Sau đó, phiên tòa xét xử cái chết của người đàn bà bắt cóc đã không được ai nhắc tới. Nó đã bị hoãn lại để chờ cảnh sát xác định lý lịch thủ phạm. Đó là một phụ nữ Ba Lan đã bỏ trốn khỏi đất nước có cái tên là Wanda Polonska.
Sau tấm thảm kịch xảy ra ở vách đá, bà Sprot gần như sống bên ranh giới của sự hoảng loạn. Bà đã được đưa về ngôi nhà Vui Vẻ cùng với Betty. Mọi người chuẩn bị rất nhiều ấm và tách để pha trà, ngoài ra còn có cả một bình rượu Cô-nhắc để động viên người nữ chủ tọa của buổi tối.
Về phần mình, đại úy Haydock ngay lập tức đã liên hệ với các cảnh sát và dẫn họ đến chỗ xảy ra vụ thảm kịch.
Nếu trong thời bình thì những sự việc kiểu này chắc chắn sẽ gây được sự chú ý đối với cánh báo chí. Nhưng các tin tức mới về cuộc chiến đang là mối lo của mọi người nên các nhà báo chỉ dành cho chúng những đoạn tóm tắt ngắn gọn.
Tommy và Tuppence có bổn phận là những người làm chứng cho họ. Nhưng biết đâu những người viết bài phóng sự lại chẳng đề nghị chụp ảnh những người làm chứng. Ông Meadowes buồn phiền với ý nghĩ phải quàng một chiếc khăn che kín gần hết khuôn mặt ông và một chiếc mũ rộng vành hầu như cũng làm mờ hết những nét mặt của bà Blenkensop.
Giờ đây, sự quan tâm của mọi người đổ dồn vào bà Sprot và đại úy Haydock. Ông Sprot sau khi nhận được một bức điện triệu tập gấp đã lập tức có mặt tại ngôi nhà Vui Vẻ, nhưng ngay ngày hôm sau ông đã quay trở về. Mọi người đều hài lòng về con người này nhưng không tôn trọng ông ta lắm.
Về mặt thủ tục, bản trình tự tố tụng mở đầu bằng việc xác định nhân thân người chết, có được từ một phụ nữ tên là Caliont. Đó là một người đàn bà có cặp môi mỏng và cặp mắt sắc, chuyên làm nhiệm vụ giúp đỡ những kẻ chạy trốn.
Theo lời giải thích của bà Caliont thì Wanda Polonska đã đến nước Anh cùng với vợ chồng người anh em họ. Caliont nói bà là người gần gũi duy nhất của chị ta. Theo Caliont thì cô gái Ba Lan này khá trầm cảm. Cô ta đã trải qua một biến cố khủng khiếp – gia đình riêng của cô đều bị giết chết. Là một người đa nghi và trầm mặc, cô ta không bao giờ biểu lộ lòng biết ơn dù là nhỏ nhất đối với người đã cưu mang mình. Bà Caliont đã tìm được cho cô ta một chân giúp việc cho một gia đình nọ. Nhưng cô ta đã tự ý bỏ đi từ nhiều tuần nay mà cảnh sát không được biết.
Viên cảnh sát tư pháp thắc mắc là tại sao vợ chồng người anh chị họ của người chết lại không có mặt ở phiên tòa này. Viên thanh tra Brassey giải thích cho sự vắng mặt này là: chiếu theo điều luật quốc phòng của vương quốc, đôi vợ chồng đó hiện đang bị giam giữ vì đã cố ý dò la tin tức của một đơn vị hải quân. Hai người đã ra trình diện với tư cách là những kẻ chạy trốn để được phép nhập cảnh nhưng ngay sau đó họ lại tìm cách để được làm việc gần căn cứ hải quân đó. Cả gia đình họ hoàn toàn đã bị coi là những kẻ khả nghi. Họ đã chia chác những khoản tiền lớn để rồi bay hơi đi đâu mất. Không có gì để kết tội Wanda Polonska là người chống chiến tranh ngoại trừ lòng tin của mọi người ở là người đàn bà này có những thái độ chống đối nước Anh rất hăng hái. Nhưng cũng không thể kết luận được rằng Polonska là một gián điệp thù địch và cô ta đã lợi dụng cái vẻ đần độn của mình để ngụy trang.
Khi bà Sprot được gọi đến trước vành móng ngựa thì ngay lập tức bà đã giàn giụa nước mắt. Viên cảnh sát tư pháp tỏ ra là người tế nhị khi kiên nhẫn hỏi bà về quá trình diễn ra sự việc.
