Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

Chương 22

Tác giả: Jeff Lindsay

Cách thức ứng xử trong giới cảnh sát, như tôi đã cố gắng hết mức để chỉ cho Deborah hiểu, là một thứ trơn tuột với vô vàn xúc tu. Khi bạn để sát lại gần nhau hai lực lượng thực thi luật pháp thực sụ chẳng buồn bận tâm đến nhau, các hoạt động phối hợp thường có xu hướng tiến triển rất chậm chạp, rất bài bản, với những chiêu ngáng chân, những màn xin lỗi, những lời nhục mạ và đe dọa ngấm ngầm. Tất nhiên, tất cả tạo thành một màn kịch thật thú vị khi theo dõi, nhưng cũng làm các quá trình lôi thôi rắc rối hơn mức cần thiết. Kết quả là phải mất đến vài giờ trôi qua sau màn la hét kinh hoàng của Steban trước khi lực lượng thực thi pháp luật được triển khai và đội của chúng tôi thực sự bắt tay vào xem xét điều ngạc nhiên nho nhỏ đầy hạnh phúc mà ông bạn mới Steban của chúng tôi khám phá ra khi mở cửa nhà kho.

Trong quãng thời gian đó, Deborah chủ yếu đứng một chỗ, cố hết sức kiểm soát tâm trạng nóng ruột của mình, nhưng lại chẳng mấy nỗ lực trong việc che giấu nó đi. Đại úy Matthews xuất hiện, lôi theo LaGuerta. Hai người bắt tay với hai nhân vật đồng cấp của hạt Broward, đại úy Moon và thám tử McClellan. Một loạt lời qua tiếng lại được cố gắng kìm giữ ở mức lịch sự vang lên, tập trung sôi sục vào tâm điểm này: Matthews đoán chắc một cách khá có lý rằng việc tìm thấy sáu cánh tay và sáu cái chân ở Broward là một phần trong cuộc điều tra của sở ông ta, liên quan tới ba cái đầu thiếu mất đúng những phần cơ thể này được phát hiện ra ở Miami – Dade. Ông ta lý luận, với những lời lẽ thân thiện và đơn giản đến thái quá, rằng dường như có phần hơi không tự nhiên khi nghĩ ông ta có thể tìm thấy ba cái đầu không thân mình, rồi sau đó ba phần thân mình không đầu hoàn toàn khác lại xuất hiện tại nơi này.

Moon và McClellan, cũng có lý chẳng kém, chỉ ra rằng việc người ta tìm thấy những cái đầu người tại Miami xảy ra như cơm bữa, nhưng ở Broward việc này có phần bất thường hơn một chút, cũng có lẽ vì thế họ nhìn nhận việc này có hơi nghiêm trọng hơn, dù thế nào đi nữa cũng chẳng có cách nào để biết chắc hai vụ việc có liên quan với nhau cho tới khi vài đánh giá sơ bộ được tiến hành, việc này rõ ràng phải do họ thực hiện, vì nơi này thuộc địa bàn quản lý của họ. Tất nhiên, họ sẽ hoàn toàn vui vẻ chia sẻ kết quả.

Tất nhiên, đó là chuyện không thể chấp nhận được với Matthews. Ông ta thận trọng giải thích rằng người của bên Broward không biết cần tìm cái gì và có khả năng sẽ để sót điều gì đó hay phá hủy mất một tang vật tối quan trọng. Không phải vì bất tài hay ngu ngốc, tất nhiên rồi. Matthews chắc chắn người của bên Broward đương nhiên là hoàn hảo, xét về mặt năng lực.

Tất nhiên, lời bày tỏ trên chẳng hề được Moon đón nhận một cách hân hoan, ông này bình luận với chút phật ý rằng nhận xét trên có vẻ muốn ám chỉ sở ông ta chỉ toàn những kẻ vô dụng hạng hai. Đến đây, đại úy Matthews đủ điên rồ để đáp lại một cách quá ư lịch sự, ồ, không, không phải là hạng hai. Tôi dám chắc màn đôi co hẳn đã kết thúc bằng màn so tài với nắm đấm nếu anh chàng lịch lãm từ Sở Điều tra Florida (FDLE[46]) không tới đóng vai trọng tài.

