Sau một thời gian dài bất tỉnh, Tommy dần dần cũng đã nhận thức được một quả cầu lửa cứ lớn dần lên và đang đung đưa trong khoảng không. Những cơn sóng đau đớn từ lõi của quả cầu này cứ lan tỏa ra mãi. Sau đó cả vũ trụ như thu hẹp lại, quả cầu lửa cũng đung đưa chậm chạp hơn… Ngay lập tức, anh hiểu ra chính cái đầu của anh là hạt nhân của sự đau đớn này.
Dần dần anh còn nhận ra những cảm giác khác nữa: cái lạnh xiết lấy chân tay anh làm chúng bị tê dại, rồi cái đói và đôi môi của anh không thể mấp máy được nữa.
Quả cầu lửa đung đưa ngày càng chậm dần. Đầu của Tommy Beresford đang đặt trên một vật gì đó rắn lắm. Cực kỳ rắn. Có lẽ đó là một tảng đá, không nghi ngờ gì nữa.
Đúng vậy, Tommy đang nằm ngủ trên một tảng đá. Toàn thân anh đau đớn, người cứng đờ và rét cóng, bụng đói lả. Những chiếc giường ở nhà bà Perenna không bao giờ được coi là mềm mại, nhưng vẫn còn tốt hơn rất nhiều so với phiến đá anh đang nằm…
Và rồi khuôn mặt của Haydock… lại trở về với anh! Tên đầy tớ Đức kia và cả cái máy thu phát nữa! Sự quay lại của hắn, những chấn song sắt và khu vườn của ngôi nhà Vui Vẻ…
Có người nào đó đã lén đến sau lưng anh và giáng cho anh một đòn chí mạng. Chính đây là lý do giải thích tại sao đầu của anh lại đau đến thế…
Haydock? Nhưng Haydock đã trở lại nơi nghỉ chân của tên buôn lậu, rồi đóng cửa lại. Làm sao hắn xuống được chân đồi và giăng bẫy phục kích anh trong khu vườn của ngôi nhà Vui Vẻ?
Đây là một chuyện khó có thể giải thích được. Nhưng Tommy linh cảm chính ông ta là thủ phạm.
Còn tên đầy tớ của Haydock thì sao? Haydock có thể đã giao nhiệm vụ cho hắn ẩn nấp trong khu vườn rồi chờ cho đến khi anh quay lại. Nhưng Tommy nhớ lúc đó anh đã nhìn thấy Appledore bận rộn trong bếp như thế nào. Liệu anh có phải là nạn nhân của một ảo giác không? Chắc đây chính là lời giải thích.
Trong khu nhà ở thì những chuyện mất tích như thế này có ý nghĩa quan trọng tức thì. Lúc này, anh cần phải biết mình đang ở đâu.
Nhãn quan của anh sau khi được điều chỉnh trong bóng tối đã bám vào một ánh sáng hình chữ nhật màu lục. Một cánh cửa nho nhỏ hay một cửa sổ có những lỗ thủng. Anh cảm thấy không khí có mùi ẩm ướt và mốc meo. Tommy cho rằng mình đang nằm ngủ trong một cái hang. Chân tay anh đã bị trói chặt. Một mảnh giẻ được nhét vào miệng và nằm yên trong đấy bởi một đoạn băng dính. Nói thế nào được khi mình sống trong cảnh dễ chịu như thế này – Tommy nghĩ như vậy.
Anh thận trọng thử cử động chân tay nhưng không có kết quả.
Ngay lúc đó anh nghe thấy có tiếng động lạch cạch của cánh cửa xoay rất nhẹ trên tấm bản lề. Một người bước vào cùng với một cây nến rồi đặt nó xuống đất. Tommy nhận ra đó là Appledore. Anh ta lại biến đi đâu mất, lát sau quay lại đem theo một chiếc khay trên đó đặt một bình nước, một cái cốc, một ít bánh mì và pho mát.
Appledore quỳ xuống, kiểm tra xem các dây trói người tù nhân còn chắc không rồi đặt tay vào mảnh giẻ.