– Thật là khủng khiếp – Bà Sprot nức nở – Tôi đã giết một người, như thế thì thật là kinh khủng quá. Tôi không muốn hành động như vậy… Tôi muốn nói rằng chưa bao giờ tôi nghĩ đến một việc làm như thế… Nhưng vì Betty… Lúc ấy tôi tin chắc là người đàn bà đó sẽ ném Betty xuống vực cho nên tôi phải tìm cách ngăn cô ta lại… Thế là… thế là, trời ơi! Tôi không hiểu tại sao lại xảy ra như vậy…
– Bà đã từng sử dụng vũ khí?
– Ồ không! Chẳng có gì ngoài những khẩu súng cacbin bày trong những căn nhà gỗ tồi tàn vào những ngày chợ phiên. Vả lại tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ sử dụng đến súng đạn vì bất cứ lý do nào. Lạy Chúa! Tôi đã phạm phải..
Viên cảnh sát vỗ về bà Sprot và muốn biết trước đây bà Sprot có quan hệ gì với người quá cố chưa.
– Ồ, tuyệt đối không ạ! – Bà Sprot trả lời – Cả đời tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy. Tôi nghĩ là cô ấy thật sự điên mất rồi… bởi vì, cô ấy đâu có biết tôi và Betty.
Bà Sprot cho biết một lần bà ta có dự một buổi họp mặt của những người may quần áo phụ nữ nhằm giúp đỡ cho những người Ba Lan chạy trốn. Việc làm này cho thấy thiện cảm của bà Sport với những người có quốc tịch Ba Lan ở nước Anh.
Tiếp đó, đại úy Haydock được gọi đến để thuật lại quá trình truy đuổi kẻ bắt cóc bé Betty.
– Lúc đó anh có chắc chắn rằng người phụ nữ ấy chuẩn bị nhảy từ trên vách đá xuống không? – Người cảnh sát tư pháp hỏi.
– Hoặc là nhảy, hoặc là ném đứa bé đó xuống vực. Mọi người đều nghĩ là người phụ nữ này vì quá hận thù nên đã phát điên. Cô ta không thể nghĩ ra được điều gì sáng suốt hơn. Phải hành động ngay lập tức. Tôi suy nghĩ mãi xem có nên bắn người đàn bà đó không để làm giảm bớt sự bất lực nhưng cô ta cứ giữ chặt đứa bé trong tay làm vật che chắn cho nên tôi sợ sẽ giết cả đứa bé nếu nổ súng. Nhưng bà Sprot đã làm một việc liều lĩnh và đã cứu được cô bé.
Bà Sprot lại bật ra những tiếng nức nở.
Bà Blenkensop xác nhận những lời khai của người đại úy đội tàu hộ tống.
Tiếp theo là ý kiến của ông Meadowes.
– Ông có đồng ý với lời khai của đại úy Haydock và của bà Blenkensop về những gì đã diễn ra không?
– Tôi đồng ý – Tommy trả lời – Người phụ nữ này đã ở trong tình trạng không ai có thể đến gần được. Cô ấy đã ở trong tình cảnh hoặc phải gieo mình xuống vực hoặc ném đứa trẻ xuống.
Còn có thêm lời khai của một số người làm chứng nữa. Cuối cùng nhân viên tư pháp hướng về phía bồi thẩm đoàn chứng minh rằng những việc làm vừa qua cho thấy xét về mặt nào đó thì Wanda Polonska đã chết do bàn tay của bà Sprot trong tình trạng bảo vệ hợp pháp. Không có bằng chứng nào cho phép các nhà điều tra xác định được tình trạng tâm lý của người đã chết. Mọi người cũng không dứt bỏ được ý nghĩ rằng người đàn bà này chưa chịu từ bỏ lòng hận thù đối với nước Anh.
Mặt khác, một số kiện hàng gửi cho những kẻ lưu vong có ghi rõ tên người tặng, giới tính. Biết đâu đây chính là cách để Wanda Polonska biết tên gọi và địa chỉ của bà Sprot. Có điều mọi người không hiểu là vì cớ gì mà Wanda lại bắt cóc đứa trẻ. Mọi người cũng chấp nhận giả thiết cô ta hành động như vậy vì chịu ảnh hưởng của cơn điên. Theo những tin tức điều tra được về Wanda Polonska cho thấy cô ta đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ nặng nề dẫn đến tình trạng thần kinh bị rối loạn. Nhưng cô ta cũng rất có thể là một gián điệp của địch.
Hội đồng xử án đã ra một bản án phù hợp với những kết luận của viên cảnh sát tư pháp.
Sau buổi xử án, bà Blenkensop và ông Meadowes gặp lại nhau để trao đổi những suy nghĩ của họ.
– Wanda Polonska đã ra đi rồi. Giờ, đối thủ trước mắt của chúng ta chỉ còn Jean to lớn. – Tommy buồn rầu nói.
