Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Săn Đuổi

Chương 1

Tác giả: Gordon Thomas

Người dịch: Văn Hòa – Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: Ankay –

Ngay cả người Trung Hoa cũng không biết David Morton đã vào được lãnh địa Trung Quốc nữa, Ông ta theo con đường đã có từ một ngàn năm trước, con đường mòn của giới buôn lậu được thành hình vào cái thời vị Đệ nhất Hoàng đế dẹp tan lục quốc phân tranh để thống nhất đất nước.

Ông vào nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ sáu hôm nay, hiện đang ở trong một khu rừng nhiệt đới để theo dõi bốn người A Rập đã ra khỏi nơi ẩn náu của họ.

Cặp núm nghe nhỏ bằng đông xu nhét vào lỗ tai, đeo vòng qua dầu, ăn thông ra ngoài qua hai lỗ thông hơi trên chiếc nón trận đi rừng của Morton, đã giúp ông theo dõi mấy người A Rập nói chuyện với nhau, Xa xôi quá, được về nhà thì hay biết mấy.

Hình ảnh của bọn họ đã khiến ông nghĩ đến những con cáo ngoài sa mạc, bồn chồn nôn nóng, mũi khịt khịt đánh hơi, mắt láo liên nhìn quanh.

Thế mà họ lại không thấy được hai đứa bé, Không khí ẩm ướt trong rừng đã làm cho họ ngột ngạt, Cô bé và cậu bé ở dưới làng cách đường mòn một dặm, cũng đang theo dấu vết mấy người A Rập.

Morton đã phát hiện hai đứa bé một lúc rồi, ông thấy chúng luồn qua đám cây rừng ở phía bên phải của ông, Chú bé không quá mười tuổi, còn cô bé thì còn nhỏ hơn, Hai đứa nhóc cùng đi rình rập khách lạ.

Ông tìm hiểu học hỏi về bản chất con người đã từ lâu, Ông biết rõ những qui luật để sống còn trong rừng núi, trong tuyết và trong sa mạc, Phải tập sống đơn giản, chỉ cần những nhu câu tối thiểu cho cơ thể là được.

Ngay cả trong rừng cây cao hàng mấy chục thước, vóc dáng của ông vẫn rất hấp dẫn, cái đầu lớn với mái tóc đẹp đẽ chưa có một sợi bạc.

Người ta phải lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông không hề có dấu hiệu nào của tuổi già, Da dè láng mướt không nhăn nheo, thị lực hoàn hảo, cơ thể mảnh mai rắn chắc, Trông ông, không ai nghĩ ‘rằng ông đã đến tuổi bốn chín rồi.

Áo quần ông toàn bằng vải ka ki, để dẽ xếp vào va li mang đi khi cần đến, cả mùa hè lẫn mùa đông.

Quân hàm của ông là Trung tá, nhưng ông không mấy khi lưu tâm đến, Ai cần biết mới tìm hiểu mà thôi.

Nét đáng quý này đã hiển hiện nơi chiếc cằm nhô ra của ông, như sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách.

Đôi mắt màu xám sắc bén mà bình tĩnh, Chỉ phản ứng lại khi gặp trường hợp có ai không thật lòng với ông hoặc khi ông gặp khó khăn.

Đôi mắt còn toát ra lòng khao khát tìm kiếm sự thật, đôi mắt vừa thăm dò vừa cảnh giác khi nhìn ai, Ông luôn giữ khuôn mặt bình tĩnh trong mọi tình huống, chẳng khác nào loài thú biết cách thay hình đổi dạng, khi nằm bất động để người ta tưởng Tâm là khúc gỗ.

Ba người A Rập trông có vẻ dẻo dai, mặt mày người nào cũng đằng đằng sát khí, Người thứ tư ngồi xổm trên mặt đất trông hắn rắn chắc, đầu hói hết, Hắn tỏ ra không hòa đông với bọn kia, hắn nắm chặt một cái cặp mới láng bóng, Đó là kẻ chủ chốt trong nhóm.

Cả bọn đêu bị ướt mèm vì cơn mưa đầu mùa trút xuống vào buổi chiều, Cơn mưa trút xuống khi ánh nắng mặt trời vẫn tiếp tục chiếu sáng trong vòng một phút, Không khí nặng nề chẳng khác nào một miếng xốp nóng nhúng vào nước đang bốc hơi.

Tiếng sột soạt di động của hai đứa bé vang lên trong máy nghe của ông, Morton nghe chúng thì thào với nhau, Bé gái muốn quay về, Bé trai lại giục :

— Chưa về được, Đến gần tí nữa xem.

— Được rồi, Nhưng đừng gần lắm đấy nhé,Bé gái miễn cưỡng nghe theo lời cậu trai.

Chúng nói giọng Quảng Đông, nhẹ mà the thé, Morton không có cách nào để xua chúng đi được, Chúng làm cho nhóm A Rập này biết được mất, Thật không đáng chút nào hết.