– Tôi đang chuẩn bị tháo bỏ mảnh giẻ cho anh đây – Bằng một giọng bình thản anh ta thông báo – Anh có thể ăn và uống. Nhưng tôi sẽ gắn răng anh lại ngay lập tức nếu anh nói ra dù chỉ một từ thôi.
Tommy muốn gật đầu để ra hiệu sự đồng ý nhưng không được. Nên đành khẽ chớp chớp mi mắt.
Appledore có vẻ như đã hiểu ý và bắt đầu tháo miếng băng dính với những động tác rất tỉ mỉ.
Cuối cùng anh đã mở miệng ra được. Tommy bắt đầu đưa đẩy quai hàm về mọi phía đã bị cứng khớp. Appledore đưa cốc nước sát vào môi anh. Lúc đầu Tommy thấy hơi khó nuốt. Sau đó anh thấy dễ dàng hơn. Nước đã làm anh thấy dễ chịu hơn.
– Như thế này là dễ chịu hơn rồi – Anh nói bằng giọng khàn khàn – Vào lúc này tôi nhận ra mình chưa đến hai mươi tuổi. Chúng ta đã qua cái thời trai trẻ rồi đúng không Fritz?… Hay gọi anh là Franz?
– Ở đây tên tôi là Appledore. – Người đàn ông lạnh lùng nói.
Anh ta cầm lát bánh đã phết pho mát đưa vào miệng anh. Anh ngấu nghiến cắn.
Một cốc nước nữa được đưa vào miệng anh.
– Chương trình tiếp theo là gì? – Tommy hỏi.
Thay cho một câu trả lời dứt khoát, Appledore nắm chặt lấy mảnh giẻ.
– Tôi muốn gặp đại úy Haydock – Tommy vội vã nói ngay.
Appledore lắc đầu. Hắn khéo léo nhét mảnh giẻ lại như cũ rồi đi mất.
Còn lại một mình, anh suy nghĩ trong bóng tối. Anh nhanh chóng chìm trong một giấc ngủ không êm ái và lại tỉnh dậy bởi tiếng kẹt cửa. Lần này là Haydock cùng đến với Appledore. Mảnh giẻ đã được bỏ ra, và những dây trói hai tay Tommy cũng đã được nới rộng để anh có thể ngồi thoải mái được một chút.
Haydock cầm trong tay một khẩu súng lục tự động.
Kết quả của thái độ mơn trớn đó chẳng đem lại một chút tin tưởng nào cho Tommy nên anh quyết định nhập vai diễn đến cùng.
– Này, Haydock, thế này là thế nào? – Tommy tỏ ra phẫn nộ – Người ta nhảy bổ vào tôi, rồi bắt giữ…
Viên đại úy nhẹ nhàng lay vai người lãnh đạo:
– Đừng lãng phí nước bọt của mình làm gì. Làm như thế chỉ uổng công thôi.
– Dẫu sao anh cũng cần phải biết rằng trách nhiệm trước những nhiệm vụ bí mật của chúng tôi không cho anh cái quyền được…
Nhưng Haydock vẫn tiếp tục lắc đầu:
– Không, không, Meadowes. Anh chẳng tin gì vào câu chuyện của tôi cả. Thật vô ích khi mà anh cứ bướng bỉnh như vậy.
Nhưng Tommy không hề tỏ ra nao núng:
– Thật là gớm ghiếc, vì ai mà anh phải đóng cái vở kịch này vậy? – Tommy tuôn ra một thôi hồi – Cho dù anh có những đặc quyền như thế nào đi nữa thì cũng không được phép đối xử với tôi như thế này! Tôi hoàn toàn có khả năng giữ mồm giữ miệng khi những điều bí mật trong công tác phòng thủ của chúng tôi đều có liên can cả.
Nhưng Haydock đã bình tĩnh trả lời:
– Anh đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách rất tuyệt vời nhưng tôi có thể nói cho anh biết là tôi hoàn toàn dửng dưng với chuyện đó. Tôi đâu biết là anh thuộc những đơn vị làm nhiệm vụ đặc biệt của nước Anh hay anh chỉ là một tên tài tử phá rối mà thôi.
