Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai

Chương 34

Tác giả: Colleen McCulough

Tổng giám mục De Bricassart đi xuống ngả cầu thang riêng của giáo đường Thánh Pierre, ngả mà trước đó ông đã đi vào. Đột ngột nghe có tiếng ai đó thở hổn hển, ông chiếu thẳng chiếc đèn pin về hướng đó. ánh sáng làm lộ ra tác phẩm điêu khắc đẹp nhất: tượng Đức bà đau khổ của Michel Ange. Nhưng ở dưới gương mặt bất động ấy có một gương mặt khác, không phải bằng đá hoa nhưng bằng xương bằng thịt, nổi bật giữa bóng đêm như một chiếc đầu lâu.

Tổng giám mục mỉm cười gọi khẽ bằng tiếng Đức, không có tiếng trả lời nhưng ông nhìn kỹ thấy bộ quân phục binh nhì linh bộ binh Đức.

– Wie geht” s – Ônng hỏi vẫn với nụ cười.

Người lạ mặt hơi giật mình, bước ra khỏi bóng tối. Trên vầng trán thông minh có những giọt mồ hôi.

– Du bist brank? Tổng giám mục lại hỏi anh thanh niên có phải bị bệnh không?

Có tiếng trả lời:

– Nein (không).

Tổng giám mục De Bricassart đặt cây đèn pin xuống đất và tiến đến gần, ông đưa tay nâng nhẹ cằm của người lính lên để nhìn rõ đôi mắt u buồn của anh ta.

– Có chuyện gì? ông hỏi bằng tiếng Đức.

– Con đến để cầu nguyện, anh thanh niên giải thích bằng một giọng nói vùng Bavarian hơi nặng.

– Thế thì chuyện gì đã xảy ra? Có phải anh bị kẹt trong này khi Nhà thờ đóng cửa?

– Vâng, nhưng không phải điều đó làm con lo.

Tổng giám mục cúi xuống cầm đèn lên.

– Dù sao anh cũng không thể ở ngoài này suốt đêm và tôi cũng có chìa khóa cổng. Tình cờ tôi đến đây cũng để cầu nguyện. Bộ chỉ huy tối cao của anh đã dành cho tôi một ngày thật gay go. Đi ngõ này, đúng. Hy vọng rằng những người canh gác sẽ không hiểu lầm rằng tôi đã bị bắt giữ và họ sẽ nhận ra chính tôi hộ tống anh chứ không phải anh hộ tống tôi.

Cuối cùng, Tổng giám mục đưa người thanh niên vào một phòng tiếp khách nhỏ bày diện rất giản dị. Ông chỉ bật sáng một bóng đèn nhỏ và đóng cửa lại.

Hai người nhìn nhau. Anh lính Đức nhìn thấy một người đàn ông cao lớn, gương mặt thanh tú, mắt xanh và sắc. Tổng giám mục nhìn thấy một cậu bé lỏng thỏng trong bộ quân phục mà cả châu Âu đã bắt đầu khiếp sợ. Đúng là một cậu bé, chắc chắn không quá mười sáu tuổi. Chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh, hai cánh tay rất dài.

– Anh ngồi xuống đi, ông vừa nói vừa đi đến chiếc tủ nhỏ lấy ra chai rượu vang trắng Marsala.

Tổng giám mục rót rượu vào hai ly, trao cho anh thanh niên một, rồi ông ngả lưng vào chiếc ghế bành trong tư thế có thể quan sát thoải mái nét mặt có sức thu hút của người khách.

– Nước Đức chẳng lẽ bắt buộc phải động viên cả những trẻ con? ông vừa nói vừa ghác chéo hai chân.

– Con không biết, cậu trai trả lời. Con đang ở trong cô nhi viện và con muốn ra khỏi nơi đó bằng mọi cách.

– Con tên gì?

– Rainer Moerling Hartheim, anh thanh niên trả lời không giấu vẻ tự hào.

– Thật là một cái tên đẹp tuyệt, vị tu sĩ nhận xét nghiêm trang.