Những máy liên lạc mà ông đã ra lệnh thiết lập ở miên Nam Li Băng đả báo cho ông biết về những người A Rập này, Và qua những cuộc điện đàm bí mật họ gọi đến Bangkok, họ cho biết đã chuyển đi một số tiền lớn khiến cho ông phải nghi ngờ.

Hai triệu đô la Mỹ, Không có ý kiến gì, Ông phải tìm hiểu thứ gì đáng giá như thế, Và phải ngăn chặn ngay,Ông đã kiên nhẫn đi theo mấy người A Rập từ Beirut đến đây, đã cùng họ bày trên chiếc Tristar đến Bangkok, Họ không hề để ý đến ông, không ai để ý hết.

Những người A Rập đã chơi bời thỏa thuê suốt một ngày ở Pattani, họ đi từ nhà thổ này qua nhà thổ khác, tìm cho được các bé trai và gái còn nhỏ tuổi, vì đây là một mốt

ăn chơi hiện hành, Gã mang xách cũng đã mua cái cặp và Morton thấy mình chẳng phí thời giờ chút nào cả.

Những người A Rập đã đến một chi nhánh của Ngân hàng Hoàng gia Thái Lan ở Bangkok, Tối đó họ đáp xe hỏa đi lên phía bắc đến Udon.

Ông vào ngồi trong một buồng gần họ và xuống tàu trước họ, Từ Udon, một hướng dẫn viên người Thái dẫn họ theo đường bộ đến Chiang Rai, thủ đô miền đôi núi của các băng nhóm buôn bán ma túy Châu Á, một nơi xa xôi mà có thể lực như các trung tâm ma túy Medellin ở Columbia vậy.

Morton đi theo họ, giờ thì ông đã biết chắc nơi họ đến rồi, đến Chiang Rai gã dẫn đường người thái chuyển giao người A Rập cho một người Trung Hoa,

Anh này thuộc dân tộc Dao, người thấp, da trắng trẻo, bộ lạc này thuộc dân tộc ít người cua Trung Hoa, từ lâu họ nổi tiếng buôn lậu.

Anh này dẫn mấy người A Rập vào nội địa Trung Hoa, Đoàn người đi nhanh, chỉ vào làng để nghỉ ngơi ăn uống, Dân ở đây sống bằng nghề đốt rẫy làm nương, mọi người đều quen biết anh chàng dẫn đường này, Họ không lạ gì những người khách thường đến để tìm mua hêrôin và côcain.

Tuy nhiên, Morton không bao giờ xuất hiện mà chỉ đợi những người khách ở mép rừng, Ông ăn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng đã được đặc chế ở Tel Aviv.

Morton có đủ thức ăn suốt hai tuần lễ, Sau đó, ông sẽ ra khỏi nơi đây, Lúc ấy thì ông đã biết đầy đủ mọi việc rồi, Khi hướng dẫn viền dẫn những người A Rập đến một quãng trống, anh ta cho họ biết họ đã đến nơi.

Một giờ sau, họ vẫn còn ngồi xổm trên mặt đất, Những người A Rập mặc quốc phục Li Băng, còn hướng dẫn viên thì mặc quần ống rộng và áo cài nút cao tận cổ theo phong

tục cổ truyền.

Thỉnh thoảng anh liếc nhìn chiếc cặp, Người xách cặp đặt một bàn tay trên tay xách, Như những người khác, gã hút thuốc liên hồi.

Morton thấy người xách cặp đưa mắt nhìn anh dẫn đường, Tiếng ho của người A Rập chan chát dội vào cặp núm nghe trong tai của Morton, Ông nghe tiếng gã xách cặp hỏi bằng tiếng Anh :

— Còn lâu không ?

— Không lâu nữa đâu , Người dẫn đường trả lời , Họ đi đường xa lắm.

Gã xách cặp càu nhàu rồi châm một điếu thuốc khác, Một tên hộ vệ lôi một khẩu súng nhỏ ra, y làm ra vẻ xem xét khẩu súng rồi lại nhét vào thắt lưng.

— Bọn bất lương , Giọng nói thì thào của bé gái vang lên trong máy nghe của ông , Chúng ta đi thôi.

— Không ! – Bé trai năn nỉ , Mày cứ đi đi, tao ở lại đây.

Morton đoán chắc hai đứa bé ở đâu gân phía trước ông, Mấy tên hô vệ nói chuyện nho nhỏ với nhau bằng tiếng A Râp, không thèm đếm xỉa đến tên dẫn đường.

Một tên nói :

— Khi về khỏi biên giới rồi, chúng ta giết hắn đi.

— Có lẽ hắn có bạn bè đợi ở đấy , tên thứ hai bác lại

– Chúng ta giết hắn ở đây, chẳng ai biết hết.

Tên thứ ba năn nỉ nói :

— Chúng ta cần hắn để dẫn ta ra khỏi đây đã.