Tuppence gật đầu:
– Phải. Họ đã chặt đứt sợi dây thành hai đoạn, phải thế không? Không một giấy tờ. Không một chỉ dẫn nào cho dù là nhỏ nhất về nguồn gốc số tiền mà cô ấy và các anh chị em của cô ấy đã chia nhau. Và cũng không có một dấu vết gì về những nhân vật đã từng thương lượng làm ăn với cô ấy.
Tommy kêu lên:
– Em biết đấy, anh không thích những tình huống này.
Tuppence lặng im nhưng những gì vừa xảy ra khó có thể làm yên lòng chị.
Quân đội Pháp vừa chiến đấu vừa rút lui. Khả năng tiến hành phản công là rất mơ hồ. Người ta đã hoàn thành xong kế hoạch cho Dunkerque sơ tán. Rõ ràng là việc nhảy dù xuống Paris chỉ là vấn đề tính bằng ngày. Ai cũng hốt hoảng. Ai cũng phát hiện thấy rằng đất nước họ không có lực lượng, không có những trang bị chống chọi được với những đơn vị xe tăng thiết giáp ào ạt của người Đức.
– Phải chăng nó xuất phát từ tình trạng lộn xộn và những thói quen uể oải của chúng ta? – Tommy hỏi – Hay là sau tất cả những hiện tượng đó là một âm mưu được tính toán cẩn thận?
– Có một kế hoạch, em tin là như vậy. Nhưng không bao giờ, không một ai có thể chứng thực được điều đó.
– Em nói có lý. Những thủ trưởng của chúng ta lại quá khôn ngoan.
– Đang chuẩn bị vét đi hết những thứ thối tha này đấy.
– Ồ! Người ta đặt hy vọng vào những con người sáng suốt nhất, nhưng chẳng bao giờ anh tin chúng ta sẽ tóm cổ được những cái đầu đang nghĩ đến chuyện vui chơi nhảy múa. Những bộ óc, một tổ chức, một kế hoạch được tính toán chi ly – một kế hoạch làm lợi cho những lần tránh né ngu ngốc của chúng ta, cho những chuyện cãi cọ bẩn thỉu của chúng ta, hay cho chủ nghĩa án binh bất động của chúng ta.
– Chính vì thế mà chúng ta có mặt ở đây. Và chúng ta cần phải có được kết quả.
– Chúng ta đã có tiến bộ.
– Vâng. Karl Von Deinim và Wanda Polonska. Những đối thủ loại hai.
– Em nghĩ là họ cùng hợp tác với nhau à?
– Chắc hẳn là phải như vậy – Tuppence vẻ mặt tư lự – Anh có nhớ là em đã từng nhìn thấy họ nói chuyện với nhau.
– Vậy thì Karl Von Deinim phải là người đã tổ chức việc bắt cóc Betty?
– Vâng, em nghĩ là như vậy.
– Vậy thì tại sao?
– Em hiểu lắm chứ… Lúc nào em cũng suy nghĩ về chuyện này. Nó sẽ không dừng lại tại đây đâu.
– Tại sao cô bé đó lại bị bắt cóc? Những người nhà Sprot đó không có nhiều tiền, có nghĩa là động cơ bắt cóc không phải vì tiền chuộc. Và không một kẻ nào trong hai người này được nhà nước tuyển dụng.
– Em biết, Tommy. Đây là một chuyện cực kỳ khó hiểu.
– Thế bà Sprot đã nghĩ gì?
– Người phụ nữ này – Tuppence gằn giọng – có bộ óc không lớn hơn bộ óc của một con chim sẻ. Bà ta thực sự không có khả năng suy nghĩ. Bà ta cho rằng đây chỉ là một những kẻ thích làm những việc ám muội để gieo rắc nỗi sợ hãi của bọn Đức.
– Ngốc nghếch quá! Những người Đức đâu phải là những kẻ thích đùa vô duyên. Khi phái một trong những tên điệp viên đi làm cái chuyện bắt cóc cô bé này thì họ đã có một lý do chính đáng.
– Anh này, em có cảm tưởng rằng bà Sprot có thể nói cho chúng ta biết lý do vụ bắt cóc này. Chỉ cần bà ta suy nghĩ một cách nghiêm túc. Ở đây phải có một chuyện gì đó – một sự cảnh cáo chẳng hạn nhưng bà ta đã vô tình bỏ qua.
– Đừng nói gì cả. Em hãy chờ những lời chỉ dẫn cho chúng ta – Tommy vừa nhắc nhở vợ vừa đọc những lời nhắn tìm thấy trong căn phòng của bà Sprot – Anh tin chắc sự kiện này có điều gì đó không bình thường!
– Đúng quá rồi. Những gì mà em tưởng tượng là thượng đế đã nói cho người phụ nữ kia biết về bà Sprot và cô con gái nhỏ bé của bà ta. Có lẽ đúng là như vậy vì họ là những người không làm điều gì khiến người khác phải chú ý đến.
– Đây cũng là một ý tưởng hay.
