Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Lỡ Yêu Gracie (Falling For Gracie)

Chương 3

Tác giả: Susan Mallery

Gracie bước vào quán nướng Bill Mexican đúng giữa trưa, chỉ để thấy bạn cô Jill đã ngồi sẵn ở đó và đang ngoắc cô.

“Mày lúc nào cũng sớm hết,” Gracie nói khi cô bước lại gần bạn.

Jill đứng dậy ôm lấy cô. “Tao biết.Thành tật rồi mày ơi. Tao nghĩ tao cần chương trình cải tạo 12 bước đó mày.”

Gracie bước lùi lại và ngắm bạn thật kỹ. “Đẹp đó. Đồ hiệu phải không?”

Jill uốn éo quay người một vòng khoe chiếc áo sơ-mi kiểu và chiếc quần tây sọc duyên dáng trước khi ngồi xuống.

“Hiệu Armani đó. Tao vẫn đang lo xử lý mớ quần áo luật-sư-thành-phố-lớn của tao. Tina, trợ lý của tao, cằn nhằn suốt là tao diện đồ quá thời trang đối với dân Los Lobos, nhưng nếu tao không mặc chúng đi làm thì còn mặc đi đâu được?”

Gracie ngồi xuống cạnh Jill và khẽ vuốt nhẹ cánh tay áo bằng lụa của cô. “Tao đoán không phải là để mặc đi dọn nhà tắm.”

“Chính xác.” Jill chồm người tới và mỉm cười. “Tao rất vui được gặp lại mày. Lâu lắm rồi đó. Bao lâu nhỉ? Năm tháng hả?”

“Chắc cỡ đó. Lần cuối tụi mình gặp là ở đám cưới của mày ở Carmel, nơi mà tao phải nói là mày để ý đến chàng rể nhiều hơn để ý tao, bất chấp sự thật là tao đã làm cho mày một cái bánh cưới tuyệt vời. Vậy là sao? Tao là đứa bạn lâu đời nhất và thân nhất của mày. Còn hắn ta chỉ là một tên đàn ông.”

Jil cười ầm. “Mày nói đúng. Hắn ta chỉ là một tên đàn ông. Hấp dẫn, tuyệt vời, nam tính-“

Cô ngừng lại khi người bồi bàn đến gần để hỏi họ muốn uống gì. Gracie chọn nước soda không đường còn Jill chọn trà lạnh.

Bạn cô đã thay đổi, Gracie nghĩ. Trong mấy năm vừa rồi, Jill đã quay cuồng với các vụ kiện ở một công ty Luật ở San Francisco, cô mặc những bộ com-lê cứng ngắc, làm việc vào những giờ không thể tưởng tượng nổi, ép mái tóc loăn xoăn đáng yêu của cô vào một búi ở gáy gọn ghẽ đến đau cả đầu. Bây giờ Jill trông… Gracie mỉm cười…nữ tính, duyên dáng, yểu điệu. Những lọn tóc xoăn xõa dài xuống lưng. Đôi mắt đã hết thâm quầng và Jill có vẻ rạng ngời.

“Mày thích cuộc sống hôn nhân,” Gracie nói.

“Thích lắm. Mac rất tuyệt. Tao đã hơi lo lắng về việc trở thành mẹ kế, nhưng Emily rất đáng yêu và rất nhẫn nại mỗi khi tao làm lỗi chuyện gì. Điều duy nhất tao tiếc là tụi tao phải chia sẻ con bé với mẹ ruột của nó. Tao không ngại có nó bên cạnh tao suốt ngày mày ạ.”

“Chà. Vậy là được rồi.”

“Tao cũng thấy thế. Tao yêu cả hai cha con họ.”

Gracie cầm lấy bàn tay trái của Jill và ngắm chiếc nhẫn có những viên kim cương nhỏ bọc lấy một viên thật ấn tượng.

“Tao thích người đàn ông nào không bị kích cỡ của một viên đá làm sợ hãi,” Gracie toét miệng cười.

“Mac biết rõ nên làm gì mà,” Jill thừa nhận. “Trong mọi phương diện.”

Gracie đưa hai tay lên. “Nếu mày đang nói đến chuyện ân ái, tao không nghe đâu. Tao có thể sung sướng ngập hồn với mày, một Jill cô-dâu-mới, với người chồng tuyệt vời và đứa con kế hoàn hảo, nhưng mức giới hạn của tao nằm ngay ở chuyện đó.”

Jill vỗ vỗ tay bạn. “Vì mày không hề có chuyện đó?”

“Chính xác. David và tao chia tay cách đây 3 tháng, và tao chẳng thấy hứng thú để lại bắt đầu cơn ác mộng hẹn hò.”

Người bồi bàn quay lại với đồ uống của họ, và một ít món ăn chơi, rồi hỏi họ có sẵn sàng kêu đồ ăn chưa.

“Món gì ngon mày?” Gracie hỏi.

“Món taco salad ở đây ngon lắm,” Jill nói.

“Được đó.” Trong bóp cô đã có sẵn mấy viên kháng axit, phòng trường hợp bụng cô lại khó chịu.