Dù cách một đoạn, Morton vẫn nghe giọng nói giận dữ của gã mang chiếc cặp bỗng vang lên :

— Không có chuyện giết chóc, nếu không có lệnh tôi !

Mấy tên hộ vệ bèn im lặng, nhưng vẫn tỏ ra phật ý, Morton không dám cựa quậy khi một đàn kiến bò qua hai bàn tay ông, cả hàng triệu con bò trước mặt ông trong khi ông úp mặt dưới một đống lá ẩm mục.

Ông nhắm mắt lại và cố nghiến chặt răng khi đàn kiến bỗng đổi hướng, Mặc dù ông đã thoa kem chống côn trùng, đàn kiến vẫn bò lên nhau qua đầu của ông, may mà nhờ lớp bông thấm kem chống côn trùng nhét trong mũi đã ngăn được chúng bò vào người ông, Khi đàn kiến đã bò hết, ông mới mở mắt ra.

Lời thì thào năn nỉ của em bé gái lại vang lên trong núm nghe :

— Chúng ta đi thôi.

— Không ! – Chú bé cương quyết đáp lại.

Ông lại nghe tiếng thở dài của bé gái, rồi nghe tiếng di động nhẹ nhàng của chúng luồn lách để đến gần chỗ trống hơn.

Chúng thành thạo biết lợi dụng bóng im và âm thanh của rừng để đến gân hơn mà không bị phát hiện, Bỗng chú bé thở hổn hển, rồi chúng đứng yên lại.

Cả Morton, những người A Rập, người dẫn đường và cả hai đứa bé đều thấy hai người đàn ông xuất hiện ở bên kia quãng trông.

Người dẫn đường vụt đứng dậy, cười khoan khoái, Một người A Rập bước đến bên cạnh gã xách cặp, hai người kia tách xa nhau ra, sắn sàng nhả đạn, Những người mới đến làm ra bộ không nhận ra ý đò của họ.

Morton nhắm họ qua kính nhắm trện khẩu súng trung liên của ông, Người Hán da ngăm đen, áo quần mặc theo kiểu phu phen làm thuê làm mướn của dân miên núi thường mặc để khai hoang làm rẫy.

Ngoài súng máy M.16 trên tay, họ còn đeo dao to bản bên thắt lưng, Mỗi người lại còn đeo trên thắt lưng dụng cự đào hầm.

Người Hán nào đi đâu cũng đều mang theo dụng cụ này, Họ đứng lại một chốc rồi lại đi thụt lùi vào rừng, vẻ lúng túng vụng về, họ lấy súng vạch ra lối đi.

Họ trở lại dẫn theo một người thứ ba, Người này tuổi trung niên, ngực ưỡn ra như vì đã đi từ xa tới, Hắn ta mặc bộ đô màu cháo lòng, tay xách một cái cặp như cặp của người mang túi xách.

So với người Trung Hoa thì hắn cao ráo hơn, Hắn cao gân một mét tám, cơ thể cân đối, mạnh khỏe, Hắn thuộc tầng lớp có thừa mứa cơm thịt.

Loại người được ưu đãi, Hai bàn tay nắm cái cặp chưa bao giờ làm công việc nặng hàng ngày, Mặt hắn trắng ngà, Một người có lẽ chưa bao giờ phải đầm mưa dái nắng.

Hắn nheo mắt lại nhìn những người A Rập, Thế rồi hắn giữ hơi thở bình thường, đi ra quăng trống, hai tay nắm chật chiếc cặp vẻ như chiếc cặp nặng lắm.

Khi hắn nói với người hướng dẫn, Morton nghe những tiếng lẹt xẹt do điện gây ra trong tai, Máy nghe trục trặc rồi, Có lẽ vì nước, Trận mưa bóng mây đã làm cho ông ướt mèm như đã mặc cả áo quần lội vào nước vậy.

Hắn nhìn người hướng dẫn quay qua gã xách cặp, anh ta chỉ vào chiếc cặp, rồi nói :

— Vui lòng mở cặp ra đi…

Morton thấy mắt của gã xách cặp lóe lên ánh hận thù, Ông nghe giọng hắn nói chen với tiếng kêu lẹt xẹt trong máy :

— Tiền cả mà…

— Vui lòng mở ra đi… – Người Trung Hoa tuổi trung niên lặp lại – Za đã nói rồi mà…

Morton rướn người lên, Ông nín thở, thầm rủa cái máy nghe. Tuy nhiên, mặc dù máy phát tồi tệ và tiếng Anh của gã đàn ông sai bét, nhưng ông cũng đã nắm được đầu mối gã Trung Hoa đã nói… Za đây.

Chỉ có một tên có âm cuối như thế làm cho Morton chú ý, Đó là tên Raza.