FDLE là một kiểu FBI cấp tiểu bang. Bọn họ có quyền thực thi pháp luật tại bất cứ nơi đâu trong phạm vi tiểu bang và vào bất cứ lúc nào, không giống đám đặc vụ liên bang, bọn họ được phần lớn cảnh sát địa phương tôn trọng. Viên sĩ quan vừa được nhắc đến là một anh chàng tầm vóc trung bình, đầu cạo nhẵn bóng và có bộ râu tỉa ngắn. Anh chàng này dường như không có gì khác thường với tôi, nhưng khi anh ta bước tới giữa hai tay đại úy cảnh sát đô con hơn nhiều, hai người này lập tức im bặt và cùng lùi một bước ra sau. Nói một cách ngắn gọn, anh ta đã đưa mọi thứ trở lại trật tự và có tổ chức, vậy là chúng tôi nhanh chóng trở lại là một hiện trường ngăn nắp, trật tự của một vụ giết người hàng loạt.

Nhân vật từ FDLE tới đã phân xử rằng đây là cuộc điều tra của phía Miami – Dade trừ khi và cho tới lúc các mẫu mô thi thể chứng minh rằng những phần thân mình tìm thấy tại đây và những cái đầu tìm được bên đó không có liên hệ gì với nhau. Nói một cách thực tế và tức thời, điều đó có nghĩa là đại úy Matthews cần là người đầu tiên đứng ra cho đám phóng viên đã kịp xúm đông xúm đỏ bên ngoài chụp ảnh.

Angel – không – họ – hàng xuất hiện và bắt tay vào việc. Tôi hoàn toàn không dám chắc mình có thể khai thác được gì từ chuyện này, ý tôi không hề muốn nói tới quyền hạn thực thi luật pháp. Không, tôi đang bận tâm hơn nhiều tới bản thân biến cố, điều đã khiến tôi có nhiều thứ phải suy nghĩ, không chỉ đơn thuần về hành động giết người và chia phần các xác chết, cho dù bản thân nó cũng đã đủ ấn tượng. Nhưng tất nhiên tôi đã tìm được cơ hội ngó qua căn nhà kho nhỏ bé kinh hoàng của Steban từ trước khi cảnh sát xuất hiện, các vị có thể trách cứ tôi được không, thú thật đi? Tôi chỉ muốn lấy mẫu từ hiện trường và cố hiểu tại sao anh bạn đồng nghiệp vô danh đáng mến của tôi lại chọn cách chất đống những phần thi thể còn lại trong đó, kỳ thực chỉ là một cái nhìn qua.

Vậy là, ngay sau khi Steban bò lê bò càng qua cửa, quằn quại và rên rỉ như một con lợn bị hóc một quả bưởi, tôi đã hăng hái quay lại nhà kho để xem thứ gì đã làm ông ta bị kích động đến thế.

Lần này, các phần thi thể không được gói ghém lại chu đáo. Thay vào đó, chúng được bày ra dưới sàn nhà thành bốn nhóm. Khi nhìn cận cảnh hơn, tôi nhận ra một điều kỳ thú.

Một cái chân được để nằm dọc theo bên trái nhà kho. Nó nhợt nhạt, mang màu xanh – trắng không hề dính máu, quanh cổ chân có một sợi dây chuyền vàng nhỏ với một mặt dây hình trái tim. Quả thực rất bắt mắt, không hề bị những vết máu ghê tởm làm vấy bẩn, quả là một tác phẩm tuyệt đẹp. Hai cánh tay sẫm màu, cũng được cắt ra khéo léo tương tự, được uốn cong lại ở khuỷu và đặt dọc bên cạnh cái chân, với khuỷu tay chìa ra phía đối diện. Ngay bên cạnh là phần chân tay còn lại, tất cả đều được uốn cong tại các khớp và được xếp thành hai vòng tròn lớn.

Màn sắp đặt khiến tôi phải mất một khoảnh khắc suy nghĩ. Tôi chớp mắt, rồi đột nhiên nó xuất hiện trong tầm chú ý, tôi phải cau mày hết cỡ để tránh không bật cười khúc khích thành tiếng chẳng khác gì một cô bé con, đúng như Deb vừa chỉ trích tôi lúc trước.

