Chiếc tàu cập bến cảng Genoa đầu tháng tư. Tổng giám mục De Bricassart đặt chân lên một nước àtràn ngập ánh nắng mùa xuân Địa Trung Hải. Liền đó, ông lên tàu hỏa đi Roma. Nếu ông tỏ ý muốn, Vatican đã gởi đến một chiếc xe với tài xế để đưa ông về. Nhưng ông sợ lại chứng kiến cảnh Giáo hội một lần nữa đóng cửa với ông, do đó ông muốn đẩy lùi thời điểm thử thách ấy càng lâu càng tốt. Thành phố Vĩnh Cửu. Nó mang đúng cái tên của nó, ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn qua cửa kiếng xe tắc-xi. Những lầu chuông và những vòm giáo đường, những quảng trường đầy chim bồ câu, những đài nước uy nghi, những hàng cột Roma đặt trên những nền ăn sâu hàng bao thế kỷ. Với ông, tất cả những thứ đó không đáng chú ý. Đối với ông điều quan tâm duy nhất là Vatican với những phòng tiếp tân lộng lẫy và những căn phòng riêng trông có vẻ khắc khổ.
Một tu sĩ dòng Saint Dominique hướng dẫn Ralph đi dọc theo những đại sảnh lát đá cẩm thạch, ngang qua vô số những bức tượng bằng đồng, bằng đá, tất cả xứng đáng có một vị trí trong viện bảo tàng. Phía sau là rất nhiều tranh được vẽ trên bức tường vĩ đại, tác phẩm của Giotto, Raphael, Botticelli và Fra Angelico.
Trong căn phòng màu vàng sáng chói, nổi bật lên là màu sắc của những bức tượng, những bức tranh, bàn ghế và thảm đều được đưa về từ Paris, Hồng Y Di Contini Verchese tiếp Ralph. Tổng giám mục De Bricassart quỳ xuống, hôn chiếc nhẫn.
– Con hãy ngồi xuống đây Ralph.
– Thưa Đức Hồng Y, con muốn được xưng tội.
– Khoan đã! Trước hết chúng ta phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Ở đây tai vách mạch rừng nhưng cũng may, rất hiếm tai nghe được tiếng Anh. Con hãy ngồi xuống đây Ralph. Ồ, thật là thú vị gặp lại con. Vắng con, ta càng thấy những lời cố vấn khôn ngoan, tư tưởng hợp lý và quan niệm rất hay về tình bạn… cần thiết như thế nào đối với ta. Cho tới nay chưa có người phụ tá nào ta có thể dành một phần nhỏ thôi tình cảm mà ta dành cho con.
Sự mệt mỏi kinh khủng mà Ralph đã trải qua mấy tuần lễ bỗng nhiên như cất khỏi đôi vai của ông; ông tự hỏi tại sao mình lại lo ngại quá nhiều về cuộc gặp gỡ này trong khi tận đáy lòng, Ralph dư biết rằng ông sẽ được thông cảm và tha thứ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Ông thấy mình đã làm thất vọng một người quá tốt – một người bạn đúng nghĩa của mình. Ralph phải đối đầu với một con người trong sáng trong khi chính mình không còn trong sáng nữa.
– Ralph, chúng ta là những người tu hành nhưng không chỉ là như thế; chúng ta không thể thoát khỏi số mệnh của bản thân mặc dù chúng ta khao khát những cái gì đó rất tuyệt đối. Chúng ta là những con người với những yếu đuối và sai sót của con người. Ta đoán trước sẽ không có điều gì trong những điều con sẽ kể cho cha nghe lại làm vẩn đục hình ảnh mà ta đã có về con trong suốt những năm chúng ta cùng sống chung nhau. Dưới mắt ta cũng sẽ không có điều gì có thể làm mất uy tín của con và làm mờ nhạt tình cảm mà ta đã gởi gắm cho con. Trong yếu đuối của chúng ta, về thân phận con người chúng ta, nhưng ta biết rằng rồi đây con sẽ hiểu vì tất cả chúng ta cuối cùng đều hiểu như thế, ngay cả Đức Thánh Cha là người khiêm tốn và nhân từ nhất cũng hiểu như thế.
