Phải mất một lúc môi Ivan và Elizabeth mới rời nhau được, rồi sau đó, Elizabeth với đôi môi rạo rực vừa đi vừa nhảy tới văn phòng. Cô cảm giác như chỉ cần nhấc chân lên khỏi mặt đất là mình sẽ bay lơ lửng. Đang ngâm nga trong lúc cố gắng kiềm chế mình không bay lên, cô va ngay vào bà Bracken đang đứng ở cửa ngó nghiêng đám khách du lịch bên kia đường.
“Lạy Chúa!” Elizabeth hoảng hốt nhảy bật về phía sau.
“Là con của Thiên Chúa, người đã hy sinh cuộc đời mình và chết trên cây thập giá để truyền lời của Chúa và để cho cô cuộc sống tốt đẹp hơn, vì thế đừng dùng tên Người một cách bất kính,” bà Bracken liến thoắng. Bà hất hàm về phía tiệm cà phê. “Đám khách nước ngoài kia đang làm trò gì thế không biết?”
Elizabeth cắn môi cố gắng không cười phá lên. “Tôi không biết. Sao bà không nhập hội xem thế nào?”
“Ông Bracken sẽ không thích cái trò náo loạn đó đâu.” Chắc hẳn bà đã cảm thấy điều gì đó từ giọng nói của Elizabeth vì bà ngẩng đầu lên, nheo mắt chăm chú quan sát kỹ khuôn mặt cô. “Trông cô có vẻ khác.”
Elizabeth phớt lờ bà và bật cười khi Joe lau cà phê trên vỉa hè với vẻ có lỗi.
“Cô vẫn đang tiêu tốn thời gian ở chỗ cái tháp đó đấy hả?” Bà Bracken tố cáo cô.
“Tất nhiên rồi bà Bracken. Tôi thiết kế cho nơi đó mà, bà nhớ không? Nhân tiện, tôi đã đặt vải rồi đấy; phải có cho tôi trong vòng ba tuần nhé, như thế thì chúng tôi sẽ có hai tháng để chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ. Bà có nghĩ sẽ nhờ được thêm ai ở đây giúp không?”
Mắt bà Bracken nheo lại đầy nghi ngờ. “Cô để xõa tóc.”
“Thì sao?” Elizabeth hỏi, đi vào tiệm phải để xem đơn đặt hàng của cô đã tới chưa.
“Thì ông Bracken thường nói là phải để ý đến những phụ nữ thay đổi kiểu tóc của mình một cách chóng mặt.”
“Tôi khó có thể gọi để tóc xõa là thay đổi một cách chóng mặt.”
“Elizabeth Egan, trong số tất cả mọi người thì đối với cô, tôi có thể gọi việc để tóc xõa là một sự thay đổi chóng mặt. Nhân thể,” bà nói tiếp thật nhanh, không để Elizabeth kịp xen vào, “có một vấn đề về đơn đặt hàng mới nhận hôm nay đấy.”
“Có vấn đề gì vậy?”
“Nó sặc sỡ quá.” Bà thốt ra từ đó như thể nó là một thứ bệnh, mở to mắt, nhấn mạnh hơn nữa: “Màu đỏ.”
Elizabeth mỉm cười. “Đó là màu quả mâm xôi, không phải đỏ, mà có một chút màu sắc thì sao cơ chứ?”
“Cô ấy nói có một chút màu sắc thì sao cơ chứ.” Bà Bracken lên giọng một quãng tám. “Cho đến tận tuần trước thì thế giới của cô vẫn là màu nâu. Chính cái tòa tháp đã biến cô thành như vậy phải không. Là anh chàng người Mỹ chứ gì?”
“Ôi, bà đừng nói chuyện cái tháp đó nữa được không?” Elizabeth gạt đi. “Tôi đã ở đó suốt cả tuần, và nó chỉ là một bức tường đổ thôi.”
“Đúng là một bức tường đổ,” bà Bracken đáp, nhìn cô chằm chằm, “và chính anh chàng người Mỹ đã đập nó đấy.”