– Nhưng mà, mẹ kiếp…
– Thôi đi, Meadowes.
– Tôi nói với anh là…
Cơn giận dữ đã làm cho những nét mặt của người đại úy trở nên méo xệch:
– Thôi đi nào! Lát nữa thôi, tôi sẽ có cách để biết được anh là ai và ai đã phái anh tới đây. Nhưng bây giờ, chuyện đó chẳng quan trọng gì hết. Anh làm gì còn thời gian nữa. Và tôi biết dù sao đi nữa anh cũng chẳng còn có cơ hội để báo cáo về những điều mà anh đã phát hiện được.
– Cảnh sát sẽ đi tìm tôi ngay sau khi người ta phát đi tín hiệu cho họ biết về sự mất tích của tôi.
Một nụ cười thâm hiểm xuất hiện trên khuôn mặt Haydock.
– Cảnh sát đã có mặt ở đây rồi, vào tối hôm qua đấy. Những con người can đảm. Cả hai người này đều là bạn của tôi. Họ đặt ra vô khối câu hỏi và tỏ ra rất lo lắng về anh. Họ muốn biết thái độ của người mà anh đã phát hiện được sẽ như thế nào. Nhưng hiển nhiên là hai người cảnh sát này đã không bao giờ nghĩ ra người đàn ông mà họ đang đi tìm kiếm lại đang ở ngay dưới chân của họ. Có một điều hiển nhiên đối với mọi người là anh đã rời khỏi căn nhà này trong tình trạng sức khỏe rất dồi dào. Và cũng chẳng có ai nghĩ đến việc sẽ đến đây để tìm anh.
– Anh chẳng thể giữ tôi ở đây mãi được! – Tommy tỏ ra rất tức giận.
Ngay tức khắc, Haydock tìm được một lối nói rất phổ biến của người Anh:
– Sẽ không cần phải làm việc đó nữa đâu, anh bạn thân mến của tôi ạ. Chúng tôi chỉ giam giữ anh cho đến tối ngày mai thôi. Tôi đang chờ một con tàu trên bãi biển nhỏ bé của riêng tôi… Chúng tôi dự kiến sẽ tạo cho anh một cuộc dạo chơi thú vị có lợi cho sức khỏe của anh.
– Tôi tự hỏi là tại sao anh lại không kết thúc ngay bây giờ với tôi đi?
– Anh bạn thân mến ơi, trời nóng bức như thế này. Có tin là những đường dây liên lạc bằng đường biển của chúng tôi sẽ bị gián đoạn và nếu xảy ra trường hợp như vậy… Anh có thừa nhận với tôi là có một cách thú vị để nhận ra được một xác chết từng có mặt trong một ngôi nhà…
– Tôi biết chứ. – Tommy nói.
– Để cho ai đó nhìn thấy thì người đó sẽ thấy. Chắc chắn anh sẽ phải chết. Người ta sẽ để cho anh được phép sống cho tới khi con tàu cập bến. Sau đó, người ta sẽ giết anh hoặc sẽ cho anh uống một viên thuốc, rồi thi thể anh sẽ được ném qua thành tàu tại một nơi nào đó ngoài biển khơi. Và nếu chẳng bao giờ người ta tìm ra được thi thể của anh thì cũng chẳng có chứng cớ gì để có thể viết được một bản báo cáo về nơi nghỉ chân của tên buôn lậu.
Haydock lại nói tiếp với một giọng điệu rất tự nhiên:
– Thực ra, tôi đến đây chỉ để hỏi anh xem nếu như chúng tôi có thể làm được gì cho anh… ờ… một điều gì đấy sau đó chứ?
Tommy nghĩ ngợi.
