Thứ Sáu là một trong những ngày khốn khổ nhất mà Rachel trải qua trong đời. Trước tiên, đúng như dự đoán của cô, những lời bàn tán về cô và Johnny lan đi khắp trường. Giây phút cô bước vào lớp điểm danh, mắt của đám học sinh đã dán vào cô đầy thích thú. Niềm tin rằng mình là chủ đề của những cuộc bàn tán mỗi lúc một tăng lên vì mỗi khi cô đi qua những nhóm đang túm tụm chuyện trò trên hành lang, phòng hội đồng và bàn ăn trưa, mọi người, kể cả giáo viên lẫn học sinh, đều im bặt. Nhưng cô không biết chắc điều đó cho đến khi chuông hết giờ reo lên, học sinh lao ra ngoài như ong vỡ tổ, và James xuất hiện trước cửa lớp.
Rachel đang thu những đồ dùng cá nhân cần mang về vào dịp cuối tuần, nhưng cô ngừng lại và ngẩng lên thắc mắc nhìn thầy hiệu trưởng trong bộ vest màu xám.
“Có kế hoạch hay ho gì cho cuối tuần chưa, Rachel?” James vừa hỏi vừa bước vào phòng.
Ông đã gần đến tuổi về hưu nhưng vẻ nghiêm nghị và cung cách thẳng thắn làm ông trông già dặn hơn nhiều. Mái tóc dày màu xám luôn chải vuốt ngược về sau, vóc người chắc nịch và thói quen nói lầm bầm của ông luôn gợi cho Rachel nhớ đến vai Bố già của Marlon Brando.
“Không hẳn ạ.” Cô mỉm cười khi ông bước đến và nhìn đống bài luận cần chữa của cô. “Thế còn bác thì sao ạ?”
Jame nhún vai. “Chẳng có gì. Bess” – Bess là vợ ông được bốn mươi năm rồi – “và tôi chỉ định ở nhà nghỉ ngơi thôi. Chẳng có đứa nào đến chơi cả.”
“Nghe tuyệt đấy ạ.” Rachel thu nốt những giấy tờ cuối cùng, tập tài liệu và một vài quyển sách cần để chuẩn bị cho bài giảng tuần sau rồi đứng chờ đợi. Jame không bao giờ nói chuyện phiếm. Ông đến tìm cô là có mục đích, và cô khá chắc là mình biết mục đích đó là gì.
“Chúng tôi mong chờ cuối tuần lắm.” Ông hắng giọng và Rachel biết điều khiến ông tìm cô để nói chuyện đang đến. “Hôm nay, một số học sinh nữ nói với cô Wylie” – cô Wylie là người cố vấn cho học sinh nữ – “một chuyện khá rắc rối.”
Rachel nhướng mày.
“Chúng nói rằng hôm qua cái gã Harris đó đến trường tìm cháu. Rằng cháu lái xe đưa hắn đi.”
“Johnny Harris ngày trước là học sinh của cháu,” Rachel bình tĩnh nói. Mặc dù đã đoán trước mình sẽ phải có cuộc nói chuyện như thế này, nhưng tóc gáy của cô vẫn dựng lên vì bực bội. Hành động của mình bị soi mói đã khó chịu rồi, nghe Johnny bị gọi một cách khinh miệt là “cái gã Harris đó” ở bất kỳ chỗ nào cô qua lại càng khiến cô bực dọc.
“Vậy chuyện đó là đúng?” James nhìn cô thăm dò. Mắt ông ta chiếu lên cô qua đôi kính gọng đen.
“Rằng cậu ấy đến trường gặp cháu và bọn cháu đi bằng ô tô của cháu ấy ạ? Đúng ạ,”
“Bác mong đó là chuyện chỉ xảy ra một lần. Cháu phải biết rằng chúng ta không thể để một kẻ như gã đó đi lảng vảng quanh trường.”
“Ý bác là sao ạ, ‘một kẻ như gã đó’ ư?” Sự tức giận làm giọng cô đanh lại. James có vẻ ngạc nhiên.