Elizabeth đảo mắt. “Chào bà Bracken nhé.” Cô chạy lên cầu thang tới văn phòng của mình.
Khi đi vào cô được đón chào bởi một đôi chân đang thò ra từ gầm bàn của Poppy. Chúng là đôi chân đàn ông – chiếc quần nhung kẻ màu nâu và đôi giày nâu xê dịch, vặn vẹo.
“Phải cô không Elizabeth?” Một giọng nói kêu lên.
“Phải Harry ạ,” Elizabeth cười. Thật kỳ quặc, cô cảm thấy hai người vốn luôn làm cô khó chịu lại trở nên đáng yêu một cách lạ lùng. Chắc chắn Ivan đã qua được bài trắc nghiệm mỉm cười ngu ngốc.
“Tôi chỉ vặn chặt cái ghế lại thôi. Poppy nói tuần trước nó đã gây phiền toái cho các cô.”
“Đúng thế Harry ạ, cảm ơn anh.”
“Không có gì.” Đôi chân bị kéo vào gầm bàn và biết – mắt khi anh ta cố gắng đứng lên. Anh ta bị đập đầu vào gầm bàn trước khi ló mặt ra, cái đầu hói được che bằng những sợi tóc xoăn vắt từ bên này sang bên kia.
“À cô đây rồi,” anh ta nói, nhỏm đầu dậy, tay cầm cờ lê. “Nó sẽ không tự quay nữa đâu. Đúng là buồn cười vì nó đã làm như thế.” Anh ta kiểm tra lần cuối rồi nhìn Elizabeth với vẻ mặt đúng y chang như khi xem xét chiếc ghế. “Cô trông khác lắm.”
“Không, tôi vẫn thế mà,” cô nói, đi vào phòng mình.
“Tại mái tóc đấy. Tóc để xõa. Tôi vẫn luôn bảo tốt hơn phụ nữ nên xõa tóc và…”
“Cảm ơn anh Harry. Thế là xong phải không?” Elizabeth nói với vẻ kiên quyết, kết thúc câu chuyện.
“Ồ, đúng vậy.” Anh ta đỏ bừng hai má khi vẫy chào cô và đi xuống cầu thang, rõ ràng sẽ tán chuyện với bà Bracken về mái tóc xõa của Elizabeth.
Elizabeth ngồi xuống bàn, cố gắng tập trung vào công việc nhưng rốt cuộc lại dịu dàng đặt ngón tay lên môi, hồi tưởng lại nụ hôn của Ivan.
“Được rồi,” Poppy nói, bước vào phòng Elizabeth và đặt một ống tiền tiết kiệm lên bàn cô. “Chị nhìn thấy cái này chứ?”
Elizabeth gật đầu nhìn con lợn nhỏ. Becca đang đứng khuất ở cửa.
“Thế này nhé, tôi có một kế hoạch.” Poppy nghiến răng. “Cứ mỗi lần chị ngâm nga cái bài hát chết tiệt của chị, thì chị phải cho tiền vào lợn.”
Elizabeth nhướng mày thích thú. “Poppy, cô làm con lợn này đấy à?” Cô nhìn chằm chằm con lợn bằng giấy bồi ngồi trên bàn mình.
Poppy cố giấu nụ cười. “Tối qua thì yên tĩnh lắm. Nhưng nói thật, bây giờ thì hơn cả khó chịu nữa Elizabeth ạ, chị phải tin tôi mới được,” Poppy nài nỉ. “Thậm chí cả Becca cũng phát ốm lên với nó rồi.”
“Đúng thế không Becca?”
Má Becca ửng hồng và cô bước vội đi, không muốn bị lôi vào câu chuyện.
“Hỗ trợ tốt nhỉ,” Poppy càu nhàu.
“Vậy ai sẽ được tiền?” Elizabeth hỏi.
“Con lợn. Nó đang quyên góp để sắm một cái chuồng mới. Cứ việc ngâm nga và ủng hộ cho con lợn,” cô nói, gí vội con lợn vào mặt Elizabeth.