– Em biết. Nhưng dù sao đây cũng là một câu chuyện gián điệp quá lãng mạn. Nó không có vẻ gì là thực.
– Em chẳng đã yêu cầu bà Sprot cần phải cố gắng suy nghĩ đấy sao?
– Vâng, vấn đề mà bà ta quan tâm ở đây là giành lại Betty. Và bà ta đang trải qua cơn khủng hoảng cuồng loạn vì đã giết chết một người.
– Phụ nữ là những sinh linh kỳ lạ – Tommy thở dài nói – Vậy là chúng ta đã nhìn thấy một người trong số họ phản ứng như một người mắc bệnh điên khao khát được trả thù, một người có khả năng đánh tan được cả một trung đoàn được trang bị đến tận răng… Và khi thấy mình đã cướp đi một mạng sống trong một tình huống không thể tin được thì lại không ngừng khóc lóc.
– Viên cảnh sát tư pháp đã miễn truy tố bà ta rồi mà.
– Đương nhiên là như vậy. Lạy Chúa, anh sẽ không bao giờ dám bắn liều lĩnh như vậy!
– Chắc bà ta cũng không hơn gì đâu nếu biết rằng mình đã hành động như thế nào – Tuppence bình luận – Bởi vì bà ấy chưa từng biết đến một tình huống khó khăn nào nên đã không hề lưỡng lự giơ súng bắn Wanda.
– Như kinh thánh ấy. David và Goliath…
– Ồ! – Tuppence kêu lên.
– Có chuyện gì đã xảy ra rồi phải không bà già của tôi?
– Em không biết. Có một ý chợt nảy ra trong đầu, vậy mà vào lúc này em không biết đó là chuyện gì.
– Chuyện đó nhắc chúng ta phải hết sức khẩn trương.
– Đừng tự chế giễu mình như vậy. Đó là những sự kiện sẽ xảy ra.
– Em nghĩ đến những người bắn hú họa à?
– Không, đó là… Chờ tý đã… Em tin rằng đây là vấn đề của nhà vua Salomon [1].
– Những cây thông bá hương ở Liban, những đền đài, một đám đồng những người vợ và đã là vợ mà chưa cưới xin…
– Ôi, dừng lại nào! – Tuppence hét lên, đồng thời chị bịt tai lại – Anh đã làm em rối trí đây này.
– Những người Do Thái? – Tommy nhắc lại – Những tộc người Do Thái ư?
Nhưng Tuppence lắc đầu. Một lúc sau chị mới nói:
– Em chợt nghĩ tới một người từ người phụ nữ đó.
– Em muốn nói tới Wanda Polonska?
– Vâng. Lần đầu tiên khi nhìn thấy cô ấy em đã cảm thấy quen quen.
– Em nghĩ là mình đã từng gặp cô ta?
– Không. Gặp thì chắc chắn là không rồi.
– Bà Perenna và Sheila là những kiểu người khác nhau.
– Không phải là em đang nghĩ đến những người phụ nữ đó. Anh có biết là em đang nghĩ về chuyện gì không?
– Vậy em đang nghĩ tới chuyện gì nào?
– Em không biết. Nhưng lời nhắn gửi mà bà Sprot đã tìm thấy ở trong phòng của mình khi bé Betty bị bắt cóc ấy…
– Này em? – Tommy ngắt lời vợ.
– Cả bức thư buộc vào một hòn sỏi rồi ném qua của sổ cũng chỉ là một chuyện tầm phào vớ vẩn. Trên thực tế, nó đã được một kẻ nào đó sắp đặt… Em đoan chẳc với anh rằng chính bà Perenna đã sắp xếp như vậy.
– Bà Perenna, Kari, Wanda Polonska… Cả ba con người này đều là những bộ phận hợp thành một mang lưới.
– Đúng thế. Phải chăng anh đã nhận định là bà Perenna thực sự đã có mặt đúng lúc, tự mình hành động và quyết định tất cả mọi việc chỉ trừ có mỗi việc là gọi cảnh sát? Trên thực tế, bà ta chính là người điều khiển các phép màu.
– Nói cách khác, bà ta là ứng cử viên cho nhân vật “M” của em chứ gì?
– Phải. Chứ không phải là của anh à?
– Ta cần phải đánh giá đúng. – Tommy do dự.
– Này Tommy, anh có suy nghĩ khác phải không?
– Phải. Nhưng đây hoàn toàn là một ý tưởng ngu xuẩn.
– Vậy anh nói đi nào!
– Không, anh không thích. Anh không có cơ sở nào chắc chắn. Không có gì hết. Nhưng nếu anh không nhầm thì “M” không phải là người đã chống lại chúng ta. Mà phải là “N”.