“Một gã đàn ông từng được biết đến là kẻ chuyên đi săn lùng các cô gái, tất nhiên là thế rồi. Chúng ta có trách nhiệm trước các phụ huynh…”
“Johnny Harris không săn lùng các cô gái trẻ! Cháu đã biết cậu ta từ hồi cậu ta còn là thanh niên, và cháu tin vào sự vô tội của cậu ta trong cái chết của Marybeth Edwards cũng như tin vào sự vô tội của… bác vậy, so sánh như thế để nhấn mạnh thôi ạ. Cậu ấy…”
“Cậu ta bị tòa kết án giết người và theo đó đã phải ngồi tù. Việc cậu ta trả nợ cho xã hội không thể ảnh hưởng đến trách nhiệm của chúng ta với các phụ huynh trong việc trông nom con em họ. Chúng ta phải bảo vệ những đứa trẻ được trao vào bàn tay chăm sóc của chúng ta. Thậm chí ngay cả khi chuyện đó đi ngược lại với cảm nhận của chúng ta về sự thiếu công bằng với hắn cách đây mười năm.”
Giọng nói nhẹ nhàng của ông làm cho lời khiển trách không còn khó chịu. Tuy nhiên, sự tức giận của Rachel vẫn mỗi lúc một tăng.
“Công việc của cháu có bị đe dọa nếu Johnny đến trường lần nữa không, thưa bác James?”
“Bác và cháu biết rất rõ chức vụ của cháu, Rachel ạ. Bác quan tâm đến đạo đức của cháu nhiều hơn là nỗi lo mất việc.”
“Đạo đức của cháu rất trong sạch, cháu đảm bảo với bác. Giờ thì cháu xin phép bác.”
“Chắc chắn rồi. Bác xin lỗi nếu đã làm cháu buồn, nhưng cháu biết người ta xì xào gì rồi đấy. Bác tin lần này như thế là đủ rồi.”
“Chúc bác nghỉ cuối tuần vui vẻ, bác James,” Rachel nói nhanh rồi đi qua thầy hiệu trưởng ra phía cửa.
Về tới nhà, cơn tức giận của cô đã hơi dịu lại. Dù sao thì quan điểm của James không phải là bất ngờ, và đó là một trong những lý do tại sao cô quyết định không để cho mối quan hệ giữa mình và Johnny tiến xa hơn mà không suy nghĩ nghiêm túc. Đang nghĩ sự điều hòa về cảm xúc của mình là một điều tốt thì cô nhìn thấy chiếc Lexus màu đen đỗ trước cánh cổng đá.
Michael đã đến, có lẽ là để đón Becky và mấy đứa bé về nhà.
“Michael đến rồi.” Mẹ cô chào cô bằng tiếng rít lên đầy cảnh báo ngay khi Rachel bước vào cửa. Từ sân vang lên tiếng các cháu gái cô hét lên và cười đùa. Chúng đang chơi trò gì đó rất ầm ĩ. Liếc qua cửa sổ bếp trong lúc đặt sách vở xuống bàn, Rachel thấy Tilda đang chơi một trận cầu lông rất thú vị với lũ trẻ.
“Bọn trẻ con có biết không ạ?”
Elisabeth gật đầu. “Tilda kéo chúng ra ngoài. Mẹ nghĩ nó muốn Becky quay lại với nó.”
“Thế Becky muốn gì ạ?” Rachel mở tủ lạnh và lấy một hộp nước cam nhỏ. Những đồ uống này được mua cho lũ trẻ, tuy nhiên chúng đã trở thành đồ uống ưa thích của tất cả mọi người trong nhà. Rachel cắm cái ống hút nhỏ xíu vào, rồi thích thú uống.
Elisabeth lắc đầu. “Mẹ không biết. Chúng nó ở trong thư viện được gần một tiếng rồi, và mẹ chẳng nghe thấy gì. Mẹ muốn ở gần đó đề phòng trường hợp Becky cần mẹ. Con bé rất dễ xuống tinh thần, con biết đấy. Mẹ chỉ mong Michael tỉnh táo lại. Nếu được vậy, chắc chắn là Becky sẽ tha thứ.”
Rachel nhăn mặt đầy hoài nghi rồi uống thêm một hơi nữa. “Con lên lầu thay đồ và chào bố đây. Gọi con nếu mẹ cần nhé.”
Elisabeth gật đầu. “Ồ, nhân tiện, tối qua Rob gọi đấy, sau khi con đi ngủ ấy. Mẹ bảo cậu ấy là hôm nay con sẽ gọi lại. Và Ben gọi từ cửa hàng nữa.”
Rachel đang đi qua ô cửa chợt lưỡng lự, ngoái lại nhìn. “Có ai gọi nữa không ạ?”
Mẹ cô lắc đầu. “Không.”