“Hai phần taco salad,” Jill nói với người phục vụ. “Cám ơn.” Cô quay lại nhìn Gracie. “Tao tưởng mày thích David lắm. Có chuyện gì à?”

“Tao không biết nữa. Chẳng có chuyện gì hết. Tùm lum chuyện hết. David được lắm, nhưng…” Gracie thở dài. “Tao muốn “lửa”. Vậy có kỳ cục không? Không cần phải là một ngọn lửa lớn, vài tia xẹt điện cũng được rồi. Tao muốn dùng mấy từ như là tuyệt vời, tim ngừng đập, chứ không phải mấy từ tạm được, khá hài lòng. David rất lành. Tụi tao hợp lắm, chẳng bao giờ cãi nhau, chẳng bao giờ… có gì. Sao tao có thể nghĩ đến chuyện nghiêm túc với một người đàn ông mà tao ít khi để ý anh ta có ở đó hay không?”

“Không tính chuyện mày mê mẩn người-mà-chúng-ta-không-muốn-nhắc-tên trước đây, thì mày đâu phải người quá đòi hỏi.”

“Có lẽ đó là vấn đề. Có lẽ tao đã quá quan tâm đến chuyện không trở thành một kẻ bám đuôi nữa rồi thành ra tao không cho phép bản thân mình quan tâm đến người khác.” Cô cầm ly nước lên. “Tao có thể thành người hay đòi hỏi nếu tao muốn.”

Jill mỉm cười. “Chắc chắn rồi.”

Ý tưởng có vẻ hấp dẫn, nhưng Gracie biết cô thích sự trật tự trong thế giới của cô hơn. Các món quà bất ngờ cũng khá hay, nhưng trong suốt phần đời còn lại của cô, cô muốn mọi chuyện đều có thể được dự liệu trước, dù nó có nghĩa là các chàng trai trong tương lai sẽ rất đáng chán.

Ngoài ra… “Tao nghĩ Vivian là người đã lấy hết gien đòi hỏi của cả gia đình rồi. Hôm qua nó với Tom cãi nhau một trận dữ dội về chuyện tiệc độc thân và nó đang dọa hủy bỏ đám cưới.”

Jill trợn mắt. “Mày nghĩ nó dám không?”

“Tao chẳng biết đâu. Mà nếu nó hủy đám cưới, chắc tao điên lên mất vì đã dọn lên đây và thuê nhà cho 6 tuần. Đơn đặt hàng đang ngập đầu tao nè.”

“Tao tưởng mày ở với mẹ mày,” Jill nói. “Không xài bếp của bà được sao?”

“Không phải mỗi cái bếp không, còn tủ lạnh, tủ đông, rồi chưa kể cả cái bàn ăn để dành cho tao tranh trí bánh, và các kệ tủ để chứa đồ dùng của tao. Thêm vào chuyện tao thích thức khuya để làm việc, phần bánh thì dễ rồi, phần trang trí từng chi tiết mới là mất nhiều thời gian.”

Còn chuyện cô chưa đề cập là việc cô thấy không thoải mái thế nào trong căn nhà của mẹ cô. Cô đã không sống ở đó lâu rồi, nên nó không còn là mái ấm của cô nữa. Cô đã cố gắng hòa nhập nhưng mãi đến nay, cô vẫn chưa thành công mấy.

“Có thấy kỳ lạ khi quay lại đây không?” Jill hỏi.

“Có và không. Tao cảm thấy khác, nhưng không ai nghĩ tao như thế. Tao vẫn là Gracie Landon, mê mẩn Riley Whitefield.”

Jill cầm ly trà lạnh lên. “Tao biết anh ta đang ở đây.”

Gracie nheo mắt lại. “Đừng tới lượt mày nữa nha. Tao đã nghe chuyện đó mòn tai từ hàng xóm của mẹ tao, bà chủ nhà, người bán hàng ở siêu thị, và cả mấy chị phụ nữ ngoài đường mà tao không nhớ là ai cả. Cảm giác hơn cả ghê sợ nữa – như là nửa hư nửa thực vậy.”

“Tại mấy bài báo đó,” Jill nói. “Ngay cả những người chưa gặp mày cũng cảm thấy họ có phần trong mối quan hệ lãng mạn này.”

“Khỏi phải nói.”

“Mày đã gặp anh ta chưa?”

Gracie ngập ngừng. Cô không biết phải nói sao để không lộ chuyện riêng tư của Alexis ra.

“Mày gặp rồi!” Jill chồm tới. “Tao muốn biết hết. Bắt đầu từ đầu và kể thật chậm rãi.”

Gracie thở dài và nhặt một miếng khoai tây chiên lên. Cô xoay nó trước khi cắn một miếng. “Mày không được kể ra đó,” cô nói khi đã nhai và nuốt xong miếng khoai tây. “Tao đang tìm hiểu một chuyện cho Alexis, không, tao không thể nói là chuyện gì.”

“Rồi mày chạm mặt anh ta ở cửa hàng hay gì gì đó.”

“Không hẳn. Đại khái là tao đang rình rập quanh nhà của anh ta.”

Đôi mắt nâu của Jill mở lớn. “Mày đang đùa hả. Mày lại theo dõi anh ta nữa?”