Bởi vì hắn đã sắp xếp các cánh tay và chân thành các chữ cái, những chữ cái này tạo thành một từ bé nhỏ duy nhất: BOO.

Ba khúc thân mình được cẩn thận sắp xếp dưới từ BOO thành phần tư vòng tròn, tạo nên một nụ cười nhỏ nhắn dễ mến theo phong cách Halloween.

Thật là một tên đểu cáng tinh quái.

Nhưng ngay trong lúc ngưỡng mộ thái độ đùa cợt của màn sắp đặt thể hiện, tôi băn khoăn tự hỏi tại sao hắn lại chọn thể hiện màn sắp đặt ở đây, trong một nhà kho, thay vì ngoài sân băng, nơi nó có thể được nhiều khán giả hơn chiêm ngưỡng. Đúng là nhà kho này khá rộng rãi, nhưng vẫn là một nơi khép kín, chỉ vừa đủ chỗ để trình bày. Vậy thì tại sao?

Trong lúc tôi còn băn khoăn, cửa ngoài nhà thi đấu bật tung trong tiếng lạch cạch, đội tiếp ứng đầu tiên tới nơi, không nghi ngờ gì nữa. Một khoảnh khắc sau đó, khung cửa bị mở toang, hắt vào một luồng không khí lạnh trên mặt băng, vào lưng tôi…

Luồng không khí lạnh lẽo xuyên qua xương sống tôi, được trả lời bằng một luồng nóng hổi di chuyển lên trên theo cùng con đường đó. Nó lướt đi như những ngón tay chạm nhẹ nhàng tới tận phần đáy tối tăm trong phần ý thức của tôi, có thứ gì đó thay đổi đâu đó sâu thẳm trong màn đêm không trăng nơi tiềm thức của tôi ẩn náu. Tôi cảm thấy Người lữ hành Tối Tăm đồng tình dữ dội với điều gì đó tôi thậm chí không thể nghe thấy hay hiểu được, ngoại trừ theo cách nào đó nó có liên quan tới cảm giác khẩn cấp nguyên thủy làn gió lạnh mang tới, những bức tường khép lại, cùng với một cảm giác mãnh liệt về…

Sự đúng đắn. Không nghi ngờ gì nữa. Có điều gì đó đơn giản đã diễn ra đúng đắn hoàn toàn và làm kẻ đang chơi trò đuổi bắt với tôi trong bóng tối khoan khoái, phấn khích và hài lòng theo cách tôi chưa hiểu được. Bồng bềnh lơ lửng trên tất cả là ý niệm thật lạ lùng rằng chuyện này rất quen thuộc. Chẳng có điều gì trong nó có bất kỳ ý nghĩa nào với tôi, nhưng nó vẫn luôn hiện hữu ở đó. Và trước khi tôi có thể khám phá những điều hé lộ lạ lùng này xa hơn nữa, tôi bị một anh chàng trẻ tuổi thấp người, to bè bè mặc đồng phục màu xanh thúc giục đứng dậy và giơ hai tay ra rõ ràng trong tầm nhìn. Không nghi ngờ gì nữa, anh chàng này là người đầu tiên trong toán cảnh sát vừa tới nơi, anh ta đang chĩa súng của mình vào tôi một cách đầy thuyết phục. Vì anh chàng này chỉ có một dải lông mày đen sẫm chạy liền một lèo ngang mặt và không có phần trán nào rõ rệt, tôi quyết định làm theo ý nguyện của anh ta sẽ là một ý tưởng rất khôn ngoan. Anh ta có vẻ đúng là loại vai u thịt bắp đần độn có thể nã đạn vào một người vô tội – hay thậm chí cả tôi. Tôi bước ra khỏi nhà kho.

Thật không may, cuộc rút lui của tôi làm hé lộ ra màn trình diễn nho nhỏ được trưng bày trong nhà kho, anh chàng trẻ tuổi kia đột nhiên hối hả lao đi tìm chỗ nào đó để cho ra bữa sáng của mình. Anh ta trút nó vào một thùng rác to cách đó chừng mười foot[47] trước khi bắt đầu những âm thanh ậm ọe kinh hồn. Tôi đứng khá im lìm, chờ đợi anh ta xong việc. Một thói quen xấu xa, phun thức ăn đang tiêu hóa dở dang tung tóe ra như thế. Thật mất vệ sinh. Đây lại là một người chăm lo cho an ninh cộng đồng nữa chứ.