Trong suốt thời gian chiến tranh Vùng Vịnh xảy ra, Khalil Raza và Abu Nidal đua nhau tranh chức lãnh tụ phong trào khủng bố trên toàn cầu.

Thế rồi, trong một trận kèn cựa khốc liệt để đời, Raza đã giành được vị trí kẻ tàn bạo nhất thế giới, Chuyện xảy ra đã in sâu vào ký ức của Morton.

Raza đã đích thân gài trong một nhà hộ sinh Do Thái ở Jérusalem chất nổ Semtex để sát hại sáu mươi ba trẻ sơ sinh cùng mẹ các cháu, giết luôn ba mươi mốt nữ điều dưỡng và bác sĩ chăm sóc trong nhà hộ sinh.

Một trong số các nhân viên đó có em gái của Morton, đó là Ruth.

Cô ta là người còn sống gợi nhớ đến cả gia đình họ đã bị chết hết trong những năm khắc nghiệt dưới chủ thuyết Stalin khi những phong trào bài trừ người Do Thái xảy ra ở Liên Xô, tương tự như những phong trào đàn áp người Do Thái của Đức quốc xã vây.

Ruth và ông nằm trong số những người Do Thái đầu tiên được phóng thích khi có chính sách thay đổi ở điện Kremli, Khi bay về đến Israel, hai anh em được gia đình Vaughan nhận là con nuôi.

Steve là một học giả chuyên về Luật Do Thái cổ, Dolly thì là một bà mẹ nhân hậu, Nhiều năm sau, Morton mới biết Steve đã thay đổi họ cho hai anh em Morton vì có thế mới ít ai hòng thanh trừng được một người mang họ Morton.

Hai ông bà đêu nhân hậu và dịu hiền, họ biết Morton đã hết sức che chở cho Ruth, Ông đã khích lệ cô khi học ở trung học, rồi lên cao đẳng, lên đại học, ông đã bay qua nửa vòng địa cầu để tham dự lễ tốt nghiệp của em, đã đến thăm bệnh viện hôm nàng bắt đầu làm việc, đi khắp hành lang để xin các nhân viên trong bệnh viện cho phép gặp “Bác sĩ” Ruth.

Sáu tháng sau, ông lại có mặt ở đây khi Ruth dẫn Benjy về nhà chơi, anh ta cũng là một bác sĩ làm cùng bệnh viên với cô, người họ Sabra, trẻ đẹp.

Ruth cho biết hai người sẽ làm lễ kết hôn, và Steve đã rót rượu vang để uống mừng hạnh phúc hai trẻ, Hôm sau, Raza tấn công, Người ta tìm thấy Ruth và Benjy nằm dưới đống đổ nát của bệnh viện.

Khi người ta báo cho ông biết Ruth đã chết, ông thấy tâm trạng của mình giống cái hôm Steve dẩn ông vào thăm Viện bảo tàng hủy diệt, Lúc ấy, ông cũng lặng cả người.

Ông không bao giờ đến xem nữa, Không bao giờ đến xem một nơi nào gợi nhớ lại cảnh sáu triệu người bị hủy diệt nữa, Ông không muốn học lịch sử bằng cách đó.

Hôm làm lễ an táng Ruth thì trời mưa, khiến cho mặt đất trơn trượt, Ông thấy những người khiêng quan tài rất lo âu, họ đã siết chặt tay nhau khi khiêng quan tài.

Họ là bạn bè của Ruth làm trong bệnh viện, ông đã hết sức xúc động vì thấy họ còn trẻ quá và tình cảm của họ dạt dào quá, làm cho những người lớn tuổi phải rơi lê.

Khi ông bước lên để đọc lời cầu nguyên, giọng ông lạnh lùng và khúc chiết, Ông không hề tỏ ra phiên muộn hay giận hờn, Tuy nhiên, khi đất đá phủ kín quan tài, ông biết rằng ông sẽ hết sức cô đơn trống vắng, không có gì khỏa lấp được, Chôn Ruth xong, nhưng đám tang của nàng vẫn mãi mãi nằm trong tâm khảm ông.

Khi Steve và Dolly dẫn những người khác ra về, ông vẫn còn đứng nhìn ngôi mộ mới đắp, chiếc khăn cầu nguyên đè nặng trên vai, cuốn sách nguyện khép lại trong hai bàn tay.

Trong trí ông hiện ra một câu mà Steve đã đọc từ trong Kinh Thánh ra cho hai anh em nghe vào những đêm Thứ Sáu, câu mà ông vẫn còn nhớ mãi.

Câu này do nhà tiên tri EZEKIEI viết : “Kẻ thù sẽ biết ta là chúa tể khi ta giáng trả những đòn chí tử vào chúng”.

Ông lẩm bẩm đọc lại câu đó như là muốn thề với Ruth, Thế rồi ông cất khăn nguyện và vội vã bước đi, cố quên những tiếng thì thào xúc động, những lời kết án cứ ấm ức trong lòng, Ông không có thì giờ để phiền muộn trong cái thế giới vời vợi giá buốt của mình nữa.