– Con đã không giữ lời khấn của con, thưa Đức cha. Không dễ dàng tha thứ đâu. Đó là tội phạm thượng.
– Từ nhiều năm nay con đã phạm lời khấn nguyện sống thanh bạch khi nhận gia tài bà Mary Carson. Điều đó đã làm cho chúng ta xa rời sự trong sáng và sự vâng lời Chúa phải không?
– Như thế cả ba lời khấn đều bị vi phạm, thưa Đức cha.
– Ta vẫn thích được con gọi bằng Vittorio như xưa. Ta không lấy làm khó chịu mà cũng chẳng thấy có gì phải buồn lòng. Tất cả những chuyện ấy đều là ý muốn của Chúa, và ta nghĩ rằng rất có thể đây là một bài học lớn mà con nên nhận lấy với một thái độ đừng tự hành hạ mình quá đáng. Những ý định của Chúa không phải đều dễ hiểu. Nhưng ta nghĩ rằng con đã hành động không dễ dãi, rằng con không đầu hàng trước khi đã đấu tranh. Ta rất hiểu con. Ta biết con rất tự phụ, nhiễm nặng địa vị tu sĩ của mình, rất ý thức về nỗi khát khao tìm đến cái gì đó rất tuyệt đối. Do đó, có thể con cần một bài học như thế để hạ bớt sự kiêu căng của con, để cho con hiểu rằng trước hết con chỉ là một con người, cho nên nó sẽ không bao giờ được nhào nắn hoàn thiện như con nghĩ. Có phải như thế không?
– Thưa đúng thế. Con thiếu sự khiêm tốn và con có cảm tưởng, hiểu theo cách nào đó, con muốn trở thành Chúa Trời. Con phạm tội rất nặng và không thể tha thứ. Con không thể tha thứ cho chính con, vậy thì làm sao con hy vọng sự tha thứ của Chúa?
– Lại kiêu căng nữa rồi, Ralph à! Kiêu căng! Quyền tha thứ không thuộc về con, con vẫn chưa hiểu điều đó sao? Chỉ có Chúa mới có quyền tha tội. Chỉ có Chúa mà thôi. Và Chúa sẽ tha tội cho những ai biết ăn năn chân thành. Chúa đã từng tha tội nặng hơn cho những vị thánh và cho cả những tên vô loại. Con tưởng rằng Lucifer không được tha tội sao? Nó đã được tha tội ngay khi nó chống lại Chúa. Số phận của nó – trở thành Chúa tể địa ngục – là chính nó chọn lựa chớ không phải Chúa. Có phải chính nó đã nói: Thà ngự trị dưới địa ngục còn hơn là phụng sự trên thiên đàng. Bởi rằng nó không chiến thắng nổi sự kiêu căng của nó, nó không chấp nhận được ý muốn của nó khuất phục trước ý muốn của một ai khác, dù cho ai khác đó là Chúa. Ta không cho rằng con phạm một sai lầm giống như vậy, người bạn thân yêu của ta. Sự khiêm tốn là đức tính duy nhất còn thiếu ở con, nhưng nó lại là đức tính chính yếu của một vị thánh… hay một con người vĩ đại. Cho tới khi nào con chưa chịu trả lại cho Chúa quyền tha tội thì con chưa đạt tới sự khiếm tốn thật sự.
Gương mặt đầy nghị lực của Ralph co rúm lại.
– Thưa vâng, con biết rằng Đức cha nói đúng. Con phải tuyệt đối chấp nhận con người hiện hữu của con, phải nỗ lực sửa mình mà không tự kiêu về mình. Con xin ăn năn; như vậy con sẽ xưng tội và chờ được tha tội. Con rất ăn năn và ăn năn thật sự.