Elizabeth cố không phá ra cười. “Đi ra đi.”
Một lát sau, khi họ đã ổn định và quay lại với công việc thì Becca đâm bổ vào phòng, cô đặt con lợn lên bàn và nói với đôi mắt mở to, “Trả đi nào!”
“Tôi lại hát à?” Elizabeth ngạc nhiên hỏi.
“Vâng ạ,” cô gái rít lên, không còn kiên nhẫn được nữa, rồi quay gót.
Chiều hôm đó Becca đưa một vị khách tới văn phòng Elizabeth.
“Chào chị Collins,” Elizabeth nói lịch sự, bắt đầu nôn nao trong dạ. Collins là chủ nhà nơi Saoirse trọ mấy tuần qua, “Mời chị ngồi.” Cô chỉ vào chiếc ghế trước mặt.
“Cám ơn cô.” Collins ngồi xuống. “Cứ gọi tôi là Margaret thôi.” Bà ta nhìn quanh phòng như một đứa trẻ sợ hãi bị gọi vào phòng hiệu trưởng. Bà ta đan tay đặt trong lòng như thể sợ không dám chạm vào cái gì. Chiếc áo cánh cài khuy lên tận cằm.
“Tôi đến nói chuyện với cô về Saoirse. Tôi e rằng mấy hôm vừa rồi đã không thể chuyển được bất kỳ lời nhắn nào của cô cho cô ấy,” Margaret nói với vẻ không thoải mái, vân vê gấu áo. “Cô ấy không về nhà trọ đã ba ngày nay rồi.”
“Ồ,” Elizabeth nói, cảm thấy xấu hổ. “Cảm ơn chị đã báo cho tôi, chị Margaret, nhưng không có gì phải lo lắng đâu. Có lẽ nó sẽ gọi cho tôi sớm thôi.” Cô đã mệt mỏi với việc là người cuối cùng biết mọi chuyện, phải nghe người ngoài thông báo về tình hình của chính gia đình mình. Mặc dù bị phân tâm bởi Ivan, Elizabeth vẫn cố để mắt tới Saoirse hết mức có thể. Phiên tòa xử Saoirse sẽ diễn ra trong vài tuần nữa, vậy mà Elizabeth vẫn không sao tìm ra cô ta ở bất cứ nơi nào. Bất cứ nơi nào có nghĩa là ở quán rượu, nhà cha cô hay nhà trọ.
“Ờ, thật ra cũng không hẳn là việc đó. Chuyện là, ờ, hiện giờ đang là thời gian vô cùng bận rộn của chúng tôi. Có rất nhiều khách du lịch đến đây tìm nơi trọ và chúng tôi cần dùng phòng của Saoirse.”
“Vâng.” Cô ngồi thẳng lại, cảm thấy thật ngốc nghếch. Tất nhiên. “Điều đó hoàn toàn dễ hiểu,” Elizabeth ngượng ngập nói. “Nếu chị muốn thì sau giờ làm tôi sẽ tới dọn dẹp đồ đạc của nó.”
“Không cần đâu,” Margaret mỉm cười nhũn nhặn, rồi gọi to, “CÁC CHÚ!”
Hai cậu thanh niên bước vào phòng Elizabeth, mỗi người mang theo một chiếc vali.
“Tôi đã tự gom đồ của cô ấy lại rồi,” Margaret tiếp tục, vẫn giữ nguyên nụ cười. “Giờ tôi chỉ cần ba ngày tiền phòng và thế là xong.”
Elizabeth chết trân. “Margaret, tôi chắc chị sẽ hiểu rằng chuyện chi tiêu của Saoirse thì nó phải lo. Chỉ vì tôi là chị nó không có nghĩa là tôi phải trả tiền. Nó sẽ về sớm thôi, tôi tin chắc đấy.”
“Ồ, tôi biết thế, Elizabeth ạ,” Margaret cười, để lộ vết son hồng dính trên răng cửa. “Nhưng giờ nhà trọ của tôi là nơi duy nhất cho phép Saoirse ở nên tôi chắc cô sẽ đồng ý…”
“Bao nhiêu?” Elizabeth ngắt lời.