Steve bước đến sau lưng ông, hỏi ông sẽ hành động như thế nào, Ông nhìn thẳng vào mặt ông già, rồi nhỏ nhẹ cho biết ông sẽ giết chết những kẻ đã sát hại Ruth.

Từ đó ông không gặp hai ông bà già nữa, Ông viện cớ bận bịu công việc, viện cớ này cớ nọ, Ông không muốn nhìn thẳng vào mắt những người cứ tưởng câu trả lời của ông chỉ là lộng ngôn mà thôi.

Ông tiếp tục săn lùng Raza, Ông cho nhân viên tỏa ra hàng chục mạng lưới, Khi ông đọc trên tò báo ở Beirut cho biết rằng Raza đã treo một phần thưởng 100.000 đô la cho ai giết chết hoặc bắt sống được ông, thì ông đáp lại rằng ông chỉ trả cho cái đầu của Raza bằng một đồng Israel mà thôi, đấy là giá mua một viên đạn ở Israel.

Hầu như suốt một năm rồi, Raza đã mất tăm dạng sau hai vụ thất bại đắng cay của hắn, Kế hoạch của hắn là bắn đầu đạn Stinger từ một nhà kho bên này sông Thames vào tòa nhà Quốc hội ở bên kia sông, cùng lúc đó hắn cho nổ một quả bom trong tòa nhà Thị Trưởng Chứng Khoán của Nhà nước Đức mới xây dựng ở Berlin, cả hai vụ đêu bị các lực lượng chống khủng bố phá tan, đông bọn của Raza kẻ thì bị giết kẻ thì bị bắt.

Raza bị những nhóm đỡ đầu A Rập hết tin tưởng, Xét soát toàn bộ thì Raza đã nối bước các bậc tiền bối tiếng tăm của hắn như là gã chó rừng Carlos, như là Abu Nidal, hắn bị rơi vào quên lãng chua cay.

Nay thì cái bóng ma của Raza lại hiện ra trong ánh sáng mờ ảo của khu rừng trống, Hai đứa bé vẫn cãi nhau, Khi Morton đưa tay vặn lại cái máy nghe, thì ông ngửi thấy có mùi khét.

Một cơn sét đã truyền điên vào đày cả hai núm nghe, Mùi khét lẹt tăng thêm, Morton tháo nó ra, Một làn khói mỏng từ hai núm nghe thoát ra, Ông lấy một nám đất để dập tắt luồng khói đi.

Trong quãng rừng trống, gã mang túi xách mở cặp ra, có bọn hộ vệ canh chừng, người Trung Hoa lôi ra những bó đô la Mỹ, hắn đếm rất thành thạo.

Thấy đủ, hắn hài lòng ra mặt rồi trao chiếc cặp của hắn cho tên A Rập, cái cặp vẫn đóng chặt, Gã xách cặp xách cả hai tay để thử xem trọng lượng của cái cặp.

Morton nghĩ rằng hắn làm như thế để xem trọng lượng cái cặp có xứng với hai triệu đô la không, Ông nâng nhẹ khẩu súng lên vai, Khẩu súng ông đã lấy ở chỗ của Phân đội châu Á ,giấu nó đã được bọc một lớp giấy sáp và chôn gần một ngối làng chiến lược ông sẽ qua đó.

Ông chỉnh lại máy nhắm cho hợp với trọng lượng của bô phận giảm thanh gắn trên súng như thói quen ông thường làm.

Trời bắt dầu tắt nắng, Mấy đứa nhóc đâu rồi ? Thôi thì kệ chúng, Bọn ấy đang chia tay nhau, Gã trung niên xách cặp đang đi lui về phía bên kia khu rừng trống, bọn hô vệ bước lui để đề phòng có kẻ bắn sau lưng.

Những tên A Rập và người dẫn đường bước nhanh qua khỏi khu rừng trống theo hướng chéo nhau, tạo thành một hình ,khó đoán cho ra chúng sẽ đi lối nào.

Morton chuyển hướng khẩu súng tự động : chỉ năm giây ông nhả hết cả ổ đạn hai mươi viên cỡ 7.67mm, ba giây sau là ông đã nạp đạn lại rồi.

Thế rồi ông thấy hai đứa bé, Chú bé vùng dậy khỏi mặt đất, chập choạng chạy về phía mấy người A Rập, nó cười và chỉ vào cái cặp, Bé gái chạy theo, dang hai tay ra cố kéo thằng bé trở lui.

Nhìn qua chiếc kính gắn trên súng, Morton thấy nét sợ hải trên mắt cô bé, Ông thấy thằng bé chạy đến phía gã xách cặp.

Ông thấy gã A Rập giáng cái cặp lên đầu thằng bé, Ông nghe tiếng xương gãy răng rắc, Ông thấy thằng bé bị đánh gục bằng rìu, Ông cảm thấy, nghe thấy tiếng tức tưởi giận dữ trong họng mình.