Nhớ đến việc mẹ nói dối Johnny khi hắn gọi, Rachel quay lại và nhìn mẹ nghiêm nghị.
“Mẹ chắc không ạ?”
“Tất nhiên là chắc rồi.”
“Hôm qua Johnny Harris đến trường để gặp con. Cậu ấy bảo là cả tuần này đã cố gọi cho con mấy lần, nhưng chỉ nghe thấy mẹ nói là con không có nhà.”
“Nếu mẹ nói thế thì đúng là như thế.” Elisabeth có vẻ tự vệ.
“Mẹ còn không buồn nói với con là cậu ấy gọi, mẹ ạ.”
“Có lẽ là mẹ quên. Mẹ có thể quên một vài chuyện mà, con biết đấy. Nhất là những chuyện xảy ra gần đây. Thật lạ là mẹ có thể nhớ được mọi thứ đấy.” Tay Elisabeth vẫy vẫy tỏ vẻ bất lực, nhưng Rachel – người rất hiểu mẹ mình – biết rằng bà vẫn còn khỏe mạnh bình thường.
“Mẹ không bao giờ quên điều gì cả, và mẹ biết điều đó. Con lớn rồi, mẹ ạ. Ai gọi cho con, hay con gặp gỡ ai, là việc của con, không phải là của mẹ. Con nghĩ là con đã nói rõ với mẹ từ trước rồi cơ mà.”
“Con chờ cái thằng Harris đó gọi à?” Giọng Elisabeth sắc lạnh.
“Đó không phải là vấn đề, mẹ ạ.”
“Đó đúng là vấn đề với mẹ đấy. Mẹ làm mẹ kiểu gì nếu không lo lắng cho con cơ chứ? Con là con gái mẹ, Rachel, dù con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữa. Mẹ không muốn phải thấy con dính vào những chuyện phức tạp.”
Rachel thở dài. “Con có dính dáng đến chuyện phức tạp nào đâu mẹ.”
“Mẹ cho rằng việc ngủ với thằng Harris đó là một chuyện phức tạp.”
“Mẹ!” Rachel sốc thực sự, cả vì sự thẳng tính lẫn hiểu biết của mẹ, và điều đó thể hiện trong đôi mắt mở to của cô đang nhìn thẳng vào đôi mắt kiên định của bà.
“Con nghĩ là mẹ không biết ư, Rachel? Mẹ đủ thông minh để cộng hai với hai thành bốn.”
Rachel thấy mình đỏ rần cả người trước tia nhìn của mẹ, nhưng cô không chịu cụp mắt.
“Con có phủ nhận không?”
“Con chẳng phủ nhận điều gì,” Rachel đáp, lấy lại thế tự chủ đang trượt dần đi của mình. “Hay thừa nhận điều gì. Đó không phải là việc của mẹ, mẹ ạ.”
“Không phải việc của mẹ khi con gái mẹ quan hệ với một kẻ sát nhân! Mẹ nghĩ con muốn mẹ phớt lờ đi khi nó dí dao vào cổ con nữa, đúng không?”
“Johnny không bao giờ…”
“Giời ơi!” Mẹ cô tức tối cắt ngang. “Con không thể chắc chắn về điều đó cũng như mẹ không thể chắc chắn về việc bố con sẽ khá lên. Mẹ có thể tin như thế, nhưng với mẹ, đó chỉ là những điều mơ tưởng thôi. Và chắc là với con cũng thế.”
Hai mẹ con yên lặng một hồi lâu khi sự thật không thể chối bỏ lơ lửng trong không trung. Sau đó môi Rachel mím lại.
“Con đi thay đồ đây, mẹ ạ,” cô nói, và xoay người bước lên cầu thang. Trước khi cô đi được một phần tư cầu thang, cửa thư viện mở ra.
Rachel quay ngoắt lại và thấy Michael đứng ở ngưỡng cửa, Becky mặt trắng bệch nhưng không khóc đứng đằng sau. Ở dưới, Elisabeth cũng quay lại để nhìn con rể.
Mất một lúc, Michael và hai người phụ nữ cứ nhìn nhau chằm chằm không nói. Michael trông già hơn đợt Rachel gặp hồi Giáng sinh. Anh ta không thể đến vào dịp Lễ Phục sinh hay Tết Độc lập, trong khi Becky đưa mấy đứa bé đến ở một tuần với ông bà và bác.
