Điện thoại reo. Lúc đó chín giờ sáng, Justine còn đang ngủ. Nàng thầm rủa phương tiện văn minh quỷ quái này, thề rằng sẽ cắt dây điện thoại không thèm sử dụng nó nữa.
Nhưng điện thoại vẫn reo liên tục Biết đâu người gọi đó là Rainer. ànghĩ đó kéo Justine trở về với cuộc sống.
– A lô, Justine O” Neill?
– Phải rồi, Justine đây.
– Chúng tôi là Hội người Úc ở Aldwych.
Justine thất vọng vì không phải Rainer.
– Vâng, tôi nghe rõ.
Nàng chưa tỉnh ngủ, tiếp tục ngáp, mắt vẫn nhắm.
– Em trai cô có phải là ông Dane O” Neill?
Mắt Justine mở ra.
– Đúng thế.
– Người đó đang ở Hy Lạp phải không cô O” Neill?
Hai chân của Justine đang đứng trên thảm như lún xuống.
– Vâng, đúng thế.
Justine không muốn nghĩ đến việc giải thích với người đang liên lạc rằng đó là linh mục O” Neill chứ không phải là ông O” Neill.
– Cô O” Neill, tôi rất tiếc phải báo với cô một tin không haỵ
– Một tin không hay? Một tin không hay à? Tin gì vậy? Có chuyện gì xảy ra? Dane đã bị gì?
– Tôi lấy làm tiếc mà tin cho cô hay rằng em trai của cô, ông Dane O” Neill đã chết đuối ở Crete, trong một tình huống rất dũng cảm. Theo những tin tức tôi nhận được, ông ấy chết trong khi cứu một người đang lâm nguy ở bờ biển. Tuy nhiên, như cô đã biết, Hy Lạp dang có biến động cách mạng và các tin tức mà chúng tôi nhận được không đầy đủ, rất có thể không chính xác.
Máy điện thoại đặt trên chiếc bàn, sát vách tường mà Justine đang dựa vào, hai đầu gối của nàng cứ mềm ra. Justine tụt dần xuống đất, ngồi thu mình trên sàn nhà nấc lên những tiến đứt quãng nghe như vừa là tiếng cười vừa là tiếng khóc hòa lẫn tiếng thở hổn hển mệt nhọc. Dane chết đuối… Dane chết… Crete , Dane, chết đuối… Chết… chết.
– Cô O” Neill? Cô còn đó không, cô O” Neill? Bên kia đầu dây hỏi dồn dập.
– Chết. Chết đuối… Em trai tôi!
– Cô O” Neill, hãy trả lời!
– Vâng, vâng, vâng! Trời ơi tôi vẫn ở đây.
– Theo chúng tôi biết, cô là thân nhân gần nhất của ông Dane O” Neill. Chúng tôi phải xin ý kiến của cô về việc giải quyết như thế nào. Cô O” Neill, cô vẫn chưa nghe chứ?
– Vâng, vâng…
– Cô muốn người ta giải quyết thế nào về xác ông ấy?
Xác! Em tôi là một cái xác! Và người ta cũng không cần phải nói rõ xác của em tôi mà chỉ là cái xác thôi. Dane, Dane của chị. Em là một cái xác.
– Thân nhân gần nhất của Dane? Tôi không phải là thân nhân gần nhất của Dane; tôi nghĩ đúng nhất là mẹ tôi.
Ngừng một lúc.
– Thế thì rất phiền phức, cô O” Neill. Nêu cô không phải là thân nhân gần nhất của ông ấy, chúng tôi lại mất thêm một thời gian quí báu. Hình như cô không hiểu hiện nay cuộc cách mạng đang bùng nổ ở Hy Lạp và tai nạn lại xảy ra ở đây. Mọi liên lạc giữa đảo này với Athens hoàn toàn bị cắt và chúng tôi nhận được lệnh phải báo cho biết quyết định của thân nhân gần nhất liên quan đến thi thể nạn nhân. Mẹ cô có ở đấy không? Tôi có thể nói chuyện với bà không, rất cảm ơn.