Vẻ mặt trầm tư, anh nói tiếp:
– Bletchley. Cái tay này mới thật là tuyệt. Mà tại sao lại không nhỉ? Hắn ta mới có cái vẻ đáng ngờ thực sự và khi vụ bắt cóc xảy ra chính hắn lại là người đầu tiên muốn gọi cảnh sát. Đúng vậy, nhưng hắn lại đoán rằng người mẹ của đứa bé sẽ không đồng ý. Những lời nhắn đe dọa kia khiến cho hắn ta tin chắc như vậy. Hắn có thể tự cho phép mình trở thành một luật sư của quỷ…
Nhưng chuyện đó đã đưa tới một câu hỏi làm hắn thấy khó chịu, vì nó chọc tức hắn. Cho nên đến tận bây giờ hắn vẫn không thể trả lời được câu hỏi: Tại sao Betty Sprot lại bị bắt cóc?
Chiếc xe ô-tô mang dòng chữ “cảnh sát” dừng lại trước ngôi nhà Vui Vẻ. Đang bị phân tán tư tưởng nên Tuppence chẳng chú ý gì đến nó. Chị chạy dọc lối đi, vượt qua phòng khách mênh mông rồi lên cầu thang, đi thẳng vào buồng của mình. Nhưng chị bỗng sững sờ dừng chân ngay trước ngưỡng cửa: một bóng người cao lớn hiện ra sừng sững trước cửa sổ đang quay lại nhìn chị:
– Lạy Chúa! – Tuppence kêu lên – Là cô đấy à, Sheila?
Cô gái trẻ đi thẳng tới chỗ Tuppence. Tuppence lúc này đã nhận thấy đôi mắt long lanh của cô gái trên khuôn mặt tái xanh đau đớn.
– Tôi rất vui vi bà đã về – Sheila nói – Tôi đang chờ bà.
– Có chuyện gì thế?
Giọng nói của cô gái trẻ đầy xúc động:
– Karl đã bị người ta bắt giữ rồi!
– Cảnh sát ư?
– Vâng.
– Xin Chúa ban phước…
Tuppence cố giữ một cảm xúc bình thản trong tình huống như thế này. Giọng nói của Sheila liệu có thể bình tĩnh được như vậy không, Tuppence không biết được điều gì đang ẩn giấu trong sự bình tĩnh đó. Có đúng là hai người này đã tham gia trong âm mưu gián điệp đó. Người con gái trẻ kia có yêu Kari Von Deinim thật không. Tuppence cảm thấy lòng mình se lại vì sự thương cảm với nạn nhân của tấn bi kịch này.
– Tôi có thể làm được gì đây? – Sheila hỏi.
Nghe một câu hỏi đơn giản như vậy, Tuppence rùng mình, lúng túng. Chị chỉ còn biết nói khẽ:
– Cầu Chúa…
– Họ đã đưa anh ấy đi rồi. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn thấy anh ấy nữa – Giọng nói của Sheila bỗng trở nên căng thẳng – Tôi sẽ phải làm gì bây giờ? Tôi có khả năng làm được việc gì?
Sheila quỳ xuống chân giường, nước mắt đầm đìa.
Tuppence dịu dàng vuốt mái tóc sẫm màu của cô ta rồi thầm thì:
– Có thể… có thể đây không phải là sự thật. Có lẽ họ sẽ chỉ nhốt anh ấy lại thôi mà. Chung quy là vì đất nước của anh ấy đang có chiến tranh với đất nước chúng ta.
– Chẳng phải như họ đã nói đấy sao. Căn phòng của anh ấy đang bị khám xét.
– Nếu như họ không tìm thấy gì cả…
– Chắc chắn là họ sẽ không tìm thấy gì hết! Mà họ muốn tìm thấy cái gì ở đó chứ?
– Tôi không biết.
– Nhưng tôi nghĩ là bà có thể hiểu được chuyện gì đấy.
– Tôi?
Cơn giận dữ của Sheila, trạng thái sững sờ của cô đều rất chân thật. Mọi sự nghi ngờ từ trước đến giờ của Tuppence từng ấp ủ chống lại cô sẽ được làm sáng tỏ vào lúc này đây. Sheila không biết gì hết. Không bao giờ cô gái này biết được điều gì. Tuppence nói:
– Nếu anh ta vô tội…
– Có thể thay đổi được gì đây? – Sheila ngắt lời – Dù sao đi nữa, cảnh sát cũng sẽ lập hồ sơ buộc tội anh ấy.
– Không được nói những điều ngu ngốc – Tuppence mắng cô gái – Giả thiết của cô thật là lố bịch.
– Cảnh sát Anh luôn hành động theo ý thích của họ. Mẹ tôi đã từng khẳng định như vậy.
– Có thể đó là lời khẳng định của mẹ cô. Nhưng bà ấy đã nhầm. Tôi cam đoan với cô rằng sự việc sẽ không diễn ra như vậy đâu.