Những quầng thâm quanh mắt anh ta cho thấy những đêm không ngủ và phần tóc màu xám sau tai nhắc nhở Rachel rằng anh ta đã tổ chức sinh nhật lần thứ bốn mươi vào tháng Sáu vừa rồi. Da anh ta nhợt nhạt, hợp với một người đàn ông ít khi ra ngoài ánh mặt trời, và hàng râu mỏng trên cằm làm sắc nét thêm quai hàm vuông của anh ta. Cao, gầy, điển trai một cách u buồn trong bộ vest màu xanh dương, anh ta là điển hình của một luật sư da trắng thành đạt. Cô khó có thể tin được là trước đây mình từng yêu anh ta.
Từ vẻ mặt của anh ta, rõ ràng là anh ta không hài lòng trước ánh mắt suy xét của mẹ và chị vợ.
“Chào chị, Rachel,” cuối cùng anh ta cũng lên tiếng, có lẽ là lúc mới đến anh ta đã chào Elisabeth rồi. Mắt Rachel chuyển từ anh ta sang Becky, đang đau buồn nhìn chằm chằm vào lưng chồng, và cô gật nhẹ đầu đáp lại. Thái độ của Becky cho thấy dù họ đã nói chuyện gì thì sự khác nhau giữa họ vẫn chưa được vá lại.
Dù trước đây cô từng yêu mến Michael thế nào, trong giây phút khủng hoảng này, cô vẫn về phe Becky.
“Mẹ lấy cho con một chút cà phê hay bánh sandwich nhé, Michael?” Elisabeth hơi bồn chồn hỏi. Không như Rachel, tầm mắt của bà bị con rể che bớt nên không nhìn thấy hết được Becky.
“Không ạ, cảm ơn mẹ. Con có hẹn đi ăn tối. Con sẽ chào mấy đứa bé rồi đi luôn ạ.”
“Chào mấy đứa bé!” Becky cười to, tiếng cười cao vút và gần như cuồng loạn. Cô ôm chặt tay trước ngực. Mi¬chael quay ngoắt lại để đối diện với cô. Từ chỗ đứng của mình, Rachel có thể thấy ánh nhìn gần như là căm hận của em gái dành cho anh ta. Cách đây mười năm, Becky yêu Michael điên cuồng đến mức mắt cô như sáng lên mỗi lần gọi tên anh ta. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại làm Rachel cùng lúc vừa tức giận vừa buồn. Lẽ nào không thứ gì trên đời là mãi mãi hay sao?
“Anh nói nghe mới bình tĩnh làm sao! Anh có quan tâm xem một vụ ly dị ảnh hưởng đến chúng thế nào không?” Giọng Becky the thé.
“Trẻ con sẽ thích nghi,” Michael nói to. Sự căng thẳng phát ra từ tư thế của anh ta. Rachel ngạc nhiên khi thấy hai nắm đấm của anh ta siết lại bên hông. Michael mà cô biết luôn luôn tự chủ – cô không nhớ là mình đã từng thấy anh ta mất bình tĩnh. Nhưng cô mới chỉ quen anh ta trong một mùa hè, trong thời gian còn đang tìm hiểu. Có lẽ gã trai trẻ mà cô nghĩ là mình đã yêu chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng mà thôi.
“Anh là cha chúng đấy!” Tiếng khóc vang lên từ đáy lòng Becky. Michael cứng người lại, sau đó quay ngoắt đi lao qua Elisabeth và Rachel mà không nói năng gì thêm rồi tông mạnh vào cửa sau.
Ba người phụ nữ đứng yên một lúc lâu. Sau đó Rachel bình tĩnh lại, chạy đến bên đứa em gái đáng thương. Elisabeth đã đến trước cô, bà đang ôm Becky trong tay.
“Anh ta đến xem con nghĩ thế nào về việc bán ng… ngôi nhà!” Becky rền rĩ. “Anh ta sẽ ngủ ở khách sạn và ngày mai sẽ quay lại để bàn về chuyện đó. Anh ta nói… anh ta nói một đêm ngủ ngon sẽ giúp con suy nghĩ mọi chuyện thấu đáo.”
“Đúng là đồ con hoang,” Elisabeth hằn học nói. Rachel trước đó chưa bao giờ nghe thấy mẹ chửi thề nhưng cô cũng ngầm gật đầu đồng ý. Cô chụm đầu vào đầu Becky đầy thông cảm trong khi cô em gái òa lên khóc.