Rachel nghe thấy tin đó trong nhà thờ vào buổi sáng hôm sau.
“Đó là sự trừng phạt của Chúa đối với cái gia đình kinh khủng ấy!”
“Ôi, không phải chứ!”
“Ồ, đúng thế đấy! Những kẻ nhà Harris đó đều tồi tệ, tất cả bọn chúng, và tôi cảm thấy rằng Đức Chúa thông thái định sẽ diệt trừ lần lượt từng người trong số chúng để giữ cho vùng này được an toàn. Ít ra thì tôi cũng hy vọng vậy. Hằng đêm tôi sẽ ngủ ngon hơn nếu cả họ nhà chúng không còn.”
“Nhưng như vậy thì khủng khiếp quá!”
“Tôi biết nói như thế là không phải, nhưng tôi chẳng thấy thương tiếc gì cho gã đó hết! Nếu gã không say đến mức ngã lăn ra đường thì chuyện đã không xảy ra. Tự gã rước họa vào thân, giống như những kẻ tội lỗi khác thôi.”
“Nhưng bị tàu cán qua, Idell…”
Máu Rachel đông cứng lại. Mặc kệ Đức Cha Harvey đang thuyết giảng chống lại tính tự mãn ở những người được ban cho sự giàu có, Rachel vẫn quay lại để nói chuyện với hai người đang thì thào trong nỗi ngạc nhiên.
“Bà Skaggs, bà đang nói về ai thế ạ?” Sự gấp gáp trong giọng Rachel làm cho cả hai quý bà phải ngẩng mái đầu bạc lên và há hốc miệng nhìn cô. Bên cạnh cô, mẹ cô chọc mạnh vào sườn, nhưng Rachel không để ý. Phía bên trên, giọng Cha Harvey vẫn tiếp tục vang lên. Xung quanh cô, những người đang thì thào khác cau mày nhìn cô tỏ vẻ không hài lòng.
“Là ai?” Rachel hỏi thì thào nhưng gay gắt.
Bà Skaggs chớp mắt. “Là Willie Harris.”
Khi nghe thấy danh tính của người chết, Rachel nhẹ hết cả người. “Ông ấy chết rồi ạ?”
Giọng cô thấp hơn.
“Phải.”
“Rachel, vì Chúa.” Elisabeth giật mạnh cái váy lụa hoa của con gái. Rachel quay lên và cố gắng lấy lại tư thế ban nãy để chú ý vào bài giảng đạo của mục sư. Sự thật là cô chẳng để lọt vào tai chữ nào.
Willie Harris đã chết. Điều đó có nghĩa gì với Johnny nhỉ? Theo như cô biết, hắn và bố hắn chưa bao giờ thân thiết. Nhưng cô thực sự không biết gì nhiều về gia đình hắn hay cuộc sống trước kia của hắn. Dù sao thì mất đi người cha, một cách đột ngột và trong tình cảnh như vậy, quả là rất kinh khủng. Trái tim cô nhói đau vì hắn.
Sau bài thuyết giáo dài như vô tận, các giáo dân tràn ra sân trước, và mẹ cô, vẫn thanh lịch như thường lệ trong chiếc đầm lụa màu xanh cô-ban và một chiếc mũ nhỏ rất hợp nhau, đang dừng lại nói chuyện với mấy người bạn. Theo kinh nghiệm của Rachel thì không thể kéo mẹ về cho đến khi Elisabeth kết thúc chuyến thăm hỏi sau buổi lễ – một trong những thói quen ưa thích hằng tuần của bà. Cô bèn hòa vào mạng lưới buôn chuyện của thị trấn để nghe ngóng thêm thông tin về cái chết của Willie.
“… và họ sẽ chôn ông ta ở nghĩa trang Calvary trong buổi sáng.” Kay Nelson tổng kết lại bằng giọng thì thào. Đứng cạnh Kay trong một vòng tròn những người quen biết vây quanh, Rachel ngạc nhiên vì thấy cô ta biết rất nhiều thông tin về cái chết và cả việc chôn cất nữa. Chắc hẳn là những chiếc điện thoại đã réo lên inh ỏi ngay từ sáng sớm.