Sheila có vẻ hoài nghi, không nói gì cả. Cuối cùng cô nói:
– Thế thì tốt quá. Tôi tin tưởng ở bà.
Một thoáng khó chịu trong người Tuppence.
– Cô rất dễ thỏa mãn với lòng tin của mình, Sheila ạ – Tuppence lạnh lùng trả lời – Và biết đâu cô chẳng mắc phải sai lầm khi tin tưởng ở Karl.
– Vậy là cả bà nữa, bà cũng chống lại anh ấy ư? Tôi đã tin rằng bà rất mến anh ấy! Bản thân anh ấy cũng tin như vậy.
Những gì liên quan đến các bạn trẻ – lòng tin vào sự quyến luyến đối với một con người. Mà đây lại là sự thật: cô gái đã chứng thực tình cảm trìu mến của mình với Karl. Và cô còn rất yêu anh ta nữa.
– Sheila này, cô hãy nghe tôi nói đây – Tuppence nhẹ nhàng nói – cho dù người ta có yêu nhiều thế nào đi nữa thì cũng chẳng nhìn thấy hết những sự việc. Đất nước này đang có chiến tranh với nước Đức. Có biết bao nhiểu cách để phục vụ Tổ quốc của mình. Một trong những cách đó là dựa vào những sự hướng dẫn nhận được… là làm việc đằng sau những đường biên giới. Việc làm này đòi hỏi lòng can đảm. Bởi vì một khi người ta đã chịu chấp nhận, thì đấy là… – Giọng nói của Tuppence như vỡ ra – Đấy là hết.
– Bà tin rằng Karl…
– Có thể phục vụ đất nước của mình như thế? Không thể được phải không?
– Chắc là như vậy. Không thể được đâu!
– Cô phải hiểu là anh ta đã đến được đây và sống qua ngày ở đây như một kẻ lưu vong, đóng vai kẻ chống Quốc xã cuồng tín và thu thập những thông tin.
– Sai rồi – Sheila phản đối nhẹ nhàng – Tôi biết trái tim và tâm hồn của anh ấy. Điều làm cho anh ấy thích thú là khoa học, là công việc – để có niềm vui là khám phá. Anh ấy biết ơn nước Anh đã cho phép anh ấy được làm việc ở đây. Đôi khi anh ấy cảm nhận theo đúng kiểu một người Đức và thấy đau khổ khi nghe được những lời bình luận ngu xuẩn của một số người. Nhưng anh ấy ghét cay ghét đắng bọn Quốc xã. Lúc nào cũng vậy, anh ấy căm thù hệ tư tưởng của họ đã đi ngược lại tinh thần tự do.
– Tất nhiên đấy là lời anh ấy nói.
Sheila nhìn chị đầy oán trách:
– Vậy là bà đã tin rằng anh ấy là một gián điệp phải không?
Tuppence do dự:
– Dù sao đây cũng là một giả thiết.
Sheila đứng dậy và bước tới cánh cửa:
– Tôi đã hiểu. Tôi thực sự lấy làm tiếc vì đã tới đây để cầu xin bà giúp đỡ chúng tôi.
– Nhưng điều gì khiến cô nghĩ rằng tôi có thể giúp cô được?
– Bà biết nhiều người. Những người con trai của bà đang phục vụ trong quân đội và hải quân. Tôi được nghe không dưới một lần rằng họ có những mối quan hệ với những người có ảnh hưởng. Vì thế tôi mới nghĩ rằng bà có thể vêu cầu họ… làm được một việc gì đó.
Tuppence nhất trí sẽ dành thời gian để nghĩ tới ba người con trai lý tưởng của mình – Douglas và Raymond rồi cả Cyril nữa…
– Tôi rất tiếc – Chị nói – chúng chẳng giúp được gì đâu.
Sheila ngẩng đầu lên một cách bất ngờ:
– Vậy là chúng tôi chẳng còn chút hy vọng nào. Họ sẽ đưa anh ấy đi, nhốt anh ấy vào nhà tù. Rồi đến một hôm, vào một buổi sáng tinh mơ, họ sẽ đẩy anh ấy đứng sát vào tường rồi nổ súng vào người anh ấy. Thế là kết thúc.
Cô gái vùng bỏ chạy như một cơn bão sau khi đóng sập cánh cửa lại sau lưng.
Đáng nguyền rủa thay những đứa con Ailen xấu xa của Chúa! – Tuppence mơ màng suy nghĩ, những suy nghĩ đầy mâu thuẫn giày vò lòng chị. Tại sao họ lại có được cái quyền làm rối tung hết cả lên đến nỗi đầu óc cũng phải lộn tùng phèo! Nếu Karl Von Deinim là một gián điệp thì đáng phải xử bắn lắm, một phát đạn là đủ. Không có lối thoát nào khác. “Tôi sẽ không để cho con cá này độc tấu cây đàn hạc Ailen để mê hoặc tôi và để làm cho tôi tin vào cái số phận bi thảm của một nhân vật anh hùng tử vì đạo!”