“Mười lăm đồng một ngày,” Margaret ngọt ngào nói.
Elizabeth rút ví. Cô thở dài. “Nghe này Margaret, có vẻ như tôi không còn đồng tiền…”
“Séc cũng được,” giọng bà ta ngân lên.
Sau khi đưa tờ séc cho Margaret, lần đầu tiên trong thời gian gần đây Elizabeth không nghĩ về Ivan mà bắt đầu lo lắng cho Saoirse. Như bao lần trước đây.
Mười giờ tối ở trung tâm Manhattan, Elizabeth và Mark hướng ánh mắt ra bên ngoài những ô cửa sổ khổng lồ màu đen của quán bar nằm trên tầng một trăm mười bốn mà Elizabeth vừa thiết kế xong. Đêm nay là đêm khai trương Club Zoo, toàn bộ tầng này được dành cho dấu chân động vật, đi văng và đệm bọc lông thú, điểm xuyết hoa cỏ và cây tre. Cô ghét cách bài trí như vậy, nhưng cô đã nhận được bản vẽ phác và buộc phải tuân theo. Nó đã thành công rực rỡ, tất cả mọi người đều đang tận hưởng không khí đêm nay, và đóng góp vào bầu không khí tiệc tùng đó là màn biểu diễn trực tiếp các điệu trống thổ dân và tiếng chuyện trò vui vẻ không ngừng. Elizabeth và Mark cùng cụng ly sâm banh rồi nhìn ra bên ngoài, hướng ánh mắt đến biển nhà chọc trời, những ngọn đèn lấm chấm trên các tòa nhà như ô bàn cờ và một sóng taxi màu vàng ở bên dưới.
“Chúc mừng một thành công nữa của em,” Mark nâng cốc, nhấp một ngụm từ ly sâm banh sủi bọt.
Elizabeth mỉm cười, cảm thấy tự hào. “Chúng ta đang ở cách nhà rất xa phải không?” Cô trầm tư suy nghĩ, nhìn quang cảnh bên ngoài và thấy hình phản chiếu của buổi tiệc đang diễn ra sau lưng cô. Cô thấy chủ câu lạc bộ, Henry Hakala, đang rẽ đám đông đi tới.
“Elizabeth, cô đây rồi.’ Anh ta chìa tay về phía trước đón chào cô. “Tại sao ngôi sao của đêm nay lại đứng ở góc phòng tránh xa mọi người như thế này?” Anh ta hỏi.
“Henry, đây là Mark Leeson, bạn trai tôi. Mark, anh này là Henry Hakala, chủ Club Zoo,” cô giới thiệu hai người.
“Vậy ra anh là người đêm nào cũng giữ bạn gái tôi phải về muộn đấy,” Mark đùa, bắt tay Henry.
Henry bật cười. “Cô ấy cứu sống tôi đấy. Ba tuần để hoàn thành tất cả những thứ này.” Anh ta ra dấu chỉ căn phòng được trang trí vô cùng ấn tượng với dấu chân ngựa vằn trên tường, da gấu phủ trên đi văng, dấu chân báo trải dọc sàn nhà bằng gỗ, những cái cây khổng lồ đặt trong chậu hoa vàng và tre xếp hàng ở khu vực quầy bar. “Thời gian gấp quá và tôi biết cô ấy sẽ làm được, nhưng tôi không nghĩ cô ấy lại làm tốt đến mức này.” Trông anh ta có vẻ biết ơn. “Dù sao thì bài phát biểu cũng sắp bắt đầu rồi. Tôi sẽ nói vài lời thôi, nhắc đến tên vài nhà đầu tư,” anh ta thì thầm, “cảm ơn các cô những con người vinh quang đã làm việc cật lực. Vì vậy đừng đi đâu nhé Elizabeth, vì trong vài phút nữa tâấ cả các con mắt sẽ đổ dồn vào cô đấy.”
