Mày còn cái nữa, cũng tốt chẳng kém,” chúng tôi nói. “Hãy nói cho bọn tao biết về các cô bé trong mấy bức hình kia.”
“Các ông? Ý ông là sao, các ông? Chúa ơi, đau quá,” hắn rên rỉ.
Vài người chỉ đơn giản là không chịu hiểu. Tôi lại nhét nắm vải nhựa vào miệng hắn và bắt tay vào việc.
Tôi gần như bị mất kiểm soát; thật dễ bị cuốn đi như thế trong hoàn cảnh này. Tim tôi đang đập thình thịch như hóa dại và tôi buộc phải tranh đấu quyết liệt để giữ cho tay mình khỏi run rẩy. Nhưng tôi tiếp tục công việc của mình, khám phá, tìm kiếm thứ gì đó luôn nằm ngay ngoài tầm tay với. Phấn khích và cực kỳ thất vọng. Áp lực đang tăng dần trong tôi, dâng lên tai, gào thét đòi được giải thoát, nhưng chẳng có sự giải thoát nào tới. Chỉ có áp lực cứ tăng lên mãi và cảm giác một thứ gì đó tuyệt vời đang nằm ngoài khả năng giác quan của tôi có thể cảm nhận, chờ đợi tôi tìm thấy, lao ùa vào nó. Nhưng tôi không thể tìm thấy, không có chuẩn mực cũ nào cho tôi được chút hào hứng. Phải làm gì đây? Trong lúc bối rối, tôi mở phanh một tĩnh mạch ra, một vũng máu kinh khủng xuất hiện trên mặt vải nhựa dọc theo người gã lao công. Tôi dừng lại một lát, tìm kiếm câu trả lời và không tìm thấy gì. Tôi quay mặt nhìn đi, ra ngoài khung cửa sổ. Tôi nhìn chằm chằm, đến nín thở.
Mặt trăng hiện rõ mồn một trên mặt nước. Vì một lý do nào đó tôi không giải thích được, một lý do thật hợp lý, thật cần thiết, mà trong khoảnh khắc tôi chỉ nhìn về phía mặt nước, ngắm nhìn nó sáng lấp lánh, thật hoàn hảo. Tôi loạng choạng, vấp vào cái bàn tự tạo của mình và trở lại là chính tôi. Nhưng mặt trăng… hay đó là mặt nước?
Thật gần… tôi đang ở thật gần thứ gì đó, tới mức hầu như có thể ngửi được nó – nhưng là thứ gì? Một cơn rùng mình lan khắp người tôi – cảm giác này cũng thật đúng, đến mức nó làm bùng lên một loạt cơn rùng mình nữa cho tới khi hai hàm răng tôi va vào nhau lập cập. Nhưng tại sao? Thế có nghĩa là gì? Có thứ gì đó ở kia, thứ gì đó quan trọng, một thứ gì đó tinh khiết và rõ ràng đến tột độ đang bao phủ lên mặt trăng, trùm lên mặt nước, ngay gần mũi con dao lạng thịt và tôi không thể bắt kịp nó.
Tôi quay lại nhìn gã lao công. Hắn làm tôi thật tức giận bởi cái cách hắn nằm đó, trên người đầy những vết cắt và vết máu không cần thiết. Nhưng thật khó lòng tức giận mãi khi mặt trăng Florida lộng lẫy chiếu rọi vào tôi, những cơn gió nhiệt đới hây hẩy thổi, những âm thanh kỳ diệu ban đêm của băng dính bị xé và những nhịp thở kinh hãi. Tôi gần như phải bật cười. Một số người lựa chọn cái chết vì những điều rất lạ thường, những con rận nhãi nhép đáng ghê tởm này lại chết vì dây đồng. Và vẻ mặt hắn: thật đau đớn, bối rối và tuyệt vọng. Đáng ra đã có thể thật buồn cười nếu tôi không cảm thấy thất vọng đến thế.
Hắn thực sự không đáng để tôi phải cố gắng nhiều hơn, nói cho cùng, chẳng phải lỗi của hắn nếu tôi không có được phong độ thông thường. Thậm chí hắn còn chẳng đủ xấu xa để được nằm trên đầu danh sách CẦN XỬ LÝ của tôi. Hắn chỉ là một gã khốn nhãi nhép ghê tởm đã giết trẻ con vì tiền và dục vọng, chỉ là bốn hay năm đứa, theo những gì tôi biết. Tôi gần như thấy thương hại cho hắn. Quả thực hắn vẫn chưa sẵn sàng để gia nhập sân chơi đỉnh cao.
A, được rồi. Trở lại công việc thôi. Tôi quay lại bên Jaworski. Bây giờ hắn không còn giãy giụa nhiều nữa, nhưng hắn vẫn còn quá nhiều sinh lực cho những phương pháp thông thường của tôi. Tất nhiên, tối nay tôi không có những món đồ chơi đẳng cấp nhà nghề của mình và cuộc hành trình hẳn đã có phần hơi gai góc với Jaworski. Nhưng như một người lính thực thụ, hắn đã không hề phàn nàn. Tôi chợt cảm thấy một chút cảm tình và chậm lại một chút quá trình tiếp cận cẩu thả của mình, dành thời gian tỉ mỉ trau chuốt hơn cho hai bàn tay của hắn. Hắn đáp lại với thái độ nhiệt tình thực sự và tôi lướt đi, đắm chìm trong cuộc nghiên cứu đầy hạnh phúc.
Cuối cùng, những tiếng gào thét bị bịt kín và những cơn quẫy đạp điên cuồng của hắn gọi tôi trở về với bản chất của mình. Tôi nhớ thậm chí còn chưa bảo đảm chắc chắn về tội lỗi của hắn. Tôi đợi hắn bình tâm lại, sau đó tháo nắm vải nhựa khỏi mồm hắn.
“Những cô bé mất tích?” chúng tôi hỏi.
“Ôi Chúa ơi. Lạy Chúa. Ôi Chúa ơi,” hắn thều thào yếu ớt.
“Tao không nghĩ thế,” chúng tôi nói. “Tao nghĩ có lẽ chúng ta đã để họ lại sau.”
“Làm ơn,” hắn nói. “Ôi, làm ơn…”
“Hãy nói cho tao biết về những cô bé mất tích,” chúng tôi nói.
“Được,” hắn thở hắt ra.
“Mày đã bắt những cô bé đó.”
“Phải…”
“Bao nhiêu?”
Suốt một hồi hắn chỉ thở dốc. Mắt hắn nhắm lại và tôi nghĩ có thể mình đã để mất hắn hơi sớm. Cuối cùng hắn cũng mở mắt ra nhìn tôi. “Năm,” hắn lên tiếng. “Năm vẻ đẹp bé nhỏ. Tao không thấy tiếc.”
“Tất nhiên là không rồi,” chúng tôi nói. Tôi đặt một bàn tay lên cánh tay hắn. Đó là một khoảnh khắc tuyệt đẹp. “Và bây giờ, tao cũng không thấy tiếc.”
Tôi nhét nắm vải nhựa vào mồm hắn và quay lại công việc. Nhưng tôi chỉ mới thực sự lấy lại được nhịp điệu khi nghe thấy tiếng nhân viên bảo vệ bước tới ở dưới nhà.