– Nhưng mẹ tôi không có ở đây; bà hiện ở Úc.
– Ở Úc? Trời ơi, càng lúc càng rắc rối! Chúng tôi lại phải gởi một bức điện sang Úc, lại trễ nữa. Nếu cô không phải là thân nhân gần nhất, cô O” Neill, thì tại sao em trai cô lại ghi tên cô nơi dành để ghi chú chi tiết này trên sổ thông hành?
– Tôi không biết – nàng nói, bất chợt nàng nhận ra mình đang cười.
– Cô cho tôi địa chỉ của mẹ cô ở Úc, chúng tôi sẽ đánh điện tín cho bà hay. Chúng tôi phải biết được một cách dứt khoát cách giải quyết thi thể của ông Dane như thế nào. Việc trao đổi điện tín trễ mất ít nhất cũng mười hai tiếng đồng hồ. Tôi rất mong cô hiểu cho. Mọi chuyện đã khó khăn rồi không kể việc bất trắc này nữa.
– Vậy ông nên gọi điện thoại cho mẹ tôi. Đừng mất thì giờ với những bức điện tín.
– Quỹ của chúng tôi không cho phép sử dụng các cuộc điện đàm quốc tế, cô O” Neill ạ. Người liên hệ ở đầu dây nói bằng một giọng gay gắt. Xin cô vui lòng cho tôi địa chỉ của mẹ cô.
– Bà Meggie O” Neill, Drogheda, Gillanbone, New South Wales, Úc.
Nàng nói một hơi như đọc kinh.
– Một lần nữa, tôi xin thành thật chia buồn cùng cô O” Neill.
Justine buông điện thoại, ngồi phệt xuống đất. Chắc có một sự lầm lẫn nào đó, rồi tả cả chuyện này sẽ sáng tỏ. Dane bị chết đuối trong khi Dane lại lội giỏi như cá? Không, không thể được.
Nhưng đó là sự thật, Justine ơi, mày biết rõ như thế; mày từ chối không đi với Dane để bảo vệ Dane và Dane đã chết đuối. Mày là người che chở của Dane từ khi Dane còn bé và đáng lý mày phải có mặt ở đó. Nếu mày không thể cứu Dane thì mày cũng nên có đó để chết cùng Dane. Thế mà mày đã không đi cùng với Dane, chẳng qua chỉ vì mày muốn về Luân Đôn để ngủ với Rainer.
Thật khó tưởng tượng. Tất cả đều rất khó. Không có bộ phận nào trong người nàng chịu hoạt động, kể cả đôi chân. Justine ngồi dưới đất. Nàng không thể ngồi dậy. Nàng sẽ không bao giờ ngồi dậy được nữa. Trong tâm tưởng của nàng không có chỗ dành cho ai khác ngoài Dane, đâu óc nàng quay tròn càng lúc càng hẹp lại chung quanh Dane. Ôi, lạy Chúa! Tin tức sẽ về đến đó, sẽ gây đau thương cho mẹ và cho tất cả những người khác. Mẹ không có được niềm hạnh phúc ngắm nhìn lần cuối cùng gương mặt ngây ngất, nhập thần của Dane tại La Mã. Bức điện tín có thể đến đồn cảnh sát ở Gilly, nàng nghĩ bụng. Và ông trung sĩ già Ern sẽ lên xe hơi đi suốt đoạn đường dài đến Drogheda để báo với mẹ rằng con trai của bà đã chết. Ông ấy không phải là người thích hợp với nhiệm vụ này, ông là người xa lạ. Thưa bà O” Neill, tôi xin phép được bày tỏ những lời chia buồn xúc động nhất, con trai bà đã chết. Những lời lẽ lễ phép, khuôn sáo, rỗng tuếch… Không! Tôi không thể để xảy ra như thế, bà cũng là mẹ của tôi! Không thể theo cái cách mà tôi đã nhận hung tin, không thể theo cách đó.