“Không, tao theo dõi người khác, nhưng anh ta bắt gặp tao và lúc đó thật kinh khủng và ngượng ngùng. Tao nghĩ anh ta sẽ xin lệnh cấm tao đến gần anh ta mất.”

Jill nhặt một miếng khoai tây lên. “Mày nghĩ sao? Anh ta vẫn đẹp trai đấy chứ?”

“Ừ, phải. Đăm chiêu, bí ẩn, nguy hiểm.”

“Quyến rũ”, Jill thêm vào. “Tao thích cái bông tai. Tao cố dụ Mac đeo một chiếc mà chàng cứ chơi tình vờ với tao thôi.”

“Tao phải thừa nhận là cái bông tai nhìn hấp dẫn.”

“Và đôi mông. Anh chàng có đôi mông hết xẩy.”

“Tao chưa có dịp kiểm tra, nhưng tao sẽ cho nó vào danh sách việc-phải-làm của tao.”

Jill ném miếng khoai tây vào Gracie. “Thôi đi mày. Đừng có lên mặt với tao. Mình đang nói về Riley đó. Tao không tin là mày có thể đứng chung một chỗ với anh chàng mà không cảm thấy gì.”

“Tao cảm thấy xấu hổ và mong muốn cháy bỏng là tao đang ở một nơi nào khác.”

“Ý tao không phải thế. Thôi nào Gracie. Giữa hai người phải có một sự thu hút nào đó chứ.”

Không đời nào cô thừa nhận điều đó, Gracie nghĩ. Quá nguy hiểm, đầy khả năng làm cô trở thành kẻ ngu ngốc. Hơn nữa, nó chỉ là đơn phương. “Anh ta hoàn toàn thuộc về quá khứ và sẽ ở lại trong quá khứ. Mày nghĩ tao tự hào về những gì tao đã gây ra cho anh ta à? Tao ghét ai nhớ và nhắc đến chuyện đó. Điều cuối cùng tao muốn làm là đổ thêm dầu vào lửa. Mà mày nghĩ coi, anh ta làm gì ở đây vậy? Lại tranh cử chức thị trưởng nữa? Vậy là sao?”

Jill ngồi thẳng người lên. “Tao chỉ có thể nói những gì mà công chúng đã được biết.”

Gracie nhìn bạn chằm chằm. Cô cẩn thận mím môi lại để miệng cô khỏi há hốc, nhưng cô chắc là mắt cô đã mở hết cỡ.

“Mày là luật sư của anh ta?”

“Tao đang lo vài chuyện cho anh ta.”

Gracie không biết nói gì. “Anh ta sẽ ở lại đây trong bao lâu?”

“Còn tùy.”

“Mày chẳng giúp ích được gì cả.” Gracie nhấp một ngụm nước. “Mày có biết tại sao anh ta tranh chức thị trưởng không?”

“Có.”

“Mày kể cho tao biết chứ?”

“Không.”

“Chẳng vui tí nào, mày đó.”

Jill nhặt một miếng khoai tây. “Tao biết. Tao không thể.” Vẻ mặt cô trở nên tinh nghịch. “Lần tới nếu mày gặp anh ta lúc đang theo dõi nhà anh ta, mày có thể trực tiếp hỏi.”

“Cho tiền cũng không làm. Tao không muốn có chuyện dính líu tới Riley nữa đâu. Xấu hổ lắm.”

“Được thôi. Nếu mày tin anh ta không phải là “đúng đối tượng”.

Gracie nhìn bạn và phì cười. “Nếu anh ta đúng là đối tượng, tao sẽ đổi theo Đạo Công giáo và tuyên thệ.”

FRANKLIN Yardley thích đồng hồ. Ông đã có một bộ sưu tập ấn tượng được cất trong một ngăn kéo làm đặc biệt theo ý ông trong tủ đựng quần áo. Mỗi sáng, sau khi đã chọn com-lê và cà-vạt, ông sẽ cẩn thận chọn chiếc đồng hồ đeo cho ngày đó. Ông thích nhất hiệu Omega, nhưng ông có tới 3 chiếc Rolex bởi vì người ở vị trí của ông thì mặc nhiên phải đeo hiệu này.

“Do nhận thức của con người thôi,” ông tự nhắc mình khi liếc nhìn chiếc đồng hồ hiệu Omega đang lấp ló nơi cổ tay áo chiếc sơ-mi cô-tông hoa hòe của ông.

Tuy nhiên, hôm nay ông không nghĩ đến chuyện mua đồng hồ cho ông. Ông lật sang trang cuốn tạp chí nữ trang và dừng lại ở phần quảng cáo đồng hồ nữ. Không, hôm nay ông đang tìm mua đồ cho một người rất đặc biệt.

Một chiếc Movado thanh lịch, trang nhã thu hút sự chú ý của ông.

“Hoàn hảo.”

Nó đủ sang trọng để gây ấn tượng với người phụ nữ đó, mà lại không quá hào nhoáng để gây sự chú ý.