“Nhanh quá nhỉ!” Cô em dâu bé nhỏ của Kay, Amy, tỏ ra thực lòng thương tiếc cho người quá cố. Amy là người ngoài, mới đến Tylerville được hai năm từ khi kết hôn với em trai của Kay là Jim. Vì thế cô không thể hiểu rõ sự phức tạp của việc ai là ai và ai chẳng là ai hết trong thị trấn. Một công dân xuất chúng đột ngột qua đời sẽ được ở trên mặt đất năm đến sáu ngày sau khi chết để người ta có thể tổ chức một đám tang to và long trọng. Với những người như Willie Harris, thời gian đó là không cần thiết.
Jim Nelson nhún vai. “Ông ta có thể được chôn hôm nay là tốt rồi. Tôi nghĩ chả có ai ngoài Johnny đến đám tang đâu. Trừ khi Buck hay cô con gái nhà Harris xuất hiện. Đừng mong là chị sẽ bán được nhiều vòng hoa, Kay ạ.”
Đến lúc đó, trước vẻ dường như quen thuộc giữa Jim và nhà Harris, Rachel mới nhớ ra Jim là bạn học cùng lớp hồi cấp ba với Johnny. Nếu cô nhớ không nhầm thì cậu ta cũng đã hẹn hò với Marybeth Edwards vài lần.
“Em làm chị thấy mình tồi tệ rồi đấy. Chị có bao giờ mong mọi người trong thị trấn chết để được hưởng lợi đâu,” Kay nửa phản đối nửa cười đùa và thụi vào tay em trai. “Cũng thật khủng khiếp nếu không có ai đến dự đám tang của người đàn ông khốn khổ đó.”
“Tôi sẽ đi,” đột nhiên Rachel lên tiếng. Jim Nelson liếc nhìn cô. Như Kay, cậu ta có cơ thể vạm vỡ, và trong bộ vest kẻ sọc trông cậu ta thật bảnh. Jim đúng là mẫu luật sư thành đạt ở một thị trấn nhỏ.
“Cô luôn luôn ưu ái Johnny Harris, đúng không, Rachel?” Cậu ta nói. “Em nhớ hồi còn đi học, cô luôn tha tội cho hắn, trong khi chúng em mà mắc lỗi thì bị cô phơi khô luôn.”
“Cô nghĩ rằng hoàn cảnh gia đình đã khiến cậu ta có những hành vi xấu như thế, còn các em thì không giống như vậy,” Rachel vặn lại, và Jim cười toe toét ra vẻ hiểu biết.
“Đừng nói với em là chị dạy Jimmy hồi cấp ba nhé! Ôi, em không tin đâu!” Mắt Amy lướt dọc người Rachel lần nữa, ra vẻ ước lượng, và Rachel gần như đọc được câu hỏi trong đó: Vậy chị bao nhiêu tuổi rồi? Nhưng Amy được giáo dục cẩn thận nên không đến nỗi thốt ra điều đó.
“Đúng thế. Và cô ấy còn rất rắn nữa,” Jim vẫn cười toe toét. “Anh nghe nói bây giờ cô ấy vẫn thế.”
“Này, Jim Nelson!” Giọng Kay đầy căng thẳng. “Nói thế mà nghe được à! Em biết chị Rachel đáng yêu thế nào mà. Cậu ấy đang đùa thôi, Rachel ạ.”
“Em có đùa đâu. Rachel có thể ngọt ngào, nhưng cô Grant là một người vô cùng nghiêm khắc. Chúng em đứa nào chẳng sợ cô. Ngay cả Johnny Harris còn sợ. Hắn ta để ý đến cung cách của mình với cô ấy, nhưng với người khác thì không bao giờ.”
“Anh là bạn của anh ta à? Em cứ tưởng…” Giọng Amy nhỏ dần khi cô ngước lên nhìn chồng đầy băn khoăn.
Jim lắc đầu. “Không. Hắn không chơi với bọn anh. Bọn anh chơi tennis và golf. Hắn và lũ bạn thì lẻn vào nhà người khác.”
Kay trừng trừng nhìn em. Lông mày Jim nhướng lên vẻ ngạc nhiên.