Nàng đặt máy điện thoại lên đầu gối, cầm ống nghe và quay số điện đàm quốc tế.
Chính Meggie nghe điện thoại, lúc ấy đã khuya. Fiona đã đi ngủ. Thời gian gần đây bà thường về phòng sớm, thích ngồi trên giườn nghe tiếng dế và ếch kêu rồi ngủ gà ngủ gật trên cuốn sách và nhớ lại chuyện xưa.
– A lô?
– Thưa bà O” Neill, có điện thoại từ Luân Đôn. Tiếng nói của Hazel từ tổng đài ở Gilly.
– A lô, có phải Justine không? Meggie hỏi một cách bình thản vì thỉnh thoảng Justine vẫn điện thoại hỏi thăm bà.
– A lô, thưa mẹ. Có phải mẹ không?
– Mẹ đây, Meggie trả lời dịu dàng, bà nhận ra lời nói hoảng hốt của con gái.
– Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi, Dane chết rồi, Dane chết rồi mẹ ơi!
Vực thẳm lộ ra dưới chân Meggie, và bà rơi xuống đó, tiếp tục rơi mãi, bởi vực thẳm không có đáy. Bà có cảm giác như mặt đất đã khép kín lại trên đầu và bà nhận ra rằng bà sẽ không bao giờ trồi lên được cho đến ngày nào bà vẫn còn sống. Các thánh thần còn có thể làm gì hơn nữa? Bà không biết được điều đó khi đặt ra câu hỏi. Nhưng tại sao bà lại đặt ra một câu hỏi như thế; tại sao bà lại không thể biết trước điều đó? Đừng thách thức các thánh thần, các vị chỉ chờ có thế. Chối từ đi La Mã để chia sẻ giây phút hạnh phúc nhất của đời con mình. Bà tưởng rằng như thế là đã nộp xong cống vật.
– Justine, con thương yêu, con hãy bình tĩnh. Meggie khuyên con giọng đều đều không thay đổi. Con bình tĩnh lại và nói rõ cho mẹ biết chuyện gì đã xảy ra. Con có biết chắc như thế không?
– Hội người Úc gọi điện thoại cho con… Họ tưởng rằng con là người thân nhất của Dane. Một thằng cha tàn nhẫn cứ hỏi luôn miệng con muốn giải quyết ra sao thi thể của Dane.
– Chuyện xảy ra như thế nào Justine? Ở đâu? ở La Mã à? Tại sao Ralph không gọi cho mẹ?
– Thưa mẹ không phải ở La Mã. Rất có thể Đức Hồng Y không hay biết. Ở Crete. Người đàn ông gọi điện thoại cho con bảo rằng Dane chết đuối trong lúc cứu một người khác. Con muốn ở lại Luân Đôn đóng vai Desdemona. Con muốn ở lại với Rainer. Phải chi con cùng đi với Dane! Phải chi con ở bên cạnh em con, biết đâu sẽ không có chuyện gì xảy ra. Ôi Chúa, bây giờ phải làm gì đây thưa mẹ?
– Dừng lại Justine! Meggie cản ngăn con một cách trìu mến. Đừng lẩn quẩn với ý nghĩ không hay nghe không? Dane rất ghét như thế, con biết rõ mà. Tai họa giáng xuống và chúng ta cũng không biết tại sao nhưng bây giờ con phải bình tĩnh lại, mẹ có mất cả hai con đâu. Con là tất cả những gì còn lại của mẹ. Justine con của mẹ. Justine! Sao con ở xa mẹ thế. Thế giới quá rộng lớn, quá rộng lớn. Con hãy trở về Drogheda, mẹ không muốn con cô độc một mình.