– Cảm ơn – Anh trả lời – Nhưng tôi không yêu cầu anh đem mớ tóc của tôi cho ông Saint John’s Waod đâu. Tôi sẽ không trả thù ông ta vì những điều quy định cuối tháng. Nhưng tôi tin chắc rằng nó sẽ được thanh thản ở chỗ khác trong một thời hạn ngắn nhất…
Một lúc lâu rồi mà không thấy hắn tỏ ra nghi ngờ Tuppence, vậy là cô ấy chưa bị lộ mặt và vẫn có thể tiếp tục công việc – Tommy thầm nghĩ.
– Nếu anh muốn như vậy – Haydock tỏ ra nhượng bộ – Bây giờ nếu anh muốn nhắn tin gì cho… cho người bạn gái của anh thì chúng tôi sẽ thu xếp để cô ấy nhận được lời nhắn đó.
Vậy là Haydock đang muốn biết được thật nhiều tài liệu về ông Meadowes bí mật kia. Tốt lắm. Tommy biết vậy, và anh để cho hắn phải đói tin.
Anh lắc đầu:
– Không đâu. Chẳng có gì mà. Thật đấy.
– Vậy thì chúng ta đã thỏa thuận xong về vấn đề này.
Sau khi đã ra một ám hiệu kín đáo cho Appledore, hắn ta vội vã nhét mảnh giẻ vào miệng Tommy và trói anh lại như cũ. Cả hai người bọn họ bước ra khỏi phòng và cài then cửa lại.
Còn lại một mình, Tommy không cảm thấy có một sự buồn cười như trước đấy nữa. Anh đã bắt buộc phải đối đầu với một cái chết sắp đến với mình. Nhưng anh chăng có biện pháp tự giải cứu nào, vì lúc này anh đã là một kẻ bất lực.
Thân thể của anh chẳng còn chút sức mạnh, bộ óc của anh đã hoàn toàn bị tê liệt. Anh tự hỏi nếu như anh có thể tận dụng một cách có lợi nhất lời đề nghị chuyển một lời nhắn. Nếu như bộ óc của anh đã phản ứng được nhanh nhất… Nhưng anh đã không nảy ra được bất kỳ một giải pháp nào có hiệu quả.
Hiển nhiên, Tuppence lúc nào cũng hiểu rõ tình hình. Nhưng Tuppence có thể làm gì được? Như Haydock đã nhấn mạnh cho anh thấy là người ta sẽ không đặt ra một sự tương quan nào giữa sự biến mất của Tommy với người đại úy đội tàu hộ tống chống tàu ngầm kia. Tommy đã rời nơi nghỉ chân của tên buôn lậu trong tình trạng sức khỏe tốt. Ở đây sẽ có hai nhân chứng không thể chê trách vào đâu được khẳng định Haydock là ngoại phạm. Nếu Tuppence có nghi cho một người nào đấy thì chắc chắn người đó cũng không phải là Haydock. Vả lại sao chị lại có thể nghi ngờ cho một người nghiêm túc như Haydock? Trái lại chị sẽ tin rằng ông ta cũng là người đang điều tra theo dõi về sự mất tích của ông Meadowes…
Chúa ơi! Nếu như anh cố gắng kiên trì thêm chút nữa!…
Có một tia sáng rọi vào tầng hầm. Nó từ một góc của một mảng tường đục lỗ nằm sát trần mái nhà chiếu tới. Nếu như miệng anh được giải phóng thì anh sẽ kêu lên để được giúp đỡ. Và chắc sẽ có ai đó nghe được tiếng kêu cứu của anh.
Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, anh ra sức nới lỏng dây trói đang xiết chặt lấy thân thể và cũng có ý định nhai mảnh giẻ để nuốt cho trôi đi. Nhưng tất thẩy đều vô ích: Kẻ đã trói chặt anh như vậy rất hiểu việc làm của mình.
Tommy nghĩ Haydock đã đi khỏi đây rồi và chắc phải đến cuối buổi chiều thì họ mới gặp lại nhau. Trên đầu anh không còn một tiếng động nào vọng tới nữa.