“Ôi,” Elizabeth đỏ mặt, “xin đừng làm thế.”
“Tin tôi đi, cô sẽ có thêm hàng trăm hợp đồng nữa sau bài phát biểu,” anh ta nói trước khi bước về phía chiếc micro được trang trí bằng một cành nho.
“Xin lỗi, cô Egan.” Một nhân viên quầy bar bước về phía cô. “Cô có điện thoại ở ngoài bàn chính.”
Elizabeth nheo mày. “Tôi ư? Điện thoại à? Anh chắc chứ?”
“Cô là cô Egan phải không?”
Cô gật đầu, bối rối. Ại gọi cho cô ở đây chứ?
“Đó là một phụ nữ, cô ta nói là em gái cô?” Anh ta bình tĩnh giải thích.
“Ồ,” Tim cô đập loạn lên. “Saoirse ư?” Cô hỏi, choáng váng.
“Đúng rồi, cái tên đó đấy,” anh thanh niên nói, như trút được gánh nặng. “Tôi không chắc có nhớ đúng tên cô ấy không nữa.”
Ngay lúc đó dường như nhạc trở nên ầm ĩ hơn, những nhịp trống như nện vào đầu cô, mọi vết chân bằng lông thú mờ đi. Saoirse không bao giờ gọi cho cô; chắc phải có chuyện nghiêm trọng.
“Mặc kệ nó đi, Elizabeth,” Mark nói có phần dữ dội. “Anh hãy nói với người phụ nữ trong điện thoại là cô Egan đang bận,” Mark nói với anh phục vụ. “Đêm nay là đêm của em, hãy tận hưởng nó đi,” anh dịu dàng nói thêm với Elizabeth.
“Không, không, đừng nói với cô ấy như vậy,” Elizabeth lắp bắp. Lúc này ở Ailen chắc hẳn là ba giờ sáng – tại sao Saoirse lại gọi muộn như thế? “Tôi sẽ nghe điện thoại, cám ơn anh,” cô nói với người thanh niên.
“Elizabeth, bài diễn văn sắp bắt đầu rồi,” Mark cảnh báo cô khi đám đông đã yên lặng tiến lại gần micro. “Em không thể bỏ lỡ nó,” anh rít lên. “Đây là thời khắc của em.”
“Không, không, em không thể,” cô run rẩy, và bỏ anh lại đó, tiến về phía chiếc điện thoại.
“Alô?” Một lúc sau đó cô nói, sự lo lắng lộ rõ trong giọng cô.
“Chị Elizabeth à?” Tiếng Saoirse nức nở.
“Chị đây, Saoirse. Có chuyện gì thế?” Tim Elizabeth đập thình thịch trong lồng ngực.
Sự im lặng bao trùm câu lạc bộ khi Henry phát biểu.
“Em chỉ muốn…” Saoirse ngừng lại và im lặng.
“Em muốn gì? Mọi chuyện ổn chứ?” Elizabeth hỏi gấp gáp.
Tiếng Henry oang oang, “… Và lời cuối cùng nhưng đặc biệt nhất, tôi muốn cảm ơn người phụ nữ tuyệt vời Elizabeth Egan của công ty Morgan Designs vì đã thiết kế chốn diệu kỳ này trong khoảng thời gian ngắn ngủi đến vậy. Cô ấy đã tạo nên một điều hoàn toàn khác so với những gì đang ở ngoài kia, biến Club Zoo trở thành câu lạc bộ mới sành điệu nhất và được yêu thích nhất, đảm bảo mọi người sẽ xếp hàng để được vào đây. Cô ấy đang đứng ở đâu đó dưới kia. Elizabeth, hãy vẫy tay chào chúng tôi nào, hãy cho mọi người biết cô là ai để họ cướp cô đi khỏi tôi nào.”
Tất cả mọi người im lặng quay nhìn xung quanh, tìm kiếm nhà thiết kế.