Trong trí nhớ của chị còn vang lên giọng nói của người nữ nghệ sĩ nổi tiếng đọc một câu thơ trong bài Những kỵ sĩ đến từ biển cả.
“Đó là thời gian của thần thánh trong sự an nghỉ vĩnh hằng mà đến phút chót họ mới nhận ra…”
Thật là thống thiết…
– Nếu chuyện đó không phải là thực – Chị thì thầm – Nếu đúng đó không phải là thật.
Mặc kệ! Nhưng tại sao sao chị lại có thể nảy sinh lòng ngờ vực Karl được nhỉ?
Người câu cá đã có mặt ở cuối con đê chắn sóng cổ. Ông ta đang rút dây câu về và cẩn thận cuộn nó lại.
– Thật sự không có gì đáng để nghi ngờ? – Người câu cá hỏi.
– Ông biết không – Tommy trả lời – chuyện này làm tôi thấy ngao ngán. Đây là… đây là một chàng trai dễ mến.
– Anh bạn thân mến, nói chung, tất cả bọn họ đều phải tỏ ra như thế cả. Đây không phải là những kẻ hèn nhát và tự nguyện thực thi nhiệm vụ trên lãnh thổ của kẻ thù. Đây là những con người can đảm. Chúng ta đã biết họ từ lâu. Nhưng trong chiến dịch này, chúng ta cần phải có mọi bằng chứng.
– “Không có gì đáng để nghi ngờ”, ông đã nói với tôi như vậy?
– Phải, anh thấy không có gì đáng để nghi ngờ thật à? Giữa những công thức hóa học của Karl, chúng tôi tìm thấy danh sách những người được tuyển dụng vào nhà máy đà từng tiếp xúc với anh ta. Sự thật là thế đấy. Họ đều được coi như những người có cảm tình với bọn phát xít. Còn có cả một kế hoạch phá hoại rất tinh vi – công thức chế tạo ra chất phân bón có khả năng phá hoại cả một vùng đất nông nghiệp rộng lớn. Và anh bạn Karl của chúng ta phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kế hoạch này.
– Tôi cho rằng mọi người nên xem xét giả thuyết những tài liệu nguy hiểm đó là của một nhân vật khác.
Ngài Grant liền nở nụ cười cay độc:
– Ý kiến này là của vợ anh phải không? Tôi đoán như thế.
– Ơ… ờ… Phải… Vâng, về cơ bản là ý của cô ấy.
– Anh là một người chồng tốt – Ngài Grant dịu giọng như để tha thứ – Nhưng, cần phải nghiêm túc hơn. Đây là một giả thuyết mà chúng ta không thể chấp nhận được. Anh biết không, anh ta cũng có một ít mực bí mật được giấu rất cẩn thận. Chẳng phải người ta muốn chụp một chiếc mũ lên đầu anh ta đâu. Họ chẳng tìm thấy gì hết ngoài một chiếc binh ở trong phòng tắm có dán mẩu giấy hướng dẫn sử dụng “làm theo các quy định của thầy thuốc điều trị”. Karl quả là một tay cực kỳ ranh mãnh. Đây là một phương pháp mà trước đây tôi chưa từng được biết đến, và vấn đề lại là ở chỗ những chiếc cúc áo gilê. Anh biết không, nguyên liệu đã được tẩm sẵn rồi. Khi cần dùng loại mực này thì người ta chỉ cần nhúng chiếc cúc áo vào nước là đủ. Trong trường hợp của Karl Von Deinim thì không phải là những chiếc cúc áo mà là một sợi dây giầy. Thật không thể chê vào đâu được, đúng không?
Trong óc Tommy bỗng lóe lên một thứ ánh sáng mơ hồ… Không rõ ràng…
Bản thân Tuppence đã không chịu bỏ qua những điều phỏng đoán. Khi Tommy vừa thuật lại cho chị nghe câu chuyện với Grant thì chị đã nhảy bật lên:
– Một sợi dây giầy ư? Nhưng mà anh Tommy ơi, nó đã giải thích hết mọi chuyện rồi!
– Giải thích cái gì nhỉ?
– Betty, con bé ngớ ngẩn đó! Anh không nhớ những trò ngốc nghếch mà nó đã làm trong phòng của em à. Nó lấy những sợi dây giầy của em thả vào cốc nước. Vào lúc đó, em đã phát hiện thấy con bé này có một sự tưởng tượng nào đó. Rõ ràng là nó đã nhìn thấy Karl làm như vậy và bắt chước anh ta. Anh ta không muốn mạo hiểm nên đã thu xếp với người phụ nữ để chị ta có thể làm cho đứa bé biến mất.
– Anh hiểu rồi. Mọi việc đều đã rõ.