Ông ghi chú lại tên cửa tiệm và kiểm tra lịch. Ông cần khoảng một ngày hay cỡ đó để có được số tiền 1200 đô trả cho cái đồng hồ. Đương nhiên là ông không thể trả bằng thẻ tín dụng. Sandra, vợ ông, dù chưa đi làm ngày nào trong suốt cuộc đời bà, nhưng bà nắm giữ từng đồng một. Không hiểu sao ông đã cho rằng con gái của một triệu phú tự phất sẽ không quan tâm đến chuyện ngân sách chi tiêu, Sandra rất quan tâm. Bà tin rằng bà là người đem đến sự giàu có cho cuộc sống vợ chồng của hai người nên bà là người duy nhất được quyền quyết định chuyện chi tiêu thế nào.

Tuy vậy, sau 28 năm chung sống, ông đã làm quen với cách quản lý tiền chặt chẽ của bà, và đã tìm được cách luồn lách.

Bà hay khen mấy món đồ đắt tiền của ông, những món không phải do bà mua cho ông, nhưng ông không bao giờ giải thích hết, ngay cả khi bà nói thẳng vào mặt ông là bà không tin nổi ông. Ông thực tâm chẳng để ý bà đang nghĩ gì – bà sẽ chẳng bao giờ bỏ ông, và bà luôn thích hợp với các buổi tiệc tùng. Vậy là quá đủ rồi.

Frank cho cuốn tạp chí vào cái cặp táp bằng da hiệu Tumi của ông, rồi mở khóa cái ngăn kéo dưới cùng. Dưới cái mộc của thị trấn và các tài liệu quan trọng là cuốn cheque của một tài khoản đặc biệt dành riêng cho các quỹ bí mật của ngài thị trưởng. Frank thích nghĩ nó là tiền tiêu xài của riêng ông. Ông nhét cuốn cheque vào cuốn tạp chí rồi nhấn nút gọi người trợ lý của ông.

Cánh cửa văn phòng riêng của ông bật mở và Holly bước vô. Cao, tóc vàng, lớn lên ở San Diego và chỉ mới 24 tuổi, cô có vẻ đẹp hoàn hảo, nhưng đằng sau đôi mắt xanh và đôi gò má cao đó là một bộ óc nhanh nhạy cực kỳ.

“Tôi đã có những con số ông cần,” cô nói và đặt xấp tài liệu lên bàn.

Số đo của cô mới là những con số ông quan tâm nhất. Ông tưởng tượng cô sẽ vui mừng thế nào khi cuối tuần này ông sẽ tặng cô cái đồng hồ.

“Kết quả không được tốt,” cô nói thêm. “Riley Whitefield đang thắng thế trong các cuộc thăm dò. Mọi người đã bắt đầu chú ý các thông điệp của anh ta.” Cô hơi cau mày khiến đôi lông mày hoàn hảo của cô nhíu lại. “Họ nói chúng ta nên thảo luận về các vấn đề nhiều hơn. Tôi nghĩ ông nên có thêm vài bài phát biểu.”

Ông yêu thích tất cả mọi thứ về cô. Cách mà cô nói chuyện, cách cô lo lắng, cách cô nói “chúng tôi” như họ là một đội.

“Theo cô, vấn đề nào là phù hợp nhất?” ông hỏi.

Đôi mắt cô mở lớn vẻ sung sướng. “Ông thực sự muốn biết ý kiến của tôi?”

“Tất nhiên. Cô là nhịp cầu giữa tôi và các cư dân lương thiện của thị trấn Los Lobos. Họ sẽ nói cho cô biết những chuyện mà chẳng bao giờ họ nói với tôi cả.”

“Tôi đã không nghĩ tới điều đó. Có lẽ chức thị trưởng khiến ông bị ngăn cách với mọi người.”

“Sao cô không đóng cửa lại để chúng ta động não tìm vài chủ đề,” ông đề nghị.

Cô làm như ông yêu cầu rồi ngồi xuống ghế đối diện với ông. “Thuế luôn là một vấn đề gây tranh cãi nhưng chưa có ai khởi xướng nó khi kêu gọi bỏ phiếu hết.”

“Thế Riley Whitefield đang bàn về các vấn đề gì?” ông hỏi.

“Quy hoạch, thêm quỹ cho trường, cách tăng lượng khách du lịch đến trấn vào mùa đông.”

“Tôi không nghĩ tôi muốn có thêm khách du lịch,” ông nói.

Holly gật đầu. “Họ thật là phiền phức, nhưng họ đóng góp khá nhiều cho nền kinh tế của trấn.”

“Nghe như chúng ta sẽ phải bận rộn rồi đây.” Frank ngừng lại như có vẻ cân nhắc điều gì, dù ông đã tính sẵn từ trước. “Tôi không cho rằng…” ông bắt đầu.

Holly chồm người tới, vẻ mặt náo nức, bộ ngực săn chắc, trẻ trung của cô khẽ nhấp nhô dưới làn áo.

“Tôi đang nghĩ cô có thể viết mấy bài phát biểu cho tôi.”

Cô đứng bật dậy, nhìn ông không chớp. “Ông nói thật chứ? Ông để tôi làm việc đó?”

“Tôi nghĩ cô làm rất được việc. Cô thông minh, tài năng, và có chí cầu tiến. Cô có muốn làm không?”