“Cậu ta không xấu đến thế đâu. Thỉnh thoảng cậu ta cũng cắt cỏ cho nhà mình đấy, khi em còn đang bận chơi tennis hay golf ấy, và cậu ta luôn luôn lịch sự với mẹ và chị. Dù sao thì Johnny cũng đang làm việc cho chị Rachel mà, nhớ không?” Kay nhấn mạnh.
“Ồ phải.” Tia nhìn của Jim chuyển sang Rachel. “Em không hiểu tại sao cô có thể thuê hắn ta được, sau những gì hắn đã làm với Marybeth bé bỏng tội nghiệp. Họ phải xử tử hình hắn mới đúng. Mười năm chỉ là một trò đùa so với những gì hắn đã làm. Ít nhất thì chúng ta cũng phải trục xuất hắn ra khỏi Tylerville.”
“Jim!” Kay liếc nhìn Rachel vẻ xấu hổ.
“Em không thể giấu những điều mình nghĩ được, và em cảm thấy mình như một thằng đạo đức giả nếu không nói thế.”
“Mỗi người đều có quan điểm riêng mà.” Rachel mỉm cười độ lượng. “Quan điểm của tôi là Johnny Harris không giết cô bé đó. Có kẻ khác đã làm.”
“Ồ, Rachel, em cũng muốn nghĩ như vậy, nhưng là ai cơ chứ?” Giọng Kay có vẻ hoài nghi.
Jim nói cùng lúc với chị gái, “Như em đã nói, cô luôn ưu ái hắn mà. Em thì chắc chắn là hắn có tội.”
“Này, Jim-Bob, hai người có thời gian chơi một trận golf chiều nay không?” Wiley Brown, một người bạn lâu năm của Jim, đồng thời là thẩm phán mới được bổ nhiệm của hạt, đến chỗ họ, vỗ vai Jim và gật đầu với những người còn lại. “Hay cô nàng bé nhỏ này vẫn buộc chặt cậu vào tạp dề của cô ấy?”
Amy hơi đỏ mặt trước lời nói đùa đó. Jim véo tai cậu ta và nói, “Ừ, tớ rảnh mà. Khoảng hai giờ nhé? Gặp cậu ở câu lạc bộ. Như thế tớ mới kịp ăn.”
“Nghe được đấy.”
Cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề golf. Trông thấy mẹ mình đang giải lao giữa những cuộc thăm hỏi, Rachel xin lỗi mọi người rồi kéo bà đi trước khi có ai kịp làm thế. Đôi khi làm tài xế cho mẹ cũng thật mệt mỏi.
Trên quãng đường ngắn về nhà, Elisabeth quở trách con gái, “Nói thật nhé, Rachel, con nghĩ gì mà lại nói to như thế trong nhà thờ cơ chứ? Đời mẹ chưa bao giờ xấu hổ đến thế.”
“Con xin lỗi mẹ. Bà Skaggs và bà Ashton đang thì thầm nói chuyện đằng sau chúng ta, và con nghe lỏm được một chuyện làm con ngạc nhiên.”
“Chuyện về cái chết của lão Harris, nếu mẹ đoán không nhầm,” Elisabeth nói. Vẻ thách thức hiện lên trong giọng nói khi bà tiếp tục, “Con định đến đám tang hả?”
“Phải ạ.” Hai tay Rachel bám chặt vào vô lăng.
“Mẹ biết ngay mà! Lúc nào con cũng là đứa trẻ bướng bỉnh nhất quả đất! Chúa tôi, con muốn dính líu sâu đến những người đó lắm ư? Họ chẳng là cái thá gì trên đời này ngoài rác rưởi cả.” Elisabeth nhìn Rachel đầy bực tức.
Rachel nghiến răng. Kết quả là chân cô tăng áp lực lên chân ga và chiếc xe lao vùn vụt trên con đường hẹp. Mấy cánh đồng rải rác những đàn gia súc của Black Angus và một vài đàn ngựa ăn cỏ trôi qua.