Thêm nhiều bộ đồng phục nữa bước vào và chẳng bao lâu sau, anh bạn có bộ mặt khỉ của tôi lại có thêm vài đồng nghiệp cùng chia sẻ cái thùng rác với anh ta. m thanh tạo nên quả là khó chịu đến cùng cực, chưa nói gì tới thứ mùi lúc này đang xộc thẳng về hướng tôi. Nhưng tôi vẫn lịch sự chờ họ kết thúc, vì một trong những điều đáng kinh ngạc nhất về một khẩu súng ngắn là nó vẫn có thể được sử dụng hiệu quả từ một người đang nôn ọe. Nhưng cuối cùng thì một trong số những anh chàng mặc đồng phục cũng đứng thẳng người dậy, lấy tay áo lau mặt, bắt đầu xét hỏi tôi. Tôi nhanh chóng được loại khỏi vòng nghi vấn, được đẩy sang bên với yêu cầu không được đi đâu hay động vào bất cứ thứ gì.

Đại úy Matthews và thám tử LaGuerta xuất hiện không bao lâu sau đó, khi họ cuối cùng cũng kiểm soát hiện trường, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút. Nhưng bây giờ, khi thực sự có thể đi đâu đó và đụng chạm vào thứ gì đó, tôi chỉ ngồi và suy nghĩ. Những điều tôi nghĩ tới lúc này lại rắc rối một cách đáng ngạc nhiên.

Tại sao màn sắp đặt trong nhà kho dường như lại quen thuộc đến thế?

Trừ khi tôi sắp quay trở lại khoảnh khắc ngớ ngẩn trước đó trong ngày và thuyết phục bản thân rằng chính tôi đã thực hiện chuyện này, tôi hoàn toàn không hiểu nổi tại sao nó lại dường như chẳng có gì bất ngờ một cách thú vị đến thế. Tất nhiên, không phải tôi đã làm chuyện này. Tôi đã cảm thấy xấu hổ về sự ngớ ngẩn của ý tưởng ấy. Boo, hẳn rồi. Thậm chí còn chẳng đáng mất thời gian bận tâm tới nó. Thật lố bịch.

Vậy, ừm – tại sao nó lại có vẻ quen thuộc đến thế?

Tôi thở dài và trải nghiệm thêm một cảm giác nữa, sự bối rối khi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chỉ đơn giản là tôi không có chút ý tưởng nào về những gì đang diễn ra, ngoại trừ theo cách nào đó tôi là một phần của nó. Một khám phá dường như không hữu ích cho lắm, vì nó khớp hoàn toàn với những kết luận gần gũi khác mà tôi đi tới sau khi cân nhắc phân tích một cách hợp lý. Nếu loại bỏ ý tưởng ngớ ngẩn là tôi đã làm chuyện này mà không hề biết – và tôi đã loại bỏ nó – vậy thì mỗi lời giải thích tiếp theo đều trở nên còn khó chấp nhận hơn. Vậy là bản kết luận tóm tắt của Dexter về vụ án này có thể diễn đạt như sau: anh ta có can dự vào nó theo cách nào đó, nhưng thậm chí còn chẳng biết điều đó có nghĩa là gì. Tôi có thể cảm nhận thấy những chiếc bánh xe nho nhỏ trong bộ óc từng có lúc đầy tự hào của mình trật ra khỏi đường ray và rơi xuống sàn. “Choang, choang”. Ái chà. Vậy là Dexter trật bánh.

Thật may làm sao, tôi đã được cứu thoát khỏi sụp đổ hoàn toàn nhờ sự xuất hiện của Deborah yêu quý. “Đi nào,” cô em tôi cộc cằn lên tiếng, “chúng ta đi lên tầng.”

“Anh có thể hỏi vì sao được không?”

“Chúng ta sẽ đi hỏi chuyện các nhân viên văn phòng,” cô nói. “Để xem họ có biết gì không.”

“Bọn họ nhất định phải biết gì đó nếu họ có một văn phòng,” tôi đề xuất.

Cô nhìn tôi giây lát, sau đó quay đi. “Đi thôi.”