Cô bật cười. “Đương nhiên rồi. Tôi có thể đưa ông 2 bài phát biểu nháp vào cuối tuần. Vậy đã đủ sớm chưa?”

“Đủ rồi.” Ông cảm thấy thậm chí bài nháp của cô cũng sẽ vẫn hoàn hảo từng câu từng chữ. Ông đứng lên. “Cám ơn Holly. Điều này rất có ý nghĩa với tôi.”

“Tôi rất phấn khởi có được cơ hội này.”

“Tôi mới là người đang phấn khởi. Tôi đang tận dụng cô. Cô thuộc dạng phụ nữ khiến đàn ông muốn liều lĩnh.”

Cô nở nụ cười hiểu biết khi tiến đến gần ông. Khi chỉ còn cách vài cen-ti-met, cô đưa tay lên lưng váy.

“Ông thuộc dạng đàn ông khiến phụ nữ muốn làm mọi thứ.”

Chiếc váy rớt xuống sàn. Không thể rời mắt khỏi cô, ông lẩm bẩm một lời tạ ơn.

Cô không mặc quần lót.

***

Gracie lật cái khuôn bánh trên khay làm mát và điệu nghệ gõ vào đáy khuôn với đủ sức mạnh để thể hiện cô là người đang làm chủ tình hình. Đó là một thử thách, khi nghĩ đến cái lò nướng thất thường, lúc được lúc không mà cô đang phải sử dụng. Thuê nhà là thế. Cô đếm đến 5, rồi lại gõ lần nữa, và nhấc cái khuôn lên trong một cử chỉ dứt khoát, không có cơ hội để sửa sai lầm.

Cái khuôn trượt ra suôn sẻ, để lại trên khay một cái bánh nâu vàng ngon mắt.

“Mình thích mọi thứ ăn khớp với nhau thế,” cô nói và mỉm cười ngắm nghía những lớp bánh đang để nguội sắp được tạo thành một cái bánh cưới đơn giản và thanh lịch.

Bài viết về cô trên tạp chí People, chưa tính đến những lời khen ngợi hết lời trên tạp chí cưới In Style đã biến một công việc kinh doanh nhỏ bé của cô thành một hiện tượng. Vì một lý do mà ngay chính cô cũng không biết, các ngôi sao bây giờ coi bánh cưới của cô là “món phải có” trong lễ cưới, và đôi khi trong lễ hỏi của họ. Đại khái giống kiểu mặc thiết kế của Vera Wang.

“Mình không có gì phàn nàn cả,” cô vui vẻ nói khi bước đến cái tủ lạnh nơi cô cẩn thận trữ những bông hoa lily cách điệu cô đã làm sẵn để trang trí bánh. Tổng cộng là 350 bông. Thực tế cô chỉ cần 330 bông, phần còn lại để phòng hờ.

Kiểu bánh – một thiết kế thanh nhã với màu vàng kim và màu trắng – là bản sao của một mẫu bánh trong tranh thời Phục Hưng. Cô dâu tương lai – một diễn viên nổi tiếng trong các bộ phim truyền hình nhiều tập – rất yêu thích những thứ cổ điển. Gracie thích tính thử thách khi làm một cái gì đó khác hẳn các mẫu hoa, chim câu hay trái tim thông dụng.

Cô bước đến bàn bếp, chuẩn bị làm sẵn thêm một số phụ kiện trang trí trước khi hoàn thiện cái bánh, thì điện thoại của cô reo. Trong một thoáng, tim cô hơi run lên, như linh tính một điều gì thật kỳ diệu. Nhưng vấn đề là, chẳng có ai thú vị như vậy lại buồn gọi đến cô hết.

Ồ. Có. Riley.

Liếc nhanh số điện thoại biểu lộ trên màn hình, và cô biết ngay người gọi đến là mẹ cô, hoặc ít nhất là người nào đó ở cửa hàng của mẹ cô.

Nhịp tim đang đập rộn của cô chậm dần, cô nhấn nút nói chuyện.

“Gracie nghe,” cô nói.

“Chào, mẹ đây. Mẹ gọi để xác nhận về cuộc họp mặt bàn chuyện đám cưới thôi. Con sẽ dự mà, đúng không? Còn nhiều việc phải làm để lo cho ngày đặc biệt của Vivian lắm. Mẹ hi vong con sẽ có vài ý kiến hay, với những kinh nghiệm con có về đám cưới.”

Gracie vẫn còn cảm thấy dư chấn của buổi tối hôm trước khi cô bị Alexis trách mắng và cảm thấy như người thừa thãi hơn bao giờ hết.

“Đám cưới vẫn tiến hành à?” cô hỏi. “Vivian đã rất giận dữ mà.”

Mẹ cô thở dài. “Ôi, chuyện đó xảy ra hàng tuần. Vivian nó hời hợt và bốc đồng lắm, đó không phải là sự kết hợp hay ho gì. Nhưng hôn nhân sẽ giúp nó ổn định.”

Gracie thì lại nghĩ người ta nên ổn định trước khi kết hôn, nhưng đó chỉ là ý của cô.