– Đúng vậy. Rất thoải mái khi người ta bắt đầu lại trò chơi ghép hình, cuối cùng người ta cũng có thể xếp vào hồ sơ những gì đã làm được trước đây để chuyển sang một vấn đề khác và đi tiếp.
– Đi tiếp? Chúng ta đang làm thế đấy thôi.
Tuppence lắc đầu.
– Ngày tháng trôi qua, tình hình mỗi lúc một khó khăn. Điều bất ngờ chung của mọi người là nước Pháp đã bị chiếm đóng trong sự hoài nghi và buồn phiền của những người dân Pháp.
Mọi người không biết tin tức gì về số phận hạm đội của Đô đốc Darlan [2]?
Bờ biển nước Pháp đã hoàn toàn rơi vào tay người Đức Còn việc xâm lược nước Anh giờ đây chỉ còn là vấn đề thời gian.
– Karl Von Deinim chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ dây xích mà thôi – Tommy nói – Chính bà Perenna mới là đầu não của cái mạng lưới này.
– Đúng vậy. Cần phải tóm cổ bà ta ngay. Nhưng làm được chuyện đó sẽ không phải là dễ.
– Chắc hẳn là không dễ rồi. Nếu bà ta là người chỉ huy mọi công việc thì bà ta không dễ dàng để cho người ta tóm cổ đâu.
– Vậy thì bà Perenna phải chăng là nhân vật mang bí danh “M”?
Tommy tin là như vậy. Anh hạ giọng cho bớt căng thẳng:
– Có phải em cho rằng bà ta không dính dáng gì đến câu chuyện này?
– Em quả quyết là như vậy.
– Thôi được – Tommy thở dài – Em phải biết chuyện đó rõ hơn anh. Nếu không thì cô Sheila đó thực sự không gặp may mắn rồi. Trước hết là người mà cô ta yêu và bây giờ là bà mẹ của cô ta. Điều này buộc chúng ta phải tìm hiểu xem cô ấy là ai.
– Anh lại lải nhải rồi, Tommy! – Tuppence nhăn mặt – Anh có chắc là cô gái ấy vô can không?
– Em nói bóng gió gì đấy?
– Sheila Perenna…
– Em không thấy là mình hơi lố bịch ư Tuppence?
– Chẳng tý nào! Cô ta đã làm cho anh rối rít lên rồi, giống như một người đẹp tự nguyện tìm đến với một ông già vậy…
– Không bao giờ có chuyện ấy! – Tommy giận dữ cắt ngang – Nhưng dẫu sao anh cũng phải có suy nghĩ riêng của mình chứ!…
– Là những suy nghĩ gì?
– Vào lúc này, anh tin rằng tốt nhất là nên bảo lưu những ý nghĩ đó. Rồi chúng ta sẽ thấy rõ khi thời cơ đến.
– Hay lắm… Trong khi chờ đợi thì điều chúng ta nên làm là phải lần cho ra dấu vết của bà Perenna đã. Chúng ta cần để ý tới đường đi lối lại của bà ấy, và cả những cuộc gặp gỡ của bà ấy – nghĩa là mọi thứ liên quan đến bà ấy. Chúng ta đã dần tìm ra con đường dẫn chúng ta đến đích. Anh sẽ không lầm khi bố trí Albert ở trên ấy ngay sau chiều hôm nay.
– Em giao nhiệm vụ cho anh đấy à? Anh sẵn sàng thực hiện.
– Thế thì làm đi nào! Anh định xây dựng kế hoạch như thế nào?
– Anh sẽ chơi golf. – Tommy trả lời.
Chú thích:
[1] Nhà vua thứ ba của người Do Thái xưa (năm 970-931 trước Công nguyên), con trai và là người kế vị của David. Dưới thời trị vì của Salomon, ông đã làm cho vương triều của cha mình trở nên hùng mạnh. Nhà nước Do Thái nổi tiếng ở sự thịnh vượng của mình là dựa trên nền thương mại phát triển (di sản có một không hai của thời trị vì này là Đền thờ Jerusalem). Sự nổi dậy của những bộ tộc chống đối nhau ở miền Bắc và miền Nam đã dẫn đến cái chết của vua Salomon, cùng với sự chia tách của vương triều và sự hình thành của hai nhà nước: vương triều Juda và vương triều Israel.
[2] Người chỉ huy hạm đội (1939-1940), Bộ trưởng Bộ Hàng hải, được Thống chế Pétain chỉ định làm người kế vị (1940-1942). Darlan tiến hành đường lối chính trị là tích cực hợp tác với nước Đức. Darlan đã có mặt ở Bắc Phi khi liên minh vào năm 1942 và ký kết một thỏa hiệp với người Mỹ năm 1942. Ngày 29 tháng 12 năm 1942, Darlan bị mưu sát chết.