Có thể đó là do âm điệu ra lệnh trong giọng nói của cô, vậy là tôi đi theo. Chúng tôi đi sang phía đầu bên kia của nhà thi đấu, đối diện với chỗ tôi ngồi lúc trước, rồi đi vào sảnh, ở đó, một tay cảnh sát Broward đứng bên ngoài thang máy, ngay bên ngoài hàng cửa kính, tôi có thể thấy thêm vài người nữa đứng bên ngoài cạnh một rào chắn. Deb bước tới chỗ anh chàng cớm ở thang máy và nói, “Tôi là Morgan.” Anh ta gật đầu, bấm nút thang máy đi lên. Anh chàng nhìn tôi không chút biểu cảm, một thái độ nói lên khá nhiều điều. “Tôi cũng là Morgan,” tôi nói với anh ta. Anh chàng chỉ nhìn tôi, rồi quay mặt đi nhìn chằm chằm qua cửa kính ra ngoài.

Có tiếng chuông nghèn nghẹt vang lên, thang máy đã tới nơi. Deborah hùng hổ bước vào, đấm tay vào nút mạnh đến mức đủ để làm tay cảnh sát ngước lên nhìn cô, cửa thang máy đóng lại.

“Sao lại cáu bẳn thế, em gái?” tôi hỏi cô. “Chẳng phải đây là việc em vẫn muốn làm sao?”

“Nó chỉ là chuyện sai vặt, ai cũng biết thế,” cô em tôi hằm hè.

“Nhưng là việc sai vặt kiểu dành cho thám tử,” tôi chỉ ra.

“Ả điếm LaGuerta đó lại chọc ngoáy vào,” cô em tôi rít lên. “Chừng nào xong chuyện sai vặt ở đây, em sẽ phải quay về vai đứng đường.”

“Ôi trời. Trong bộ đồ ngắn cũn cỡn khêu gợi của em sao?”

“Trong bộ đồ ngắn cũn cỡn khêu gợi của em,” cô em tôi nói, trước khi tôi kịp pha chế ra một câu an ủi thần diệu nào đó, chúng tôi lên tới tầng đặt văn phòng và cửa thang máy mở ra. Deb hùng hục bước ra, tôi theo sau. Chúng tôi nhanh chóng tìm thấy phòng nhân viên, nơi những người làm việc bàn giấy đã bị tập trung lại để chờ tới khi công lý cao cả có thời giờ bận tâm tới bọn họ. Thêm một tay cớm Broward nữa đứng ngoài cửa phòng, có lẽ để bảo đảm chắc chắn không nhân viên văn phòng nào tẩu thoát tới biên giới Canada. Deborah gật đầu với anh chàng cảnh sát ngoài cửa và bước vào phòng. Tôi bám theo sau cô không mấy hào hứng, để mặc tâm trí lang thang theo vấn đề của mình. Một khoảnh khắc sau đó, tôi giật mình bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng khi Deborah hất hàm về phía tôi và đưa một anh chàng trẻ tuổi mặt bóng nhờn, cau có với mái tóc dài thượt kinh khủng ra cửa. Tôi lại bám theo.

Tất nhiên, cô em tôi đang cách ly anh chàng khỏi những người khác để thẩm vấn, một quy trình cảnh sát rất hay ho, nhưng nói một cách thực sự chân thành, nó chẳng hề làm tôi thấy hưng phấn lên chút nào. Tôi đoán biết rằng chẳng ai trong đám người này biết điều gì có ý nghĩa đó chia sẻ. Nếu phán đoán từ mẫu vật đầu tiên này, có thể yên tâm áp dụng phỏng đoán trúng đó cho cả cuộc đời anh ta cũng như cho vụ án mạng này. Đây chỉ là một việc vặt thường quy đã được đẩy cho Deb vì viên đại úy nghĩ cô em tôi đã làm tốt điều gì đó, nhưng cô vẫn chỉ là kẻ quấy rầy. Vậy là ông ta tống khứ cô em tôi đi chỗ khác với một chút mồi nhử mang mùi vị thám tử để giữ cho cô bận rộn và khuất mắt. Tôi đã bị lôi theo cô vì Deb muốn tôi đi cùng. Có thể cô em tôi muốn xem năng lực linh cảm thần diệu của tôi có thể giúp xác định xem bầy cừu văn phòng kia đã chén gì cho bữa sáng. Chỉ một cái liếc mắt nhìn qua nước da quý ông trẻ tuổi này là tôi có thể khá chắc chắn anh chàng đã xơi pizza lạnh, khoai tây rán, chắc là cả lít pepsi. Chế độ ẩm thực này đã phá hỏng nước da của anh ta và đem đến cho anh ta một vẻ thù địch trống rỗng.