Tên Haydock đáng nguyền rủa hẳn là đã đi chơi golf và không quên cung cấp những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách cho câu lạc bộ về sự biến mất của Meadowes! “Tôi đã ăn tối với anh ta vào tối hôm kia. Ấy thế mà đến đêm anh ta đã biến đi đâu mất…”
Tommy nghiến răng kèn kẹt. Tên Haydock này sao mà tự phụ quá! Hắn làm như cả thế giới này đều đui mù nên không nhận ra cái gáy ngấn thịt của hắn. Làm sao co thể ngay lập tức nhận ra được hắn. Thật khó có một diễn viên hài kịch có năng khiếu đặc biệt nào có thể làm cho mọi người tin tưởng như vậy.
Hắn đấy, hắn là như vậy… Một thất bại lớn đến thế! Một thất bại thảm hại như thế! Trông hắn ăn mặc như một con gà mái. Và không bao giờ, không một ai đoán được hắn là ai…
Chỉ cần Tuppence giữ được đầu óc sáng suốt! Rất có thể cô ấy sẽ đoán ra được sự thật. Thỉnh thoảng quả thật Tuppence có khả năng nhìn thấy cái vô hình.
Nhưng cái vô hình đó là gì mới được chứ?
Anh tập trung toàn bộ thính giác của mình vào một âm thanh từ xa vọng tới.
Đó chỉ là một tiếng hát lầm rầm của một người nào đó.
Còn anh, đang bị mắc kẹt tại đây, rõ ràng là không có khả năng phát ra được một âm thanh nào để thu hút sự chú ý của người đó.
Tiếng hát lầm rầm tiến lại gần. Người đàn ông này hát lời bài hát sai kinh khủng. Anh ta hát lộn tùng phèo hết, Tommy nhận ra ngay điều đó. Đây là một bài hát gợi đến cuộc chiến tranh trước đây:
“Nếu bạn là cô gái duy nhất trên trái đất này. Và nếu trên thế giới này tôi là chàng trai duy nhất…”
Anh cũng vậy, thường lầm rầm hát bài hát này hồi năm 1917.
Ghét thay sự u mê này! Anh ta không thể hát được chính xác bài hát đó.
Bất ngờ Tommy sững người lại. Những câu hát sai đó sao mà gần gũi với anh đến thế. Trên hành tinh này chỉ có một người lúc nào cũng có thể làm hỏng đoạn nhạc đó, và luôn luôn làm hỏng nó theo cách như vậy!
“Chúa nhân từ ơi, đây chính là Albert tôi!” – Tommy reo thầm trong bụng.
Albert lúc đó đang vô tư đi dạo xung quanh nơi nghỉ chân của tên buôn lậu. Albert gần gũi đến thế… Nhưng Tommy đang bị trói chặt, không thể nhúc nhích được tý gì dù là bàn chân hay ngón chân, không thể phát ra được dù chỉ là một âm thanh…
Một phút trôi qua rồi! Có lẽ không đến nỗi bất khả kháng đến thế!
Thật chẳng dễ dàng gì khi cái miệng đã bị khóa. Nhưng vẫn cứ hy vọng vào một khả năng.
Anh nhắm mắt lại, sẵn sàng giả vờ ngủ thật say nếu như Appledore đến bất thần. Và anh giả vờ ngáy, ngáy đến đứt cả hơi…
Một tiếng ngáy ngắn hơi, một tiếng ngáy ngắn hơi, một tiếng ngáy ngắn hơi nữa. Một lúc sau, một tiếng ngáy dài, một tiếng ngáy dài, một tiếng ngáy dài hơn nữa. Tiếp đó lại là một tiếng ngáy ngắn…
Sau khi chia tay với Tuppence, Albert cảm thấy vô cùng bối rối.
Tuổi tác làm cho phản xạ của anh trở nên chậm lại đáng kể. Nhưng cái quá trình ấy vẫn vận hành hết sức tuyệt vời.
Tình thế chung có vẻ đã trở nên tồi tệ.
Thoạt đầu cuộc chiến nào mà chẳng có sự tồi tệ đó.