“Vì Chúa, Rachel, chậm lại!” Mẹ cô hét lên, túm lấy chỗ gác tay bên cạnh khi chiếc Maxima ôm một đường cua hình như là trên hai bánh. Rachel lúc ấy mới nhớ ra mình đang ở đâu và đang làm gì, liền nhả chân ga ra. Hít một hơi thật sâu, cô ép mình tập trung vào việc lái xe. Lâu lắm rồi cô không tranh luận với mẹ, vì làm thế chẳng có tác dụng gì. Elisabeth không bao giờ thay đổi suy nghĩ về bất cứ vấn đề nào, dù sự thật có đi ngược lại quan điểm của bà đến đâu đi chăng nữa. Nhưng lần này, Rachel sẽ không cho qua lời nhận xét quá đáng của bà.
“Rác rưởi là gì hả mẹ? Những người nghèo khó ư? Nếu bố mất đi khi Becky và con còn nhỏ, chúng ta cũng sẽ nghèo khó. Chúng ta có trở thành rác rưởi không?” Dù giận dữ, Rachel vẫn cẩn thận giữ giọng ở mức bình thường. Liếc mắt nhìn mẹ, Rachel thấy Elisabeth có vẻ bị sỉ nhục.
“Con biết rất rõ rằng chúng ta không trở thành rác rưởi. Tiền không liên quan gì đến chuyện đó.”
“Vậy thì là cái gì? Tilda và J.D. là rác rưởi ư?”
“Rachel Elisabeth Grant, Tilda và J.D. là những người tốt! Họ là người da đen, nhưng họ sạch sẽ, lịch sự và trung thực hết mực, lại còn đáng tin cậy nữa. Con biết rõ điều đó cơ mà!”
“Vâng, vậy thì Wiley Brown thì sao? Cậu ta là một thẩm phán thật đấy, nhưng cậu ta uống quá nhiều, và mẹ cũng biết rõ điều đó. Sự thật là vào ngày tốt nghiệp cấp ba, cậu ta đã say xỉn đến mức ngủ gật và ngáy o o ngay giữa buổi lễ. Cậu ta có phải rác rưởi không?
Hay nhà Bowen nữa? Bà Bowen trốn sang châu Âu và bỏ các con mình lại. Họ có phải rác rưởi không? Hay nhà Whalsh thì sao? Ông chồng là một bác sĩ khoa nhi, và bà vợ là một y tá, nhưng lúc nào bà ấy chẳng bị tím bầm hay thâm mắt vì đâm sầm vào cửa như bà ấy thường nói. Họ có phải rác rưởi không? Hay là Rob chẳng hạn? Anh ta ly dị đấy. Chuyện đó có biến anh ta thành rác rưởi không?”
“Rachel, mẹ phải thú thật là Chúa đã phái con xuống để làm mẹ điên hết cả đầu! Con hoàn toàn hiểu rằng không ai trong số họ là rác rưởi cơ mà!”
“Vậy thì mẹ giải thích cho con rác rưởi là gì đi. Con muốn biết. Nếu nghèo khó, hay da đen, hay say xỉn, hay bị cha mẹ bỏ rơi, hay bị chồng đánh đập, hay ly dị đều không biến thành rác rưởi, vậy thì điều gì mới thực sự là nguyên nhân.”
Elisabeth ấp úng, “Có thể mẹ không thể mô tả được nó, nhưng khi nhìn thấy rác rưởi thì mẹ sẽ biết ngay, và chính con cũng thế!”
Rachel cảm thấy mình đang run lên vì sắp mất bình tĩnh với mẹ – điều mà cô hiếm khi mắc phải. Giọng cô vẫn bình thản: “Mẹ, nghe con nói này. Về việc gọi Johnny Harris là rác rưởi ấy, con đã rất mệt mỏi với mẹ rồi, và cả mọi người trong thị trấn nữa. Trừ khi mẹ có thể giải thích cho con tại sao cậu ta lại là rác rưởi, còn không mẹ đừng có làm như thế nữa!”
“Sao cơ, Rachel? Con nói với mẹ bằng cái giọng đó à!”
“Con xin lỗi mẹ. Nhưng đó đúng là điều con muốn nói.”
Môi Elisabeth mím chặt, mắt bà nheo lại, điên tiết nhìn con gái. “Người ta đồn nhiều về con và thằng đó. Mẹ không để ý lắm vì con là con gái mẹ và con được nuôi dạy tử tế. Nhưng mẹ bắt đầu nghĩ rằng chắc hẳn là có vấn đề gì đó. Hồi bố con còn trẻ, trước khi lấy mẹ, ông ấy bồng bột, lơ là và sẵn sàng nhảy bổ vào rắc rối bằng cả hai chân. Thật đau lòng khi phải nói với con rằng con đang trở nên giống bố đấy.”