Dẫu vậy, tôi vẫn đi theo khi Quý ông Quàu Quạu dẫn Deborah tới một phòng họp ở đằng sau tòa nhà. Tại đó có một chiếc bàn dài bằng gỗ sồi với mười chiếc ghế tựa lưng cao màu đen kê giữa phòng, trong góc có một bàn làm việc với một bộ máy tính và vài thiết bị nghe nhìn. Trong lúc Deb và anh bạn trẻ mặt đầy mụn của cô ngồi xuống, bắt đầu cau mày nhìn nhau, tôi thơ thẩn bước tới chỗ cái bàn làm việc. Một giá sách nhỏ được kê dưới cửa sổ bên cạnh bàn. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa sổ. Gần như ngay phía dưới mình, tôi có thể thấy đám phóng viên mỗi lúc một đông đang bu lại cũng như những chiếc xe tuần cảnh lúc này đang đậu quanh khung cửa nơi chúng tôi đã đi vào cùng Steban.

Tôi nhìn sang giá sách, thầm nghĩ có thể dọn một khoảng trống nhỏ và tựa lưng vào đó, thoải mái lánh xa cuộc tra hỏi. Trên nóc giá sách có một chồng cặp tài liệu, đặt trên cùng là một vật thể nho màu xám. Nó vuông vắn, trông có vẻ như làm bằng nhựa. Một sợi dây đen chạy từ vật thể này tới sau bộ máy tính. Tôi nhấc nó lên để di chuyển.

“Này!” anh chàng ngốc cau có nói. “Đừng có động đến cái webcam!”

Tôi nhìn Deb. Cô nhìn lại tôi, tôi dám thề hai lỗ mùi cô xì hơi ra như một con ngựa đua tại cổng xuất phát vậy. “Cái gì?” cô em tôi khẽ nói.

“Tôi đã chỉnh nó hướng xuống lối vào,” anh ta nói. “Bây giờ tôi sẽ phải chỉnh lại. Trời ạ, sao các người cứ phải động chạm vào đồ của tôi vậy chứ?”

“Anh ta nói là webcam,” tôi nói với Deborah.

“Một máy quay,” cô nói với tôi.

“Phải.”

Cô em tôi quay sang chàng Hoàng tử hào hoa trẻ tuổi. “Nó vẫn bật chứ?”

Anh ta há hốc mồm nhìn cô, vẫn tiếp tục tập trung duy trì vầng trán cau có hết sức chính đáng của mình. “Cái gì?”

“Cái máy quay,” Deborah nói. “Nó hoạt động chứ?”

Anh ta khịt mũi, sau đó đưa một ngón tay lên quệt mũi. “Cô nghĩ gì thế, tôi có thể làm được việc gì không nếu nó không hoạt động? Hai trăm đô đấy. Nó hoạt động ngon lành.”

Tôi nhìn qua cửa sổ nơi chiếc máy quay đã được chĩa ra trong lúc anh bạn trẻ nọ tiếp tục màn cằn nhằn cau có của anh ta. “Tôi có một trang web và đủ thứ, Kathouse.com. Người ta có thể quan sát đội hockey khi họ tới đây và ra về.”

Deborah bước tới đứng cạnh tôi, nhìn qua cửa sổ. “Nó hướng về phía cửa ra vào,” tôi nói.

“Đương nhiên,” anh bạn của chúng tôi hồ hởi nói. “Nếu không làm thế nào những người vào trang web của tôi thấy đội hockey được?”

Deborah quay lại nhìn anh ta. Sau chừng năm giây, anh chàng đỏ mặt và cúi gằm mắt xuống bàn. “Tối qua máy quay có bật không?” cô em tôi hỏi.

Anh ta không nhìn lên, chỉ lúng búng. “Tất nhiên. Ý tôi là tôi đoán vậy.”