Những tên Đức xấu xa đó! – Albert ngẫm nghĩ mãi, trong lòng thì rất tối tăm nhưng hầu như không có sự hận thù. Những tiếng chào “Hai Hitle!”, những bước chân ngỗng của chúng, ý chí thống trị toàn thế giới, những trận ném bom, những tràng súng liên thanh của chúng. Và rõ ràng hơn cả là thiên hướng của chúng muốn đem đến cho toàn thể vũ trụ những điều không thể chịu nổi… Bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn chúng lại. Không thể trù trừ được nữa. Nhưng theo như Albert cảm nghĩ thì cho tới giờ phút này chẳng một ai có khả năng làm được điều đó.
Anh phải làm gì đây để có thể chạn đứng chúng lại? Anh chẳng có cách nào hết… Người đứng lên chống lại ĐỘI QUÂN THỨ NĂM là ông bà chủ của anh nhưng họ lại đang gặp nguy hiểm. Cũng phải nói rằng ở đây có cả những người Anh chính gốc nữa nằm trong số bọn chúng! Thật ghê tởm quá!…
Úi dà… Sự việc này ẩn chứa một sự bại hoại. Như người ta đã nói không có thứ gì ở đây lại không phải chịu đựng những cuộc tấn công mang lại những tổn thất to lớn. Thực tế Albert không được Chúa ban cho những năng khiếu. Như phần lớn những người Anh phải đối mặt với một vấn đề nào đó, anh ta cứ loanh quanh mãi cho tới khi may sao các sự việc được làm sáng tỏ.
Sau khi đã quyết định phải đi tìm người chủ nhân như một con chó trung thành, Albert lập tức lần theo dấu vết.
Anh ta không lao đi tìm theo một kế hoạch đã định trước. Anh ta luôn bắt đầu tìm hiểu xem đồ vật ấy được nhìn thấy lần cuối cùng ở đâu, vào lúc nào rồi từ đó lần ra đầu mối.
Mọi người đều biết Tommy đã ngồi ăn tối với đại úy Haydock ở nơi nghỉ chân của tên buôn lậu, sau đó anh quay về ngôi nhà Vui Vẻ và lần cuối cùng mọi người nhìn thấy anh là lúc anh nhảy qua hàng rào sắt.
Do đó, Albert đã leo qua quả đồi và tới tận ngôi nhà Vui Vẻ. Trong một tâm trạng tràn đầy hy vọng, anh ta bỏ ra khoảng năm phút để ngắm nghía lối đi dẫn tới ngôi nhà. Chẳng có gì đáng chú ý dưới con mắt của anh và thế là sau một tiếng thở dài, anh bước những bước chậm rãi trên con đường dẫn tới nơi nghỉ chân của tên buôn lậu.
Giống như thiếu tá Bletchley, Albert cũng tìm đến rạp chiếu bóng ở Leahampton. Sau đó anh hào hứng bước ra với một tâm trạng hết sức vui vẻ.
Như một diễn viên trong bộ phim vừa xem, phải chăng anh đang thể hiện nhân vật Blondel trung thành đi tìm người chủ đang bị giam giữ một cách tàn nhẫn? Albert bật ra tiếng thở dài khi nhớ tới giai điệu du dương của bài ca Richard, ơi đức vua của tôi mà nhà thi sĩ phương Nam luôn luôn trung thành cất lên.
Ôi! Sao anh lại không thể học thuộc bài hát đó.
Và phải vất vả lắm mới nhớ được giai điệu.
Nhưng anh biết một người có thể huýt sáo rất hay bài hát đó như một con sáo thực thụ.
Và không ngừng nhắc lại tất cả những gì trái tim mình cảm nhận được.
“Nếu như bạn là cô gái duy nhất trên trái đất này. Và nếu như trên thế giới này tôi là chàng trai duy nhất…”
Albert không còn lầm rầm hát nữa để quan sát được kỹ lưỡng hơn những hàng rào sơn màu trắng toát của ngôi nhà có tên gọi nơi nghỉ chân của tên buôn lậu. Đúng là ở đây… Ông chủ đã ăn cơm tối ở chỗ này.
Anh trèo lên ít nữa.
Không thấy gì cả… Không thấy gì ngoài một vài chú cừu đang gặm cỏ.