Ralph thở ra, đôi mắt của ông không giấu được sự xúc động trong lòng mà những lời lẽ ôn tồn đã thể hiện.
– Vittorio à, tuy nhiên, khi nghĩ lại, con thấy con không thể hành động khác hơn. Hoặc là con hủy diệt nàng, hoặc là con nhận lấy sự hủy diệt ấy về phần con. Lúc đó, con không có sự lựa chọn nào khác vì rằng con yêu nàng một cách chân thành. Hoàn toàn không phải lỗi ở nàng nếu con không tiếp tục từ chối nối dài tình yêu trên phương diện xác thịt . Thân phận của nàng đáng quan tâm hơn thân phận của con. Cho đến lúc đó, con cứ tự coi mình ở một vị trí cao hơn nàng vì con là kẻ tu hành và con coi nàng như một hạng người ít được quan tâm. Nhưng con hiểu ngay rằng con là người có trách nhiệm, về tình trạng hiện nay của nàng… Đáng lý, con phải tránh xa nàng khi nàng còn là một cô bé, nhưng con đã không làm như thế. Con đã đem nàng ẩn náu trong trái tim con và nàng biết điều đó. Nếu con thật lòng muốn rứt nàng ra khỏi cuộc đời con thì chắc chắn nàng cũng giã biệt và con đã mất hết tất cả ảnh hưởng đối với nàng. Đức cha thấy, con có đủ lý do để mà ăn năn… Con đã thử tạo ra một tác phẩm nho nhỏ riêng của con.
– Có phải Hoa Hồng không?
– Thưa Đức cha, đâu còn ai khác nữa? Nàng là sự toan tính sáng tạo duy nhất của con.
– Nhưng Hoa Hồng có đau khổ không? Làm như thế có phải chăng con tạo ra cho cô ấy nhiều đau khổ hơn là con hắt hủi cô ấy?
– Con không biết được, Vittorio. Con rất muốn biết sự thật ra sao! Nhưng trong lúc này, con không thể hành động khác hơn. Hơn nữa chuyện ấy xảy ra… một cách tự nhiên. Tuy nhiên con nghĩ rằng con đã cho nàng cái điều nàng cần thiết, đó là ý thức về nhân cách phụ nữ của nàng. àcon không phải nói rằng nàng không biết mình là một người phụ nữ, nhưng là chính con, con không nhận ra điều đó. Nếu khi con gặp nàng, nàng đã là một phụ nữ, thì mọi việc có lẽ đã diễn tiến khác hơn; nhưng rất tiếc con đã gặp nàng khi nàng là một cô bé.
– Con vẫn cho thấy mình tự phụ Ralph à và chưa sẵn sàng để được tha tội. Thật xót xa phải không? Ta xót xa mà nhìn thấy con quá nhân đạo để bị rơi vào sự yếu đuối của con người. Con có thật sự hành động với tinh thần hy sinh cao cả không?
Ralph giật mình. Ông nhìn vào hai con mắt u buồn trước mặt và thấy trong đó phản chiếu hai gương mặt thật nhỏ với kích thước không nghĩa lý gì.
– Không, thưa Đức cha – Ralph nhìn nhận. Con là con người và với tư cách một con người con đã khám phá ở nàng một sự hoan lạc không thể chối cãi. Trước đây con hoàn toàn không biết rằng sự tiếp xúc với một người phụ nữ lại có kết quả như thế và nó lại là nguồn gốc của một sự khoái lạc sâu đậm như thế. Con muốn mãi mãi không bao giờ xa nàng, không phải chỉ vì vấn đề thân xác, mà đơn giản chỉ vì con thích ở gần nàng… nói chuyện với nàng, hay không nói chuyện, được ăn những món ăn do nàng nấu, cười với nàng, chia sẻ những suy nghĩ của nàng. Con cảm thấy thiếu vắng nàng mãi mãi khi con còn sống trên cõi đời này.