Deborah quay sang tôi. Hiểu biết về máy tính của cô ở mức vừa đủ để hoàn tất được các báo cáo giao thông tiêu chuẩn. Cô biết tôi khá hơn ít nhiều về chuyện này.

“Anh đã thiết lập nó như thế nào?” tôi hỏi cái đỉnh đầu của anh chàng trẻ tuổi. “Các hình ảnh có được tự động lưu trữ lại không?”

Lần này anh ta nhìn lên. Tôi đã dùng “lưu trữ” như một động từ, vậy chắc chắn là ổn. “Phải,” anh ta nói. “Hình ảnh được cập nhật sau mỗi mười lăm giây và ghi thẳng vào ổ cứng. Tôi thường xóa vào buổi sáng.”

Deborah quả thực đang nắm lấy tay tôi mạnh đến mức đủ làm bục lớp da. “Sáng nay anh đã xóa chưa?” cô hỏi anh ta.

Anh ta lại đảo mắt nhìn đi nơi khác. “Chưa,” anh ta nói. “Các vị xông vào, lùng sục, hò hét. Tôi thậm chí còn chưa kịp kiểm tra email.”

Deborah nhìn tôi. “Hoan hô,” tôi nói.

“Lại đây,” cô em tôi nói với anh chàng nhân viên bất hạnh.

“Hả?”

“Lại đây,” cô lặp lại, anh ta chậm chạp đứng dậy, miệng há hốc, xoa xoa các khớp ngón tay.

“Cái gì,” anh ta nói.

“Anh có thể làm ơn qua đây được không, thưa quý ông?” Deborah ra lệnh với đúng kiểu cách của một tay cớm kì cựu, anh chàng kia lập tức cựa quậy và lại gần. “Chúng tôi có thể xem qua những bức ảnh của tối qua được chứ?”

Anh ta há hốc miệng nhìn về phía máy tính, sau đó về phía Deb. “Tại sao?” anh ta hỏi. A, trí thông minh của con người quả là đầy ắp những bí ẩn.

“Bởi vì,” Deborah nói, thật chậm rãi và thận trọng. “Tôi nghĩ có thể anh đã chụp được một bức hình của kẻ sát nhân.”

Anh chàng kia tròn mắt nhìn cô chằm chằm, xương quai hàm buông thõng xuống. “Hay quá nhỉ,” anh ta thở hắt ra. “Không bỡn chứ? Ý tôi… Không, thật chứ? Ý tôi…” Mặt anh ta lại càng đỏ dữ hơn.

“Chúng tôi có thể nhìn qua các bức hình không?” Deb nói. Anh ta đứng im giây lát, sau đó lao tới ngồi xuống cái ghế kê sau bàn làm việc và bấm chuột. Lập tức màn hình bừng sáng, anh ta bắt đầu gõ bàn phím và bấm chuột lia lịa. “Tôi cần bắt đầu từ lúc nào?”

“Mọi người ra về khi nào?” Deborah hỏi anh ta.

Anh ta nhún vai. “Tối qua chúng tôi không có việc gì. Mọi người về hết lúc mấy giờ nhỉ… tám giờ thì phải.”

“Bắt đầu từ lúc nửa đêm,” tôi nói, anh ta gật đầu.

“Bắt đầu nào,” anh ta nói. Anh chàng im lặng miệt mài một lát, sau đó, “Chạy đi nào,” anh ta lẩm bẩm. “Đường truyền chỉ có tốc độ 600 megahertz,” anh ta nói. “Họ không chịu nâng cấp. Họ cứ luôn nói nó ổn cả, nhưng nó chậm khủng khiếp và sẽ không… Được rồi,” anh ta nói, rồi đột ngột ngừng lại.

Một hình ảnh tối đen xuất hiện trên màn hình: bãi để xe vắng tanh phía dưới chúng tôi. “Nửa đêm,” anh ta nói, nhìn chằm chằm lên màn hình. Sau mười lăm giây, bức hình được thay thế bằng một khuôn hình giống hệt.

“Liệu chúng ta có phải xem liền năm giờ thứ này không?” Deborah hỏi.

“Tua qua đi,” tôi nói. “Tìm ánh đèn pha hay thứ gì đó chuyển động.”