Đứa con gái thét lên, Ông thấy nó há miệng ra, hàm răng trắng lóa kinh ngạc, Rồi ông thấy khi nó quay bỏ chạy thì một tên A Rập đã bắn theo nó.

Nó khựng lại nửa chừng, rồi máu tuôn ra ướt đẫm vạt áo trước khi nó đổ sụm vào một tay súng khác, Tên này hất cái thi thể cứng đờ, bất động đi.

Morton nổ súng, ông cảm thấy báng súng dội mạnh vào vai, Làn đạn không nghe tiếng nổ quét qua thi thể cô bé giết chết ba tay súng tức khắc, Gã xách cặp và tên dẫn đường lẩn mất.

Lăn người qua vị trí bắn khác, Morton lẩm bẩm chửi thề, Tên A Rập bị đạn chết đã đẩy cô bé vào đạn đạo ông đã bắn ra, cho nên gã xách cặp đã thoát được.

Đạn găm trên mặt đất ở chỗ Morton đang nằm, Những người Trung Hoa đã thấy ông, Ông bắn chết một tên với viên đạn cuối cùng, rồi lôi kẹp đạn không ra, gắn vào một kẹp đạn mới.

Không thấy bóng dáng gã trung niên đâu hết, Một loạt đạn mới làm tung tóe lá và cành cây trên đầu Morton, Tên hộ vệ kia đang ẩn núp đâu đấy về phía bên phải của ông, Tiếng cò súng gõ không phá tan bầu không khí im lặng, rồi tiếp tục là tiếng ổ đạn lách cách tháo ra, lắp vào.

Co gập người lại, Morton bò rất yên lặng, rất nhanh

đến chỗ tên Trung Hoa, Hắn đã đi chỗ khác.

Morton nhặt lên một cành cây nhỏ, ông ném ra giữa khoảng trống, Một làn đạn quét khắp mặt đất, Có dấu hiệu hoảng hốt rồi đấy.

Ông chợt thấy có sự di động ở phía bên trái, liền bò về hướng đó, súng một tay, dao một tay, Ông nghe tiếng lá sột soạt ở phía gã đàn ông đang nằm.,Ông ngửi thấy mùi hơi người đang trườn tới.

Morton nằm ngửa người ra, kẹp súng một bên, dao trong tay, Ông nhặt lên một miếng gỗ rồi ném cao lên cây, Miếng gỗ rơi xuống đánh lách cách trên các cành cây.

Gã Trung Hoa đứng dậy, chĩa khẩu M.16 lên.

Morton chụp con dao lớn ở trên mặt đất rồi đá khẩu M.16 văng khỏi tay của gã, Gã Trung Hoa rút dao nhỏ ra, Morton đâm cây dao thật mạnh, cắt toạc áo và thịt trên cánh tay của gã.

Gã hét lên, thả cây dao ra, rồi nhảy vào ông, Cây dao lớn tuột khỏi tay ông, gã bấu mấy ngón tay vào cổ họng ông, Ông dộng đầu gối vào háng gã thật mạnh rồi dùng cùi chỏ thúc vào mũi gã, Gã thét lên và buông cuống họng ông ra.

Morton đứng thẳng dậy, Gã Trung Hoa lồm còm đứng lên, lắc lư cái xẻng trong tay, Morton đá mạnh, cái xẻng văng ra, Ông chụp lấy, thọc mũi nhọn cái xẻng vào họng gã, Gã Trung Hoa chụp lấy cán xẻng, hai người vật lộn nhau giành cái xẻng.

Morton ngửi thấy hơi thở của gã chua loét, rồi ông thấy bọt máu ứa ra nơi miệng gã, Hai mắt gã tươm máu, Morton đẩy mạnh, Ông nghe một tiếng toạc khi lưỡi thép giáng vào đầu gã.

Sau đó, Morton mới được rảnh tay ngồi nghỉ.

Khi ngực đã bớt đau, ông đứng dậy, Máu trên mũi gã Trung Hoa đã đông lại, thẫm đen, Bầy kiến đã bu quanh cánh tay bị thương của gã.

Hắn phục vụ cho ai đây ? Trong hai túi quần hắn chẳng có gì hết, Ông lật sấp người hắn lại, Trong cái đẫy hắn đeo sau lưng, ông thấy tấm thẻ chứng minh.

Phải chăng hắn là một cảnh binh Trung Hoa ? Thấy khẩu súng M.16 gãy nòng nằm dưới một gốc cây, ông lượm lên rồi ném vào bụi cây.

Morton bước giữa quãng rừng trống, lục tìm trên xác tên hộ vệ kia, Ông lấy thẻ chứng minh lên xem.