“Ồ,” giọng Henry vang vọng, “vậy đấy, một giây trước đây cô ấy còn ở kia mà. Có lẽ ai đó đã chộp được cô ấy để sẵn sàng cho một công việc nào đó rồi.”
Mọi người cười phá lên.
Elizabeth nhìn vào phía trong và thấy Mark đang đứng một mình với hai ly sâm banh trên tay, nhún vai với tất cả những người quay về phía anh và cười. Giả vờ cười.
“Saoirse,” giọng Elizabeth vỡ ra, nói cho chị biết có chuyện gì đi. Em lại gặp rắc rối à?”
Yên lặng. Thay vì tiếng nức nở yếu ớt mà Elizabeth vừa nghe thấy, giọng Saoirse đã khỏe lại như bình thường. “Không,” cô ta cáu kỉnh. “Không, em không sao. Mọi việc đều ổn. Tận hưởng buổi tiệc của chị đi,” rồi cô ta dập máy.
Elizabeth thở dài và chậm chạp gác máy.
Phía bên trong bài diễn văn đã kết thúc và tiếng trống lại vang lên; cuộc chuyện trò và đồ uống lại tiếp tục chảy.
Cả cô lẫn Mark đều chẳng còn tâm trạng đâu mà tiệc tùng.
Elizabeth có thể nhìn thấy một cái bóng khổng lồ hiện ra lờ mờ ở xa xa khi cô lái xe trên con đường dẫn tới căn nhà gỗ của cha cô. Cô đã rời công ty sớm và đang tìm Saoirse. Đã nhiều ngày nay không ai thấy cô ta đâu, thậm chí cả những người chủ quán rượu trong thị trấn, điều này quả là khác thường.
Hướng dẫn cho mọi người đường đến ngôi nhà gỗ luôn là một việc rất khó khăn vì nó quá tách biệt với phần còn lại của thị trấn. Con đường này thậm chí còn không có tên, theo Elizabeth đây cũng là điều hợp lý; nó là con đường đã bị người đời quên lãng. Những người đưa sữa và đưa thư mới bao giờ cũng phải mất mấy ngày mới tìm thấy địa chỉ, các chính trị gia thì chẳng bao giờ đặt chân đến cửa nhà họ để vận động tranh cử, và cũng không có trẻ con tới đòi kẹo trong dịp lễ Halloween. Khi còn nhỏ Elizabeth đã cố thuyết phục mình rằng đơn giản là mẹ cô đã bị lạc vì không tìm được đường về nhà. Cô nhớ đã chia sẻ giả thiết đó với cha, nhưng ông chỉ hơi nhếch mép, đến nỗi gần như không phải một nụ cười và trả lời, “Con biết đấy, con cũng không sai quá đâu, Elizabeth ạ.”
Đó là cách giải thích duy nhất, nếu có thể gọi như thế, mà cô có được. Họ không bao giờ trò chuyện về sự biến mất của mẹ cô; hàng xóm và khách khứa im bặt những khi có Elizabeth ở gần. Không ai cho cô biết chuyện gì đã xảy ra và cô cũng không hỏi. Cô không muốn sự im lặng khó chịu đó đột ngột xông đến hay cha cô lại lao ra khỏi nhà mỗi khi nhắc đến tên mẹ cô. Nếu việc không nhắc đến bà khiến cho mọi người đều vui thì Elizabeth sẵn sàng tuân thủ, như thường lệ.
Dù sao cô cũng không nghĩ là mình thực sự muốn biết. Sự bí hiểm của việc không biết còn thú vị hơn nhiều. Cô sẽ tưởng tượng trong đầu các kịch bản, mường tượng bà đang ở những thế giới kỳ lạ và lý thú, rồi cô sẽ ngủ thiếp đi tỏng lúc hình dung ra cảnh mẹ cô đang ở trên hoang đảo, ăn chuối, dừa và gửi thư cho Elizabeth trong một cái chai. Sáng nào cô cũng mang theo chiếc ống nhòm của cha mình đi dọc bờ biển để tìm kiếm dấu hêịu của một cái chai đang trôi bập bềnh.