– Không thể được, mẹ. Con phải làm việc. Công việc là chiếc phao duy nhất hiện nay của con. Nếu không làm việc, con sẽ điên mất. Con không muốn gặp ai hết, con không cần sự an ủi, mẹ ạ! Làm sao chúng ta có thể sống được khi thiếu Dane?
– Justine thương yêu của mẹ, đừng khóc nữa. Con ráng dằn nỗi đau xuống. Dane không muốn con khóc như thế đâu, con dư biết điều đó mà. Con hãy trở về nhà và quên đi. Chúng ta sẽ đưa Dane về Drogheda, thế là tự nhiên Dane lại thuộc về mẹ. Giáo hội không có quyền ngăn trở mẹ, họ không có quyền. Mẹ sẽ gọi điện thoại cho hội người Úc ngay tức khắc và tòa đại sứ của ta tại Athenes nếu vẫn có thể liên lạc. Dane phải trở về nhà! Mẹ không muốn em con nằm xuống ở một nơi nào khác hơn là Drogheda. Chỉ có ở đây mà thôi và Dane phải về đây. Con cũng về ngay với em con chứ, Justine?
Ngồi dưới đất, Justine lắc đầu như thể mẹ nàng có thể nhìn thấy. Trở về nhà ư? Nàng sẽ không bao giờ về nhà. Nếu có Justine đi theo thì Dane đã không chết. Về nhà và phải nhìn nét mặt của mẹ suốt cuộc đời còn lại sao? Không, ngay trong ý nghĩ nàng đã không thể chịu đựng nổi điều đó.
– Không đâu, mẹ – Justine nói, gương mặt đầy nước mắt – Con sẽ ở lại đây và làm việc. Con sẽ trở về nhà với Dane nhưng sau đó con lại qua Luân Đôn, con không muốn sống ở Drogheda.
Ba ngày liên tiếp, mọi người chìm trong thứ không khí hoang mang và trống rỗng. Justine ở Luân Đôn, Meggie và gia đình ở Drogheda; tin tức về cái chết của Dane bị gián đoạn đã kéo dài hy vọng về một điều không thể xảy ra. Justine tưởng tượng Dane sẽ đập của phòng của nàng bước vào mỉm cười, giải thích chẳng qua là một sự lầm lẫn nào đấy. Tình hình Hy Lạp đang sôi sục, có biết bao nhiêu tin tức không chính xác kia mà.
Bốn ngày sau khi Justine nhận được tin tức về Dane, Justine như một cô gái già. Một buổi sáng nàng mệt mỏi nhắc điện thoại lên và xin liên lạc với Úc.
– Có phải mẹ không?
– Justine đó hả?
– Con đây, thưa mẹ. Dane đã được an táng, thế là chúng ta không thể đưa Dane về Drogheda. Bây giờ mình phải làm gì hả mẹ? Nhà chức trách không cho biết gì thêm mà cứ lặp lại là đảo Crete rất rộng và không biết được vùng đất Dane nằm là gì. Khi con nhận được điện tín, thì Dane đã đem đi chôn cất. Ngôi mộ của Dane ở một nơi nào đó người ta không nói rõ và trên bia không ghi một chữ nào. Con không xin được hộ chiếu đi Hy Lạp, không ai giúp con, đúng là hỗn loạn. Mình làm gì bây giờ hở mẹ?
– Con đến La Mã gặp mẹ, Justine, – Meggie nói với con gái.
Mọi người – ngoại trừ Anne Mueller – đều vây quanh điện thoại, trên mặt lộ rõ đau thương. Chỉ mới ba ngày mà thấy mấy người đàn ông trong nhà như già thêm hai mươi tuổi. Fiona thì co quắp lại như một con chim bị bệnh, xanh xao. Ba cau có, đi tới đi lui trong nhà, miệng lẩm bẩm:
– Tại sao tôi không chết thay cho nó? Tại sao nó phải chết? Tôi già rồi, già quá rồi! Để cho tôi ra đi có phải là đơn giản hơn không. Tại sao lại là nó mà không phải tôi?