“Được mà. Con sẽ dự. Con có cần đem theo gì không?”

“Tính kiên nhẫn. Con sẽ cần nó lắm.” Mẹ cô nói ngày giờ và địa điểm rồi cáo lỗi là phải quay lại bán hàng.

Gracie cúp máy và để cái điện thoại lên bàn bếp. Cô đã lo lắng về chuyện trở lại nhà với nhiều lý do mà chính cô cũng không lý giải được. Bây giờ ở đây rồi, thì cô có thể dễ dàng lập danh sách các lý do này, giải thích và phân loại chúng nữa.

Nào là Riley – không chỉ là chuyện cả thị trấn chưa quên, rõ ràng là chưa, mà còn là phản ứng của cô đối với anh. Người ta có thể nghĩ là cả nửa cuộc đời xa cách anh sẽ làm giảm đi sự hấp dẫn của anh, nhưng người ta đã sai. Kế đến là mối quan hệ giữa cô và gia đình cô. Cô còn nhớ những lần la hét, đánh nhau với chị em của cô, và cả những lúc hòa thuận nữa, nhưng bây giờ Alexis và Vivian là những người lạ với cô nhưng họ vẫn thân mật với nhau. Cô cảm thấy như người thừa và cô không thích thế. Cuối cùng là mẹ cô. Cô cảm thấy một sự ngượng ngập, căng thẳng dưới vẻ bề ngoài, nhưng cô không thể giải thích tại sao lại thế. Phải chăng vì cô đã bỏ đi quá lâu? Hay còn có một lý do nào khác cô không biết?

Cô quay lại với cái bánh đã được để nguội và khẽ chun mũi. Những lúc như vầy là lúc cô ước cô có một nghề khác, một nghề mà không cho cô quá rảnh trí mà suy nghĩ nhiều. Điều cô cần bây giờ là một cái gì đó khiến cô phân tâm… thật phân tâm.

***

Riley ngồi trong chiếc ghế da đã được đặt làm theo ý của chú anh. Hôm sinh nhật 35 tuổi, Donovan Whitefield đã đón nhận trách nhiệm cai quản ngân hàng của dòng họ và đã không ngơi nghỉ một ngày nào cho đến lúc ông nhắm mắt vào 42 năm sau. Ông đã rất nghiêm khắc, khó khăn, một người không bao giờ lấy ngày nghỉ, không tha thứ sai sót hay nhẫn nại với những điểm yếu của người khác.

Anh đã được kể nghe như thế. Chứ Riley chưa bao giờ được gặp chú của anh. Gần 5 năm trời họ sống chung trong cái thị trấn nhỏ bé này, họ chưa hề có một lần chạm mặt nhau.

Riley xoay người nhìn bức chân dung thật lớn treo trên bức tường đối diện cửa ra vào. Phòng làm việc này thật lịch sự, trang nhã, xứng đáng với vị thế của một chủ tịch ngân hàng, và bức chân dung phản ánh tất cả điều đó. Donovan Whitefield đã được bất tử hóa, đứng ngay sau cái bàn anh đang ngồi cạnh, mắt dõi nhìn xa xăm như thể thấy được tương lai.

Riley đã nghĩ tất cả chỉ là một đống rác rưởi. Nếu anh có thể, anh đã lôi bức tranh xuống mà đốt đi. Nhưng anh không thể, cho đến khi nào anh thắng được cuộc bầu cử khốn kiếp này, và mọi thứ là của anh. Từ giờ đến đó, anh sẽ chấp nhận cuộc chơi và điều đó có nghĩa là dùng chung văn phòng với một con ma già khó tính.

Có tiếng gõ cửa nhanh gọn trên cửa phòng anh, rồi cánh cửa gỗ nặng nề bật mở.

“Chào buổi sáng, ông Whitefield.” Trợ lý của anh cất tiếng.

Riley lắc đầu. “Tôi đã nói bao nhiêu lần là bà không cần phải gõ cửa. Bà sẽ không bao giờ bắt gặp thấy tôi đang làm chuyện gì bí mật hay đáng nghi đâu.”

Diane Evans – một phụ nữ khoảng sáu mươi mấy mà vẫn luôn làm việc không ngừng – không buồn chớp mắt.

“Biết rồi, thưa ông.” Bà nói với một giọng điệu mà cho anh biết là bà sẽ tiếp tục gõ cửa đến giây phút cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng của bà ở đây.

Ở vị thế hiện giờ, Riley không thể phàn nàn.

Diane làm việc rất hiệu quả, tính trầm lặng và bà biết tất cả mọi thứ về việc điều hành ngân hàng. Nếu không có những lời khuyên của bà thì anh đã phạm sai lầm ít nhất là hơn một lần. Anh có thể đánh hơi được dầu trong một cơn giông bão nơi biển Đông, nhưng thế giới tài chính hoàn toàn mới đối với anh.

Diane đã giúp anh suốt 7 tháng qua mà không một lần vò đầu, bứt tóc mái tóc ngắn hoa râm của bà.