“Đ… được thôi,” anh ta nói. Rồi thực hiện vài thao tác bấm, nháy chuột nhanh đến chóng mặt, các bức ảnh bắt đầu lướt qua một bức mỗi giây. Thoạt đầu chúng không thay đổi mấy: vẫn là bãi để xe tối om, một quầng sáng ở rìa khung hình. Sau khoảng chừng năm mươi khung hình trôi qua, một hình ảnh nhảy vào tầm nhìn. “Một chiếc xe tải!” Deborah nói.

Anh chàng nghiện máy tính của chúng tôi lắc đầu, “An ninh,” anh ta nói, trong khuôn hình tiếp theo chiếc xe an ninh đã biến mất.

Anh ta tiếp tục kéo chuột, các bức ảnh lướt đi, dài vô tận, không chút thay đổi. Cứ sau ba mươi hay bốn mươi khuôn hình, chúng tôi lại thấy chiếc xe an ninh lướt qua, rồi chẳng có gì hết. Sau vài phút như thế, quy luật này dừng lại, tiếp theo là một khoảng dài không có gì. “Khỉ thật,” anh bạn mới có khuôn mặt bóng nhẫy của chúng tôi nói.

Deborah dành cho anh ta một cái nhìn gay gắt. “Máy quay hỏng à?”

Anh ta đưa mắt nhìn cô em tôi, đỏ mặt và quay đi. “Đám nhân viên an ninh,” anh ta giải thích. “Đúng là lũ mắc dịch. Tối nào cũng thế, cứ vào lúc nào nhỉ, ba giờ thì phải? Bọn họ lại đậu xe ở bên phía đối diện và đi ngủ.” Anh ta gật gù trong lúc chuỗi dài những bức ảnh giống hệt nhau trôi qua. “Thấy không? Xin chào! Ngài bảo vệ mắc dịch? Vẫn mẫn cán với công việc ư?” anh ta phát ra một âm thanh ướt nhẹp trong mũi mà tôi giả thiết đồng nghĩa với một tiếng cười. “Không dám đâu!” anh ta lại tiếp tục khịt khịt và bấm cho những bức ảnh trượt đi.

Thế rồi đột nhiên… “Đợi đã!” tôi hô lớn.

Trên màn hình, một chiếc xe tải nhỏ xuất hiện trong khung hình, bên cạnh cánh cửa phía dưới chúng tôi. Thêm một khung hình nữa, hình ảnh thay đổi, có một người đứng bên cạnh chiếc xe. “Anh có thể cho hình ảnh gần lại không?” Deborah hỏi.

“Phóng to lên đi,” tôi nói trước khi anh ta kịp phản ứng nhiều hơn một cái nhíu mày khẽ. Anh ta di chuyển con trỏ, chọn lấy bóng đen trên màn hình và bấm chuột. Hình ảnh trở nên gần hơn.

“Các vị sẽ không có được độ phân giải khá hơn đâu,” anh ta nói. “Số lượng điểm ảnh…”

“Im đi,” Deborah nói. Cô em tôi đang nhìn chằm chằm vào màn hình dữ dằn đến mức đủ để khiến nó chảy ra, khi tôi cùng nhìn chăm chú vào màn hình, tôi có thể hiểu ngay tại sao.

Khung hình tối đen, người nọ vẫn còn ở quá xa để có thể nhìn rõ tới mức chắc chắn, nhưng từ vài chi tiết tôi có thể nhìn rõ, có điều gì đó quen thuộc đến kỳ lạ ở anh ta; trong cách anh ta đứng đông cứng trong khung hình trên máy tính, cơ thể được phân phối cân đối trên hai chân, ấn tượng chung về dáng người. Bằng cách nào đó, cho dù thật mơ hồ, tất cả gộp lại thành một đáp án. Trong lúc một tiếng tặc lưỡi, kèm huýt sáo thật lớn dâng cuộn lên như một đợt sóng từ sâu dưới đáy bộ óc tôi, đáp án ấy ập xuống tôi với tác động như của một bản hòa nhạc piano lớn, quả thực kẻ trên khung hình trông thật giống với…

“Dexter?” Deborah nói, như một tiếng rít và một tiếng rên kinh hoàng.

Phải, đúng thế.

Giống với Dexter.

Bình luận
× sticky