Meggie lặng nhìn mọi người và đặt điện thoại xuống. Drogheda còn lại bấy nhiêu người và chỉ có bấy nhiêu, một nhóm nhỏ đàn ông lẫn đàn bà lớn tuổi mệt mỏi và không còn có thể sinh nở gì được.
– Dane đã mất rồi. Meggie nói. Không ai có thể tìm ra thi thể Dane được. Nó được chôn cất ở một nơi nào đó trên đảo Crete xa xôi! Không thể để Dane nằm xuống ở một nơi xa Drogheda đến thế? Tôi sẽ đi La Mã ngay gặp Ralph. Ông ấy là người duy nhất có thể giúp chúng tạ
Linh mục bí thư của Hồng Y De Bricassart bước vào phòng.
– Thưa Đức cha, con xin lỗi làm bận rộn Đức cha, nhưng có một bà nhất định muốn gặp cho được Đức cha. Con có giải thích với bà ấy rằng Đức cha đang chủ trì hội nghị giám mục, rằng Đức cha đang rất bận và không thể tiếp bất cứ ai lúc này. Nhưng bà ấy khăng khăng rằng bà sẽ ngồi mãi trước cửa phòng của Đức cha cho đến khi nào Đức cha có thể tiếp.
– Theo cha thì bà ấy có gặp chuyện phiền phức không?
– Chắc là bà gặp chuyện phiền phức lớn thưa Đức cha. Bà yêu cầu con nói với Đức cha tên bà là Meggie O” Neill.
Hồng Y De Bricassart đứng phắt dậy; mặt ông biến sắc, trắng bệch như mái tóc đã ngả màu. Còn vị linh mục bí thư thì hốt hoảng:
– Thưa Đức cha, Đức cha có sao không?
– Không có gì đâu cha. Tôi vẫn bình thường xin cảm ơn. Cha hãy hủy bỏ các cuộc hẹn cho đến khi có lệnh mới và cha mời bà O” Neill vào đây ngay. Đừng để cho ai quấy rầy, ngoại trừ Đức Thánh cha có chuyện gì cần đến.
Linh mục nghiêng người chào cha Ralph và bước ra.
Meggie bước vào, suýt chút nữa Ralph nhìn không ra. Mười ba năm rồi, ông không gặp lại Meggie. Bã đã năm mươi ba tuổi, còn ông bảy mươi mốt, không phải chỉ riêng mình Ralph mà cả Meggie cũng đã già. Trên gương mặt của Meggie ít có nét thay đổi nhưng sự nghiêm khắc đã thay thế cho sự dịu dàng; sự cứng rắn thay thế cho tâm lý âu yếm. Bà là hình ảnh của một người tử vì đạo rắn rỏi, có tuổi và cương quyết hơn là một nữ thánh vốn nhẫn nhục và trầm tư trong những giấc mơ của mình. Meggie vẫn đẹp lạ lùng hơn bao giờ hết, đôi mắt lanh lẹ vẫn màu nâu và mái tóc rực rỡ ngả sang màu xám nâu nhạt, hơi giống màu tóc của Dane. Và càng ngạc nhiên hơn, Meggie lại từ chối nhìn Ralph đủ lâu để ông có thể thỏa mãn sự khao khát sau bao nhiêu năm không gặp.
Trước một Meggie như xa lạ ấy, Ralph không thể nào đón tiếp tự nhiên được, ông chỉ cho bà ghế ngồi và không trở lại được cách xưng hô thân mật xưa kia.
– Mời bà ngồi.
– Cảm ơn, – bà nói cũng cầu kỳ không kém.
Khi Meggie ngồi xuống, ông có thể nhìn rõ bà và nhận ra bàn chân và cổ chân của Meggie sưng lên rất dữ.