Có một điều gì đó xuất hiện trên gương mặt khổ hạnh, u buồn của Hồng Y và không hiểu sao khiến cho Ralph nhớ đến nét mặt của Meggie vào lúc hai người chia tay nhau. Nó phản ánh sự vững vàng của một con người bất chấp mọi nỗi khổ đau, buồn phiền, và vất vả để cứ nhìn ra phía trước mà đi. Con người ấy, mặc áo màu tím, bình thường tình cảm tưởng như chỉ dành riêng cho con mèo cái giống Abyssinian, đã biết gì về chuyện thầm kín của Ralph?
– Con không thể nào sám hối về những gì Meggie đã mang lại cho con – Ralph tiếp tục nói trước sự im lặng của Hồng Y. Con chỉ sám hối vì đã vi phạm những lời khấn hệ trọng và không thể quên. Con biết từ nay con không thể nào đến với công việc thuộc trách nhiệm của con như trước kia, nhất là với một nhiệt tình như xưa. Về điều này, con rất ăn năn. Nhưng về những gì liên quan đến Meggie thì…
Sắc mặt của Ralph thay đổi hẳn khi nhắc đến tên Meggie khiến cho Hồng Y phải quay về hướng khác để giấu đi những dằn vặt trong đầu ông.
– Sám hối những gì thuộc về Meggie chẳng khác nào con đã giết nàng – Ralph nói tiếp cùng lúc đưa bàn tay lên che hai mắt một cách mệt mỏi – Con không biết con nói có rõ ràng không hoặc lời nói của con có phản ảnh trung thực suy nghĩ của con không. Thưa Đức cha, con luôn cảm thấy gần như bất lực khi phải thể hiện bằng lời những tình cảm của con dành cho nàng.
Ralph ngồi hơi nghiêng người ra phía trước trong khi ánh mắt của Hồng Y Di Contini Verchese chiếu thẳng về phía Ralph. Ralph chú ý thấy hai bóng nhỏ của mình trong đôi mắt của Hồng Y hình như trở nên lớn hơn một chút. Đôi mắt của Vittorio như hai cái gương, chúng chỉ phản chiếu những gì chúng thấy nhưng không để bất cứ điều gì người khác phát hiện những gì ẩn chứa trong đôi mắt. Ngược lại, đôi mắt của Meggie mở rộng để Ralph có thể đi thẳng vào tâm hồn nàng.
– Với con, Meggie như một phép lành. Đột ngột Ralph nói. Nàng là hình ảnh của một thứ thánh lễ khác.
– Vâng, ta hiểu. Hồng Y tán đồng và thở dài. Con nhìn ra được một tình cảm như thế là tốt. Ta nghĩ, dưới mắt của Đức Thánh cha điều đó sẽ làm giảm nhẹ lỗi của con. Ta khuyên con nên xưng tội với cha Giorgio sẽ có lợi ích cho con hơn là với cha Guillermo. Cha Giorgio sẽ không hiểu lầm những tình cảm và lý lẽ của con. Còn cha Guillermo trực giác vốn không mạnh và có thể đánh giá không đúng những gì con thật sự ăn năn. Họ cũng là những con người, Ralph thân mến à, những con người lắng nghe lời xưng tội. Con đừng quên điều đó. Chỉ trong cái khung cảnh mục vụ mà họ làm chức năng của họ: nơi ở của Chúa. Ngoài ra họ cũng là những con người. Sự tha tội mà họ ban cho cũng là của Chúa nhưng tai mà họ nghe và đánh giá vẫn thuộc về con người.
Có người mang trà vào.
– Con thấy ngoài đường phố ở Genoa và Roma có rất nhiều người mặc áo sơ mi đen – Ralph nhận xét trong khi nhìn Hồng Y pha trà.