Lời chỉ trích chĩa vào cả cô và người cha cô kính yêu làm Rachel nhức nhối. Sức chịu đựng của cô lại trượt xuống một ít. Liếc nhìn mẹ hết sức lạnh lùng, cô rẽ vào đường dành cho ô tô của nhà mình.
“Con cũng mong là thế, mẹ ạ. Con cực kỳ ghét nếu chuyện ngược lại xảy ra.”
Mắt Elisabeth mở to nhìn con gái chằm chằm, mặt bà tái mét. Hếch cằm lên thách thức, không thèm nói hay cảm thấy hối hận, Rachel lái xe vào cổng và dừng lại.
“Con phải đỗ trong bãi chứ.” Như tất cả những người hiểu rõ về Rachel, Elisabeth chẳng lạ gì cách lái xe phóng túng của cô.
“Con không dừng lại đâu. Con phải đi có việc. Mẹ cứ vào đi.”
“Có việc ư? Con quên là chúng ta phải chuẩn bị cho bữa cơm ngày Chủ nhật vào lúc hai giờ ư? Sẽ có khách đấy, lẽ ra mẹ không cần nhắc con mới phải.”
“Hai giờ con sẽ có mặt. Mẹ xuống xe đi ạ.”
Phát ra âm thanh nghe như tiếng khịt mũi, Elisabeth ra khỏi xe và cố tình đóng cửa lại một cách nhẹ nhàng nhưng ý tứ còn rành rọt hơn cả một cú sập mạnh. Sau đó bà cúi xuống và thò đầu qua cửa sổ xe nhìn Rachel.
“Con vào thị trấn gặp cái thằng Harris đó phải không?”
“Phải, mẹ ạ. Và có thể con sẽ đưa cậu ấy về ăn tối cũng nên.”
“Rachel!”
“Con định làm thế đấy, mẹ ạ,” Rachel nói. “Bây giờ thì mẹ lùi lại đi. Con phải đi rồi.”
“Rachel!”
Giọng Elisabeth vừa đau đớn vừa nhục nhã, bà đứng thẳng người lên và lùi lại. Chuyển xe sang chế độ lùi rồi cua một góc rộng, Rachel nhìn qua gương chiếu hậu và thấy sự hoang mang hiển hiện rõ nét trên mặt mẹ. Dáng người mỏng manh, bé nhỏ của bà đứng cô độc trên nền khung cảnh rộng lớn của ngôi nhà màu trắng khổng lồ và những cánh đồng màu xanh thăm thẳm. Nhưng lần đầu tiên trong đời, cô không cho phép mẹ làm mình cảm thấy có tội. Lần này cô thực sự muốn làm điều mình nói.
Hóa ra, cuộc xung đột giữa Rachel và mẹ chẳng có được ích lợi gì. Khi cô đến cửa hàng đồ dân dụng thì Johnny không có trong phòng. Cô dừng lại ở Long’s, một trong hai nhà tang lễ của thị trấn, đồng thời là nơi phục vụ cho những công dân kém quan trọng hơn như Willie Harris, và cũng không thấy Johnny. Ở đó cũng chưa có sắp xếp gì để có thể nhìn thấy xác Willie Harris, mặc dù đám tang của ông được lên lịch là sẽ diễn ra lúc mười giờ sáng ngày mai. Rachel cảm ơn Sam Munson, người làm dịch vụ lễ tang, rồi rời khỏi đó. Một câu hỏi cháy bỏng trong đầu cô: Johnny đang ở đâu? Rachel nghĩ đến Glenda, và rồi đến hình ảnh Johnny đơn độc và đau buồn đang trải qua một biến cố đột ngột. Tất nhiên là hắn ở chỗ Glenda. Hắn chẳng cần gì đến Rachel cả.
Ngực quặn thắt, Rachel từ bỏ ý định và lái xe về nhà. Vẻ nhẹ nhõm trên mặt Elisabeth khi cô xuất hiện một mình đúng giờ ăn chẳng khác nào muối xát vào vết thương của cô.