– Meggie! ông kêu lên. Em đã đến thẳng… Không dừng lại nơi nào hết à? Có chuyện gì thế?
– Vâng, tôi đến thẳng đây. Suốt hai mươi chín giờ đồng hồ ngồi trên các máy bay từ Gilly đến La Mã tôi không biết làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng và suy nghĩ.
– Có chuyện gì? Ông lặp lại, sốt ruột, lo âu, sợ hãi.
Bà ngước nhìn lên, nhìn thẳng Ralph.
Trong đôi mắt lạnh lùng của Meggie, có cái gì đó thê thảm tận cùng khiến cho Ralph phải ớn lạnh. Ông đưa bàn tay đặt lên sau cổ.
– Dane đã chết. – Meggie nói.
Bàn tay đeo chiếc nhẫn Hồng Y tụt xuống, rơi thẳng trên đầu gối như bàn tay một con búp bê nhồi trấu, toàn thân ông mềm nhũn trên chiếc ghế bành.
– Chết à? Ông hỏi chậm rãi. Dane chết?
– Vâng. Nó chết đuối cách đây sáu ngày ở đảo Crete trong khi bơi ra cứu hai cô gái bị nước cuốn.
Ông nghiêng người ra phía trước, hai bàn tay đưa lên, chạm mặt.
– Chết? Miệng ông ấp úng. Dane! Dane chết? Thằng bé tuyệt vời ấy… Nó không thể chết được! Dane… linh mục hoàn toàn… tất cả những gì tôi không thể có được… Nó có tất cả những gì tôi không có… Nó luôn luôn có được điều đó… Chúng tôi đều biết như thế… Tất cả chúng tôi đều không phải là những linh mục thật hoàn chỉnh. Chết rồi ư? Ôi, Đức Chúa Trời nhân ái!
– Ông không có gì phải lo lắng về Đức Chúa Trời nhân ái của ông, Ralph ạ! Người phụ nữ có vẻ xa lạ ngồi trước mặt ông lên tiếng – Ông có chuyện khác cần làm hơn. Tôi đến đây để yêu cầu sự giúp đỡ của ông… chứ không phải làm chứng cho sự đau xót. Trong suốt những giờ ngồi trên máy bay, tôi không ngừng lặp đi lặp lại những lời lẽ mà tôi sẽ phải nói để báo tin này cho ông… Tất cả những giờ phút ấy tôi không thể làm gì khác hơn là nhìn mây qua cửa kiếng. Dane đã chết rồi. Sau một thử thách ghê gớm như thế, tôi chẳng cần gì đến nỗi đau xót của ông.
Khi Ralph ngước đầu lên thì trái tim tưởng chừng như chết lịm và băng giá của Meggie giật nẩy lên, se thắt lại. Đúng là gương mặt của Dane rồi nhưng sao lại hằn lên nét đau khổ.
– Anh có thể giúp được gì cho em, Meggie? ông hỏi giọng đều đều, kìm chết xúc động để có thể trở lại với vai trò người chăm lo về mặt tinh thần.
– Hy Lạp đang sôi sục cách mạng. Người ta chôn Dane một nơi nào đó ở Crete mà tôi không biết, chôn lúc nào tôi cũng chẳng hay. Vì không thể liên lạc, nên người ta tưởng nó đơn độc trên cõi đời này. Tôi muốn người ta trả lại con cho tôi, Ralph. Tôi muốn người ta tìm Dane và đưa trở về nhà để nó được yên nghỉ trên mảnh đất Drogheda thân yêu. Tôi đã hứa với Justine rằng em của nó sẽ được chôn ở Drogheda và chắc chắn phải như thế, cho dù tôi buộc phải đi bằng đầu gối tìm kiếm Dane khắp các nghĩa trang ở Crete. Không bao giờ tôi để cho nó nằm trong một ngôi mộ của người tu hành ở La Mã này. Không thể có chuyện đó ngày nào tôi còn thở để đòi lấy sự hợp lý này. Nó phải về nhà thôi, Ralph ạ.