– Đó là những đám người của lãnh tụ Mussolini. Chúng ta phải đối đầu với một thời ký khó khăn, Ralph thân mến. Đức Thánh cha ra lệnh không để xảy ra sự đoạn giao giữa Giáo hội với chính quyền àvà Người có lý trong mọi việc. Tình hình diễn biến thế nào, nhân danh Chúa, chúng ta vẫn phải giữ được tự do của mình để có thể trông nom các con chiên dù cho con chiên có bị chia rẽ trong một cuộc chiến tranh. Bất kể sự chọn lựa của con tim thế nào, chúng ta bắt buộc phải luôn luôn giữ cho Giáo hội đứng trên mọi biến động, mọi chủ thuyết chính trị và những tranh chấp quốc tế. Ta muốn con gắn bó với ta vì ta nhận thấy những gì xuất hiện trên gương mặt con sẽ không bao giờ phản bội lại những suy nghĩ trong đầu ở bất cứ hoàn cảnh nào. Con đã là một nhà ngoại giao khi mới sinh ra.
– Con không nghĩ mình sẽ thành công – Tổng giám mục De Bricassart nói. Rồi đây không ai tán đồng thái độ của chúng ta và mọi phía sẽ lên án chúng ta.
– Ta biết điều đó. Và Đức Thánh cha cũng biết. Nhưng chúng ta không thể hành động khác hơn. Tuy nhiên không có gì có thể cấm cản trong lòng chúng ta cầu nguyện cho Mussolini và Hitler sụp đổ nhanh chóng.
– Đức cha tin thật sự chiến tranh sẽ bùng nổ?
– Ta không thấy có cách nào tránh khỏi.
Drogheda vừa có được nhiều radio. Nhờ các tiến bộ khoa học mà cuối cùng Gillanbone đã đặt một đài phát thanh.
Mỗi sáng, Fiona, Meggie và Smith mở máy để nghe tin tức trong vùng và bản tin khí tượng.
Khi đài phát thanh quốc gia thông báo rằng hôm thứ sáu 1 – 9 – 1939, Hitler đã xâm lăng Ba Lan, lúc ấy chỉ Fiona và Meggie có mặt ở nhà, nhưng cả hai đều không quan tâm trước tin này. Châu Âu ở đầu kia thế giới, chẳng dính dấp gì đến Drogheda, trung tâm của vũ trụ. Nhưng chiều ngày ba tháng chín, thử tướng Úc Rober Gordon Menzies nói chuyện trên đài giải thích cho nhân dân hiểu được cuộc xâm lược Ba Lan cuối cùng đã buộc Anh tuyên chiến với Hitler và Úc không thể đứng ngoài cuộc xung đột.
Sau bài diễn văn của thủ tướng Úc, Bob phát biểu:
– Nếu tính luôn Frank, gia đình chúng ta có tất cả sáu người đàn ông. Ngoại trừ trường hợp Frank, tất cả chúng ta đều được coi là thợ chăn nuôi do đó không được gọi nhập ngũ. Trong số thợ chăn nuôi thuộc quyền chúng ta hiện nay, theo tôi chỉ có sáu người muốn lên đường và hai người ở lại.
– Em muốn đăng ký nhập ngũ! Jack nói to lên, mắt sáng ngời.
– Em cũng thế, tiếng nói của Hughie.
– Và cả hai đứa tụi này nữa! Jims khẳng định thái độ của mình và cho cả Patsy.
– Hợp lý hơn hết là Jims và Patsy vì cả hai trẻ nhất và ít kinh nghiệm nhất trong nghề chăn nuôi, và nếu nhập ngũ thì tất cả chúng ta đều là lính mới. Nhưng cả hai anh em đừng quên rằng mới mười sáu tuổi…
Mặc dù Jims và Patsy phản đối nhưng lúc đó chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary lên đường tòng quân.
Phải chờ thêm một năm nữa, chiến tranh mới xâm nhập vào cái thế giới bé nhỏ Drogeda. Trong một năm đó, từng người một, các thợ chăn nuôi từ giã trang trại lên đường nhập ngũ.