Mấy người A Rập không có giấy tờ gì hết, nhưng Morton không cần lưu tâm đến, Biệt kích là thế, Ông ném mấy khẩu súng nhỏ của họ vào bụi cây, rồi lôi mấy thây ma vào bụi, Ống để thi hài hai đứa trẻ nằm riềng ra khỏi chỗ mấy tên giết người, để tỏ lòng yêu mến chúng.

Morton xem dồng hồ, Đã mười lăm phút trôi qua từ lúc gã xách cặp bỏ chạy, Đi khoảng một phần tư dặm sẽ gặp những con đường mòn đi Miến Điện, đi Thái Lan, Ân Độ, Pakixtan. Ông thừa biết rằng việc đuổi theo bọn buôn lậu là một chuyền ảo tưởng.

Morton bèn ngồi tựa vào một thận cây, xem xét mấy tấm thẻ chứng minh, Lớp nhựa mỏng bọc lấy khuôn mặt và chiếc dấu nổi chẳng quan trọng là bao.

Nhưng chính cái huy hiệu in trên góc phải của tấm thẻ chứng minh mới khiến cho ông hiểu ra ngay, Hai cái hình vuông màu đỏ trang trí một cái ống nghiệm và cái chày cái cối đan chéo nhau là huy hiệu của Viện nghiên cứu quốc gia ở Quang Du nằm trong tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.

Các nhà khoa học ở đây đã thiết lập cho nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc một nhà máy sản xuất vũ khí hóa sinh đứng hàng đầu thế giới.

ở Quang Du vừa rồi họ đã chế tạo ra mồt loại vũ khí mới nhất và nguy hiểm cho tính mệnh nhất, đó là vi rút bệnh than B.c. – Chữ “B” để phân biệt với các loại bênh than khác, Còn chữ “C” là để tôn vinh nước Trung Hoa, kỷ niệm sự ra đời của loại vũ khí lợi hại này.

Vi rút bệnh than B.c. có thể ‘mang đi và sử dụng vô hại nếu nó ở trong trạng thái đông đặc, Nhưng chỉ cần vài lạng ở trong trạng thái hòa tan, là nó có thể sát hại hàng ngàn người.

Khi các nhà khoa học nói đến vấn đê giải độc, họ thường thêm vào chữ “nếu” : Nếu nạn nhân được định bệnh kịp thời… Nếu nạn nhân được cho uống một liều lượng trụ sinh đúng mức… Nếu nạn nhân có thể lực tốt, Nhưng với loại vi rút này, ngay có được các điều kiện như thế cũng ít hy vọng cứu sống lắm.

Vi rút bệnh than B.c này nguy hiểm như thế cho nên Công hòa Nhân Dân Trung Hoa không chịu cung cấp cho IRắc, vốn là quốc gia trao đổi hàng hóa với họ, nước mà họ đã lén lút cung cấp vũ khí sinh hóa khác để dùng vào trận chiến ở vùng Vịnh.

Morton tin chắc người Trung Hoa hiên vẫn còn duy trì cái luật cấm vận ấy, nhưng nếu khi luật ấy được bỏ đi thì thế giới sẽ đen tối hơn biết’bao, Sợ Saddam Hussein tìm cách sao chép được loại vi rút bênh than B.c.

Morton đã dẫn một lực lượng nhỏ vào IRắc trong đêm trước khi xảy ra chiến tranh để hủy diệt nhà máy chính gần Bagdad. Nhà máy bào chế nằm sâu dưới lòng cát, ngay cả vũ khí nguyên tử chiến thuật của Hoa Kỳ đóng ở bên lánh địa của Saudi Arabia cũng bó tay.

Để hợp tác với lực lượng Delta và những đơn vị không quân đặc biệt (SAS), Morton đã chọn riêng người của ông, Họ là những người đã được rèn luyện nhiều qua các cuộc chiến tranh vừa xảy ra.

Mỗi người đêu đã đối diên với tử thần và họ đã biết đê phòng, Họ đêu giống ông : Lou Panchez với đôi mắt tinh anh. Wolfie, người không bao giờ cười, trừ khi có Michelle bên cạnh.

Cô ta bình tĩnh và khi nắm vũ khí rồi thì cô không còn thương xót nữa, và kẻ thù khó mà thoát chết, Matti Talim trông giống tài tử Montgomeri Clift.

Vì thế mà nhiều người thoạt tiên gặp anh đã tưởng lầm, Sai Tâm thứ hai là họ hiểu sai về anh, Nhưng với Danny Nagier thì không ai sai Tâm hết.

Anh rất có tài khi đặt những đài truyền tin siêu âm và chế tạo những hộp đen để nghe lén, hay là khi cần đến, thì cho chúng nổ tung gây thiệt hại cho đối phương rất lớn.

Ngay từ đầu, đoàn phải tạo nên mối liên hệ chặt chẽ có tình thương yêu mến mộ nhau, tôn trọng lẫn nhau, Lou Panchez phải thân thiết với giới CIA ở Li Băng.