– Không ai tước đi quyền ấy của em, Meggie – ông nói dịu dàng – Giáo hội chỉ buộc Dane được yên nghỉ trên đất thánh. Anh cũng thế, anh muốn được nằm xuống ở Drogheda.
– Tôi không mất thời gì vì những chuyện thủ tục hợp pháp – Bà nói tiếp không thèm để ý đến câu trả lời của Ralph – Tôi không biết nói tiếng Hy Lạp và cũng chẳng có quyền hành hay ảnh hưởng gì tại đây. Do đó, tôi phải nhờ vào quyền hành và ảnh hưởng của ông. Hãy mang trả lại con trai cho tôi, Ralph.
– Em đừng quá lo lắng, Meggie, Dane sẽ được trả lại cho em, nhưng có lẽ phải mất một ít thời gian. Cánh tả đang cầm quyền ở Hy Lạp và hiện nay họ chống giáo hội gay gắt. Tuy nhiên anh không thiếu bạn bè ở đấy và có thể giúp được. Em cứ để cho anh tiến hành ngay và đừng lo lắng nữa. Đây là chuyện liên quan đến Nhà thờ công giáo và người ta sẽ giao trả Dane cho chúng ta.
Đưa tay định nắm dây kéo chuông để gọi linh mục bí thư, nhưng trước cái nhìn lạnh lùng của Meggie, ông ngừng tay lại.
– Ông không hiểu gì hết, Ralph. Tôi không yêu cầu ông cho tiến hành. Tôi muốn lấy lại con tôi… Không phải trong tuần lễ tới hay tháng tới, mà ngay tức khắc. Ông biết nói tiếng Hy Lạp cũng như có thể xin các giấy nhập cảnh cho ông và cho tôi một cách dễ dàng. Tôi muốn ông cùng đi với tôi sang Hy Lạp ngay và ông giúp tôi tìm lại con tôi.
Ãnh mắt của Ralph chứa đựng nhiều tình cảm lẫn lộn: âu yếm, trắc ẩn, xúc động, xót xa. Trong ánh mắt ấy còn có cả sự tỉnh táo.
– Meggie, anh thương con em như con của anh, nhưng anh không thể rời La Mã lúc này. Anh không được tự do hành động theo ý muốn của anh… Đáng lý em biết rõ điều đó hơn ai hết. Tình cảm của anh đối với em thế nào em đã rõ và dù nỗi đau khổ của anh có nặng trĩu đến đâu, anh vẫn không thể rời La Mã ngay giữa thời kỳ hội nghị! Hội đồng giám mục. Anh đang làm phụ tá cho Đức Thánh Cha.
Ngồi bật ra phía sau, bàng hoàng như bị xúc phạm, Meggie lắc đầu, nhếch miệng cười mỉm cay đắng như đang chứng kiến một trò hề. Nàng bắt đầu run lên, liếm môi như sắp lấy một quyết định rồi ngồi thẳng, ngay ngắn, cứng nhắc.
– Có thật ông thương con của tôi như nó là con của ông không, Ralph? ông sẽ hành động ra sao nếu đó là con của chính ông? Có thể nào ông lại tiếp tục ngồi đây và nói với mẹ của nó rằng “Không, tôi lấy làm tiếc; tôi không thể nào bỏ công việc đượcâ€. Ông có thể nói như thế với mẹ của con ông chứ?
Đôi mắt của Dane – nhưng thật thật ra không phải của Dane – nhìn bà, hốt hoảng, tràn đầy đau khổ, bất lực.
– Anh không có con, ông nói. Nhưng anh đã học ở con em rất nhiều điều như phải biết vượt qua những khó khăn tệ hại nhất và luôn hướng về Chúa bằng tấm lòng chân thật.
– Dane chính là con của ông, – Meggie đột ngột nói.