Đầu tháng sáu năm 1940, người ta được tin đoàn quân viễn chinh thuộc đế quốc Anh buột phải rút khỏi châu Âu qua ngã Dunkerque; những người tình nguyện vào lực lượng thứ hai Hoàng gia Úc đã đổ xô đến các trung tâm tuyển mộ. Trong số đó có Jims và Patsy, cả hai đăng ký ở Dubbo nhưng được chuyển đến trại huấn luyện ở Ingleburn, ngoại ô Sydney. Gia đình có mặt đông đủ để tiễn Jims và Patsy lên tàu hỏa.
Jims và Patsy được sung vào sư đoàn 9 Úc theo yêu cầu của họ và được gởi đến chiến trường Ai Cập đầu năm 1941, vừa kịp lúc tham gia vào trận Benghazi. Giữa lúc các lực lượng Anh rút lui dước áp lực của Afrika Korps – đoàn quân Đức quốc xã tinh nhuệ của tướng Rommel – thì sư đoàn 9 Úc được lệnh chiếm và tử chiến bảo vệ Tobruk.
Trong khi đó tại Drogheda, Meggie nhận được thư của Luke cho biết hắn vẫn làm cái công việc đốn mía, Luke nói rõ trong thư cho Meggie an lòng đừng sợ anh ta bị nhập ngũ. Nội dung bức thư cho thấy Luke coi như chẳng có gì xảy ra sau cái ngày Meggie đã nói với hắn như tát nước vào mặt tại khách sạn ở Ingham. Với một nụ cười chán ngấy, Meggie lắc đầu rồi ném lá thư của Luke vào giỏ giấy vụn.
Năm 1941 thật tệ hại cho Drogheda. Đây là năm thứ năm liên tiếp bị hạn hán. Meggie, Bob, Jack, Hughie và Fiona gần như bó tay. Tiền của trang trại Drogheda gởi trong ngân hàng vẫn đủ để mua thức ăn cứu sống những đàn cừu nhưng phần nhiều chúng lại không chịu ăn. Mỗi đàn cừu đều có một con đầu đàn, một thứ thủ lĩnh tự nhiên của chúng. Phải ép cho được con này chịu ăn thì các con còn lại mới ăn theo. Nhưng tình trạng nguy ngập đến nỗi có những lúc con cừu đầu đàn chịu ăn thế mà các con cừu còn lại vẫn không thèm ngó ngàng đến thức ăn để sẵn trong các bãi. Trang trại Drogheda chỉ còn giữ được một người thợ chăn nuôi duy nhất. Meggie phải có mặt bảy ngày trong một tuần ở các bãi chăn. Mặc dù Meggie dành rất ít thời giờ để chăm sóc Justine và Dane nhưng hai đứa trẻ vẫn được nuôi chu đáo. Nàng vẫn nghĩ lúc này Bob cần nàng nhiều hơn hai đứa con. Nhưng thật sự Justine và Dane rất thèm được mẹ ẵm bồng gần gũi. Có khi cả tuần liền Meggie không thấy mặt con vì từ các bãi chăn về nhà lúc nào trời cũng đã tối sẫm. Thế nhưng mỗi lần ngắm nhìn Dane, lòng Meggie xao xuyến lạ lùng. Thật là một thằng bé tuyệt vời, hình như luôn luôn mỉm cười với mẹ. Ở Dane thoát lên sự hân hoan và tự tin kết hợp với sự nghiêm nghị của người lớn. Ãt có chuyện gì có thể làm cho nó giận dữ. Dưới cái nhìn của Meggie có những lúc nó giống Ralph một cách đáng kinh ngạc nhưng rất may không ai chú ý điều này. Ralph đã rời Gillanbone từ lâu.
Justine rất yêu em. Dane muốn gì Justine cũng chìu. Khi Dane mới biết đi chập chững, Justine không rời em một bước.
Thiếu mẹ, Justine và Dane càng gắn bó với nhau.