“Khu nhi của bịnh viện lại gọi đến,” bà nói với giọng đều đều. Không một cái chớp mắt để lộ là bà đã từng đề cập chuyện này ít nhất 3 lần trước đây và lần nào anh cũng không những chỉ từ chối quyên tiền mà còn ra lệnh là bà không được đề câp lại chuyện này với anh nữa.

Anh ra hiệu cho bà bước vô và ngồi xuống ở một cái ghế khá xa bàn làm việc. Bà di chuyển thật êm trong đôi giày mềm mại, rồi ngồi xuống chiếc ghế bằng da và gỗ, lưng bà thẳng đứng, vai ưỡn ra, bộ đồ com-lê của bà trông như một bộ giáp xấu xí.

“Ông đã hứa sẽ suy nghĩ chuyện đó, thưa ông,” bà nói.

“Vui thật. Tôi thì lại nhớ là tôi đã nói với bà rằng mặt trời có mọc đằng Tây thì tôi cũng vẫn không quyên tiền xây dựng khu nhi để tưởng nhớ Donovan Whitefield”.

Một tờ giấy bỗng xuất hiện trên tay bà cùng với một cây bút. “Có lẽ nếu tôi giải thích lại với ông nhu cầu của cư dân,” bà nói.

“Có lẽ bà tha cho tôi vụ này đi,” anh nói.

Bà nhìn anh, vẻ mặt bình thản không đổi, lông mày không nhướng lên, môi không trễ ra, mà anh vẫn cảm thấy sâu sắc sự thất vọng của bà đối với anh.

“Nó giúp ích cho các cháu, thưa ông Whitefield.” Bà nói. “Các bé ở thị trấn không cần phải đi lên tận Los Angeles để được chữa trị.”

Anh thấy anh nợ bà. Mỗi khi anh yêu cầu, bà đều ở lại làm thêm, bà nhiều lần cứu nguy cho anh và không bao giờ nói đến chuyện của ông anh với anh.

“Tôi sẽ cân nhắc,” anh từ tốn nói. “Với điều kiện là bà sẽ thôi gõ cửa và gọi tôi là ông Whitefield.”

Diane đứng lên. “Được rồi…” bà ngập ngừng, rồi mím môi lại trước khi nói “… Riley, tôi sẽ cho ban Hội Đồng biết cậu có ý định quyên tiền. Trong khi chờ đợi, tôi đã có những báo cáo cậu cần ở đây và ông Bridges muốn gặp cậu.”

Bất chấp thực tế là anh sẽ phải mất 15 triệu đô tiền quyên, anh vẫn cảm thấy một chút thắng lợi. Ai mà ngờ anh có thể điều đình với trợ lý của anh và chiến thắng?

Ba phút sau, Zeke Bridges bước vào văn phòng. Cao lớn, ưa nhìn và vẻ đáng tin cậy từ anh khiến người ta muốn mua bảo hiểm với anh, Zeke đã là lựa chọn số một của Riley cho cuộc vận động tranh chức thị trưởng. Zeke không chỉ được ưa thích ở thị trấn này, anh còn có kinh nghiệm nữa.

“Số phiếu đang tăng,” Zeke nói và ngồi phịch xuống cái ghế Diave vừa đứng lên. “Nhiều lắm, chúng ta thắng Yardley mỗi ngày. Những mục quảng cáo trên báo thật là hiệu nghiệm. Lão già chắc đang sợ run, điều đó có nghĩa là chúng ta phải coi chừng các cú phản đòn, nhưng tôi sẽ tiếp tục các cuộc thăm dò để coi ông ta có bắt đầu tăng phiếu lại chút nào không.”

Riley mỉm cười. “Anh trưng cầu dân ý? Zeke, đây là Los Lobos và tôi tranh chức thị trưởng, không phải chức tổng thống.”

“Được, cứ việc chọc tôi đi, nhưng thực tế thì vận động tranh cử hoàn toàn là về việc có các thông tin đúng đắn, và tận dụng chúng.”

“Nếu anh nói thế. Anh giầu kinh nghiệm và đó là lý do tôi trả lương cho anh thật hậu hĩ.”

“Anh phải nhớ là, còn vài tuần nữa là đến ngày bỏ phiếu rồi. Sự kiện nào cũng đều có tính sống còn. Đúng là chúng ta đang dẫn đầu nhưng nó chẳng cần nhiều để phá hủy toàn bộ chiến dịch tranh cử. Yardley đã là một hình tượng phổ biến và mọi người thường không thích thay đổi.”

“Tôi hứa sẽ hợp tác,” Riley nói. Anh phải thắng cuộc tranh cử này, và vì 97 triệu lý do mà Zeke không hề biết đến.

Zeke giải thích cho anh kế hoạch của các tuần kế tiếp. Sẽ có vài buổi nói chuyện trước công chúng và vài bài quảng cáo trên truyền hình địa phương. Khi Riley đã đồng ý với kế hoạch, Zeke ngả người ra ghế.

“Còn một chuyện nữa.”

“Được, chuyện gì?”

“Những gì anh làm trong thời gian rảnh là chuyện của riêng anh, trừ khi nó ảnh hưởng đến chiến dịch tranh cử của tôi.”

Zeke nhíu mày. “Anh đang nói đến chuyện gì thế?”