Wolfie với cơ quan an ninh mạnh nhất của châu Âu, đó là cơ quan BND của Tây Đức, Michelle xuất thân từ cơ quan tình báo Pháp, cơ quan SDECE, Matti và Danny là những người con ưu tú nhất của Mossad.

Mặc dù là người Do Thái và là hàng nhân viên cao cấp của Mossad, Morton vẫn luôn cho mình là một người Anh thôi, Học vấn của ông, học trường Clifton và Cambridge, cùng cách phát âm nhẹ nhàng đã bảo đảm tính chất ấy cho ông.

Những người kể trên là nhân viên thuộc hàng thân

cận của Morton, Họ đã trải qua những cuộc trắc nghiệm do ông thử sức, không nệ vào sách vở.

Họ phải bình tĩnh trước mọi tình huống, phải hăng hái đi đầu, nhưng không phải bất cứ lúc nào cũng thế, Ông không muốn những ai ồn ào, Họ còn trải qua những cuộc trắc nghiệm gian khổ nhất để thử thách về lòng trung thành với Tổ quốc.

Ông yêu cầu sự trung thành không xuất phát từ trong sách vở mà ở hành động, Sau vụ IRắc, ông đã nói với họ là thời gian đã đến để cho họ chứng tỏ lòng trung thành của mình, Bản năng cho biết những thẻ chứng minh ông đang giữ đây đã đem vấn đề lại gân hơn.

Saddam đã thua, Nhưng mối đe dọa vẫn còn đấy.

Morton nhìn qua những hàng cây, Bầu trời đã ngả màu tím, Những vì sao đầu tiên đã xuất hiện, Không khí đã yên tĩnh lại.

Chẳng bao lâu nữa những con thú ăn thịt sẽ từ trong rừng bò ra các thi thể, Đến sáng thì chỉ còn lại những xương trắng nhỏ, bị róc hết thịt, Ông lại nghĩ đến Raza.

Trước khi rút vào bí mật, hắn đã cấu kết với bọn trùm buôn lậu ma túy ở khu Tam Giác Vàng và với những công ty chế biến tiêu thụ ma túy Medellin ở Columbia, hắn bảo đảm những đường dây cung cấp qua ngõ Trung Đông để phân phối lại trong những trụ sở an toàn ở Bắc và Nam Mỹ, ở châu Phi và châu Á.

Phải chăng Raza đã phái những tên cướp này đến tiếp xúc với người Trung Hoa để buôn bán ma túy ? Phải chăng anh chàng trung niên kia đã dùng tiện nghi của Quang Du để tinh chế ma túy ? Bản năng trong người ông báo cho ông biết đây không phải là vụ mua bán ma túy bình thường.

Đây là việc có dính dáng đến tập đoàn tu sĩ Hồi giáo., Từ cuộc chiến vùng Vịnh, họ đã vươn lên thành một thế lực có uy quyền, với mục đích rõ ràng, Từ đó, họ kiểm soát hoàn toàn những giếng dầu hỏa và những mỏ khoáng sản dã phát hiên ra trên sa mạc.

Nhờ thế, tập đoàn tu sĩ không những chỉ thống trị những nước trong khối A Rập mà thôi, họ lại còn trở nên giàu mạnh về kinh tế như bất kỳ một cường quốc nào, Muốn được thế, họ phải chọn con đường khủng bố.

Chính người Xi Ri đã nói cho ông biết tập đoàn tu sĩ đã ở trong tư thế leo thang.

Người Xi Ri là một sĩ quan tình báo quan trọng của khối A Rập, anh ta biết rất nhiều chuyện bí mật, Morton đã lăn lộn ở trong vùng Tây Beirut để tuyển mộ anh ta.

Nhưng những tu sĩ Hồi giáo thì lại muốn có một cuộc thánh chiến chống lại những ai không theo Hồi giáo, họ đã phái người đi gây sóng gió khắp các nước theo Hồi giáo và gây cảnh hãi hùng khiếp đảm cho khắp thế giới.

Chủ thuyết phiêu lưu của Saddam Hussein cũng không bằng khi so sánh với hành động của họ, Họ đã làm cho nhân loại đảo lộn rối bời chưa từng bao giờ có trong lịch sử.

Trong buổi gặp mặt mới đây, người Xi Ri đã cho ông biết tin là nhóm tu sĩ đã chuyển đến Bangkok hai triệu đô la Mỹ. Mọi việc đều xuất phát từ đấy.

Phải chăng các vị tu sĩ đã phái anh chàng xách cặp lặn lội vào rừng để mua một lượng vi rút bênh than B.c, và phải chăng họ đã thấy Raza là người có khả năng làm nên được việc này ?

Khi Morton đi quãng đường dài để ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa, ông nhất quyết phải gặp mặt người Xi Ri trong vòng ba hôm nữa như kế hoạch ông đã vạch ra.

Bình luận