Có một giả thiết nữa là mẹ cô đã trở thành ngôi sao Hollywood. Cứ đến chương trình văn nghệ chiều Chủ nhật là Elizabeth lại gí mũi vào tivi, chờ đợi màn biểu diễn ra mắt ngoạn mục của mẹ cô. Nhưng rồi cô cũng mệt mỏi với việc tìm kiếm, hy vọng, tưởng tượng và không được hỏi, vậy là cuối cùng cô không còn băn khoăn nữa.
Cái bóng ở cửa sổ phòng ngủ của cô không hề chuyển động. Thường thì cha cô sẽ chờ cô ở trong vườn. Đã nhiều năm Elizabeth chưa bước chân vào trong nhà. Cô đợi ở ngoài vài phút, và khi không thấy có dấu hiệu nào của cha hay Saoirse thì cô ra khỏi xe, chậm chạp mở cổng, nổi hết da gà khi nghe tiếng bản lề, rồi run run đặt gót giày lên những phiến đá gồ ghề. Cỏ dại bật dậy từ những khe hở để săm soi kẻ lạ mặt đang xâm nhập vào lãnh thổ của chúng.
Elizabeth gõ hai lần lên cánh cửa lốm đốm sơn xanh rồi vội rụt nắm tay lại, xoa xoa như thể nó vừa bị bỏng. Không có tiếng trả lời, tuy nhiên cô biết có người đang ở trong phòng ngủ bên phải. Cô đưa tay ra đẩy cửa. Bên trong tĩnh lặng như tờ, và mùi ẩm mốc quen thuộc của nơi đã từng được cô coi là nhà xộc lên khiến cô ngừng lại một lát. Khi đã quen với những cảm xúc mà cái mùi đó đánh thức trong cô, cô bước vào trong.
Cô hắng giọng. “Xin chào?”
Không có tiếng trả lời.
“Xin chào,” Cô gọi lớn tiếng hơn. Cái giọng người lớn của cô nghe có vẻ lạc lõng trong ngôi nhà tuổi thơ này.
Cô bắt đầu tiến về phía bếp, hy vọng cha cô sẽ nghe thấy và ra gặp cô. Cô không muốn thăm lại phòng ngủ ngày xưa của mình. Tiếng giày cao gót của cô vang lên sàn đá, một tiếng động không quen thuộc khác trong ngôi nhà. Cô nín thở khi bước vào bếp và phòng ăn. Tất cả mọi thứ và không có thứ gì còn nguyên vẹn như xưa. Những mùi đó, chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi, khăn trải bàn viền đăng ten, thảm, chiếc ghế cạnh lò sưởi, ấm trà màu đỏ trên bệ bếp xanh, rèm cửa. Mọi thứ đều ở nguyên tại chỗ của mình, đã cũ đi và bạc màu cùng thời gian, nhưng vẫn thuộc về nơi này. Như thể không có ai sống ở đây từ khi Elizabeth ra đi. Có thể là không ai từng thực sự sống ở đây cả.
Cô đứng một lúc ở giữa phòng, ngắm nghía những vật dụng trang trí, với tay ra định chạm vào chúng nhưng chỉ để ngón tay chần chừ nán lại trên đồ vật. Không có gì xáo trộn. Cô cảm thấy như đang ở trong viện bảo tàng; thậm chí cả tiếng khóc, tiếng cười, tiếng cãi vã và những âm thanh của tình yêu cũng được lưu giữ, lơ lửng trong không trung như khói thuốc.
Cuối cùng cô không chịu nổi nữa; cô cần nói chuyện với cha cô, cần phải tìm ra Saoirse đang ở đâu, và muốn thế cô phải vào phòng ngủ của mình. Cô chậm chạp xoay nắm cửa bằng đồng vẫn lung lay như khi cô còn nhỏ. Cô đẩy cửa mở, không bước vào và không nhìn xung quanh. Cô chỉ nhìn thẳng vào cha cô, người đang ngồi trên chiếc ghế tựa trước cửa sổ, không hề cử động.