“Cuộc sống riêng tư của anh. Anh cứ biến mất mà không cho vợ anh biết anh đi đâu, đó là chuyện của anh, nhưng cô ấy đến nhà tôi tìm anh vì anh bảo anh sẽ ở đây, và nó thành chuyện của tôi.”

Zeke nuốt nước bọt thật khó khăn. “Coi nào, Riley, tôi xin lỗi nhưng tôi-“

Riley lắc đầu ngắt lời Zeke. “Tôi không cần xin lỗi, tôi chỉ lo cho chiến dịch. Tôi chỉ hỏi anh một lần thôi. Anh có đang làm gì mà có thể gây ảnh hưởng xấu đến chiến dịch của tôi không? Trước khi anh trả lời, để tôi nhắc cho anh nhớ là Los Lobos là một thị trấn nhỏ, và mọi người cho rằng người tổ chức tranh cử cho tôi đang lừa dối vợ là một chuyện xấu xa.”

Zeke đứng bật dậy. “Tôi không lừa dối Alexis. Tôi không bao giờ làm thế. Tôi yêu cô ấy.” Anh quay đi. “Chuyện không phải thế. Nó cũng không phải là chuyện có liên quan đến anh hay đến chiến dịch.”

“Vậy nó là chuyện gì?”

Zeke quay lại. “Tôi không cần phải cho anh biết.”

“Nếu như đó là một yêu cầu để anh được tiếp tục làm việc cho tôi?”

Zeke nhìn thẳng anh. “Vậy thì anh cứ việc sa thải tôi vì tôi sẽ không nói cho anh biết tôi đang làm gì. Nó không liên quan đến anh và cũng không liên quan Alexis. Tôi chỉ nói được có thế. Được chưa?”

Riley không muốn đương đầu với chuyện này lúc này, khi mà kỳ bỏ phiếu chỉ còn vài tuần nữa. Anh có thể thay thế Zeke nhưng anh không muốn.

“Nếu anh không muốn nói với tôi, ít nhất hãy nói với vợ anh.” Riley nói. “Cô ấy đang lo lắng. Khiến vợ anh nghi ngờ anh đang lăng nhăng bên ngoài không phải là cách chứng tỏ anh yêu cô ấy.”

“Đồng ý. Tôi sẽ giải thích với cô ấy.”

“Bằng cách kể cho cô ấy nghe anh đang làm gì?”

Zeke lắc đầu. “Tôi không thể. Chưa tới lúc. Chuyện không có gì xấu cả. Anh phải tin tôi.”

Từ lâu Riley đã học được là anh không thể tin ai cả. Dù thích Zeke cỡ nào, anh cũng không thể thay đổi nguyên tắc đó.

“Bất cứ chuyện gì anh làm mà ảnh hưởng đến chiến dịch, tôi không những sa thải anh, tôi còn làm mọi cách để hủy hoại anh.” Riley nói. “Anh hiểu tôi chứ?”

“Hiểu.” Zeke hất mặt về bức chân dung trên tường. “Tôi biết anh chưa từng gặp chú anh, nhưng tôi gặp rồi. Và có lẽ anh không thích nghe điều này, nhưng anh rất giống ông ta.”

Không, Riley không muốn nghe. “Cám ơn đã cho tôi biết.” Anh lạnh nhạt nói. “Tôi sẽ nói chuyện với anh sau.”

Sau khi Zeke đã thu dọn giấy tờ rồi bỏ đi, Riley đứng nhìn chằm chằm vào cửa ra vào thật lâu. Anh muốn tin rằng vấn đề đã được giải quyết, nhưng tâm trạng căng thẳng của anh lại nghĩ khác. Zeke đang có kế hoạch gì đó, và Riley muốn biết đó là gì.

Anh cầm điện thoại lên và rút một miếng giấy từ túi áo ra.

“Chào, Gracie xin nghe,” một giọng nữ cất lên sau hai hồi chuông.

Riley mỉm cười. Ai mà nghĩ có ngày anh sẽ gọi Gracie một cách có chủ ý?

“Riley đây. Tôi vừa nói chuyện với Zeke.”

“Và?”

Anh tóm lược cuộc trò chuyện của họ.

“Alexis sẽ không bằng lòng như vậy đâu.” Gracie nói.

“Tôi cũng không. Tối nay tôi sẽ theo dõi anh ta, coi anh ta đi đâu.”

“Tôi đi với anh.”

Phản ứng đầu tiên của anh là nói “không”, nhưng anh nhớ ra anh đang phải đương đầu với ai. Gracie mà anh biết sẽ chỉ bám đuôi anh, và họ sẽ trở thành một đoàn diễu hành ai cũng để ý.

“Được, tôi đón cô lúc 6:30. Cô vẫn ở ngôi nhà cũ chứ?”

“Không, tôi thuê nhà rồi.” Cô đọc cho anh địa chỉ. “Hay quá.” Cô nói sau khi anh đã viết địa chỉ xong. “Trước giờ tôi chưa có dịp theo dõi như vầy.”

“Tốt. Đây là cơ hội để cô hoàn thiện quá khứ bám đuôi của cô.”

Bình luận
× sticky