Ralph nhìn bà bằng cái nhìn trống rỗng, nói hoảng hốt:
– Cái gì?
– Tôi muốn nói rằng Dane chính là con của anh. Khi em rời khỏi Matlock, em đã có thai, Dane là con của anh chứ không phải của Luke O” Neill.
– Không thể… như thế được!
– Em không có ý định nói cho anh biết điều đó, ngay cả bây giờ em cũng chẳng muốn nói như thế đâu. Anh nghĩ em nói láo với anh chăng? Để làm gì?
-… Để tìm cách lấy lại Dane? Đúng thế. ông nói bằng một giọng rất thấp.
Meggie bước tới, đứng trước Ralph. Giờ đây ông ta chỉ còn là một khối bất động trong chiếc ghế bành bọc gấm màu vàng rực. Meggie cầm đôi bàn tay gầy, nhăn nheo đặt vào tay mình, nghiêng mình xuống và hôn chiếc nhẫn, hơi thở làm mờ viên hồng ngọc.
– Ralph à! Trên tất cả những điều thiêng liêng nhất, em xin thề rằng Dane là con của anh. Nó không phải và không thể nào là con của Luke được. Em xin thề với anh điều đó. Em xin thề trên vong hồn của con chúng ta như thế.
Tếng kêu rên siết của Ralph chẳng khác gì lời than vãn của một linh hồn vừa bước qua các cửa địa ngục. Ralph tuột khỏi chiếc ghế, buông người sụp xuống tấm thảm đỏ thắm, ông khóc, gương mặt giấu trong hai cánh tay khoanh lại, những ngón tay bấu chặt vào tóc.
– Phải, anh cứ khóc đi! Meggie nói. Bây giờ anh đã biết rồi thì anh cứ khóc! Cũng đúng thôi, một trong những người thân nhất của Dane được nhỏ những giọt nước mắt cho con. Khóc đi, Ralph. Trong suốt hai mươi sáu năm, em đã có đứa con, con của anh; nhưng còn anh thì không hề hay biết nó là con của anh. Anh không nhìn ra, anh không nhận ra nó là anh, là một nửa con người của anh! Khi mẹ em kéo Dane ra khỏi bụng em, mẹ đã biết ngay nó là con của anh, nhưng anh thì không hề biết. Bàn tay của anh, bàn chân của anh, gương mặt của anh, thân hình của anh. Chỉ có màu tóc là của em. Bây giờ thì anh đã hiểu rồi chứ? Khi em gởi Dane đến đây, em đã nói trong bức thư gởi anh: “Cái gì em đã đánh cắp của anh, em xin trả lại cho anh. Anh còn nhớ chứ? Cả hai chúng ta đã ăn cắp Dane, anh ạ. Chúng ta đã ăn cắp cái mà anh đã hiến cho Chúa, do đó cả hai chúng ta phải trả giá mà thôi.
Meggie quay trở lại ngồi vào chiếc ghế của mình, khắc khổ, tàn nhẫn, nhìn khối đỏ chói nằm rên rỉ dưới đất.
– Em đã yêu anh, Ralph, nhưng anh chưa bao giờ thuộc về em cả, Dane là tất cả những gì mà em có thể giành được ở anh. Em đã thề rằng anh sẽ không bao giờ biết được điều đó, rằng anh không bao giờ có khả năng lấy lại. Thế nhưng, nó đã tự nguyện về với anh, do chính ý muốn của nó. Nó coi anh như là hình ảnh của một linh mục lý tưởng. Em suýt nữa cười phì! Nhưng không đời nào em lại trao cho anh một thứ vũ khí bằng cách thú nhận với anh nó là con của anh, trừ khi sự việc đã xảy ra như thế này thì em mới thấy cần phải nói với anh điều đó, mặc dù bây giờ cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Dane không thuộc về ai trong hai chúng ta mà thuộc về Chúa.