Cánh cổng của nơi nghỉ chân của tên buôn lậu đã mở, một chiếc ô-tô do một người đàn ông lịch lãm cầm lái phóng ra. Có những chiếc gậy đánh golf đặt trên chiếc ghế bên cạnh. Chiếc xe lao nhanh xuống dốc.
Đây đúng là đại úy Haydock – Albert tự nhủ – Lái xe kiểu đó đối với hắn không có gì là khó.
Anh bước lại gần để quan sát được rõ hơn. Phong cảnh ở đây có một vẻ dễ thương như tất cả mọi nơi. Một khu vườn xinh xắn… Một cảnh tượng tuyệt vời…
Chẳng nghi ngờ gì nữa, đây đúng là một con cú. Ta sẽ nói với mi bằng tiếng chim cú, Albert lầm rầm hát bằng một giọng khàn khàn.
Có một người đàn ông bước ra khỏi cánh cửa nhỏ, tay cầm một cái mai, rồi anh ta nhanh chóng biến mất.
Albert ném những cây sen cạn và một vài cây rau diếp vào khu vườn nhỏ để thăm dò. Sự quan tâm của anh đã tăng lên gấp đôi.
Albert bước lại gần nơi nghỉ chân của tên buôn lậu.
Anh trèo qua hàng rào. Đây là một góc khá xinh xắn của Leahampton
Albert từ từ đi một vòng xung quanh ngôi nhà. Ở tận cùng đằng kia có một khu đất hình như được bố trí để trồng rau. Người đàn ông mà anh vừa nhìn thấy đã bước ra từ đây.
Albert rất hứng khởi. Anh đứng đấy quan sát rất lâu. Rồi anh quay lại để kiểm tra ngôi nhà.
Phải chăng là cái góc xinh xắn này – Albert suy nghĩ. Đây đúng là một nơi mà hầu hết sĩ quan của các binh chủng hải quân đều mong được về nghỉ hưu. Và đây cũng chính là nơi ông chủ đã dùng bữa tối cuối cùng trước khi biến mất một cách bí ẩn.
Với những bước đi chậm chạp, Albert đi quanh khu nhà một lần nữa rồi lại thêm một lần nữa để chiêm ngưỡng. Anh nhìn hàng rào sắt của ngôi nhà Vui Vẻ, lòng đầy hy vọng như thể yêu cầu những viên đá nằm kia hãy thông tin cho anh biết sự thật.
Và Blondel của thế kỷ XIX trong lúc đi tìm người chủ nhân của mình đã cất tiếng hát để tâm sự:
“Người ta đã làm những chuyện rất là cú ờ. Ta sẽ nói với mi bằng tiếng của chim cú ờ. Để làm ra những chuyện cũng cú như vậy…”
Ơ kìa!… Có một lỗi sai ở đâu đó.
Cẩn thận! Có điều gì đó rất kỳ cục! Viên đại úy chẳng lẽ lại nuôi lợn hay sao? Có tiếng ủn ỉn từ rất xa vẳng đến tai anh. Buồn cười quá đi mất… lẽ nào lợn lại được nuôi giữ trong một tầng hầm. Điều này là không thể.
Không thể nuôi lợn ở đó. Có lẽ là một người nào đấy đang ngáy ngủ, một giấc ngủ trong một cái hang. Mũi hếch lên hướng gió thổi, Albert tiến lại gần.
Albert đã đến chỗ đó – một cánh cửa của một tầng hầm. Rron, ron, rron… Pfuuuhh, pfuuuh pfuuuhh… Rron, rron, rron… Không phải là kiểu ngáy nhàm chán… Nó gợi cho anh nghĩ tới một chuyện gì đó…
– Lạy Chúa! – Albert thốt lên – Đây đúng là một tín hiệu SOS. Chấm, chấm, chấm, gạch, gạch, gạch, chấm, chấm, chấm…
Anh liếc mắt rất nhanh ra xung quanh.
Rồi Albert quỳ xuống. Sau đó bằng ngón tay, Albert gõ vào chấn song cửa tầng hầm để phát đi một lời nhắn.