– Thưa, đẹp thật sự phải không? Chính con đã chọn cái tên ấy. Ở cô nhi viện người ta gọi con là Rainer Schmidt nhưng khi con bị động viên, con đã đổi tên ấy bằng một cái tên mà con vẫn ao ước.

– Cha mẹ con đều mất?

– Các dì phước gọi con là đứa con của tình yêu.

Tổng giám mục cố nín cười. Cậu trai tỏ ra có phẩm cách và tự tin sau khi sự sợ hãi không còn thấy trên gương mặt. Thế thì lúc nãy, cậu ta sợ hãi điều gì?

– Tại sao lúc nãy con tỏ ra quá sợ hãi, Rainer?

Anh lính trẻ hớp một ngụm rượu, rồi ngước mặt nhìn lên với vẻ hài lòng.

– Ngon tuyệt. Rượu rất dịu. Con muốn được nhìn tận mắt Giáo đường Thánh Pierre vì rằng các dì phước đã nhắc đến luôn và cho xem nhiều ảnh. Vì vậy khi con được đưa sang La Mã con rất vui mừng. Chúng con vừa đến buổi sáng, liền sau đó con tìm cách đến đây. Nhưng con đã thất vọng. Con tưởng sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa hơn trong chính Nhà thờ của Chúa; trái lại ở đây quá to lớn và lạnh lẽo. Con không cảm nhận được sự hiện diện của Chúa.

Tổng giám mục cười.

– Ta hiểu con muốn nói gì – Nhưng Giáo đường Thánh Pierre không phải là một Nhà thờ đúng nghĩa của nó. Giáo đường Thánh Pierre là Giáo hội. Chính ta cũng phải trải qua một thời gian khá lâu để tập cho mình quen với suy nghĩ đó.

– Con muốn cầu nguyện hai điều.

– Về những điều làm con sợ hãi?

– Dạ. Con nghĩ rằng chỉ riêng việc con được ở trong Giáo đường này cũng đã có thể giúp con.

– Nhưng điều gì làm cho con sợ hãi, Rainer?

– Người ta đã phát hiện con là người Do Thái và đơn vị của con rồi sẽ bị gởi sang mặt trận Nga.

– Ta hiểu và không ngạc nhiên về sự sợ hãi của con. Có cái gì cụ thể để người ta tố cáo con là người Do Thái?

– Đức cha cứ nhìn con! Cậu con trai trả lời đơn giản. Vào lúc con đăng ký vào quân đội, khi làm lý lịch của con, họ có nói cần phải kiểm tra lại. Con không đoán được họ có khả năng làm việc đó hay không, nhưng con đặt giả thiết các dì phước biết rất nhiều so với những điều các dì nói với con.

– Con hãy nói cho ta biết về con, Rainer.

Trên gương mặt trẻ trung ấy hiện lên một nét tự hào lạ lùng.

– Con là người Đức và công giáo. Con mong muốn nước Đức trở thành một nước mà các vấn đề chủng tộc và tôn giáo không đưa đến những sự ngược đãi và đàn áp Con sẽ hiến cuộc đời con cho mục đích ấy… nếu con còn sống.

– Ta sẽ cầu nguyện cho con… để cho con vẫn sống và đạt mục đích đời con.

Hai người nói chuyện với nhau đến khi bình minh nhuộm hồng những vòm gác chuông nhà thờ và những tiếng xào xạc của cánh chim bồ câu nghe vọng lại từ bên ngoài cửa sổ.

… Ngày 5 tháng 9 năm 1943, sư đoàn 9 của Úc đổ bộ lên đảo New Guinea. Mười lăm ngày sau, nơi sư đoàn này đến đóng – phía đông đảo thuộc vùng Lae – không còn một tên lính Nhật. Jims và Patsy dạo chơi trên một đồng cỏ cao gợi cho hai anh em nhớ Drogeda.

– Chúng mình sắp sửa được về nhà, Patsy. Bọn Nhật đã rút chạy. Trở về nhà Patsy ạ. Trở về Drogheda, anh sốt ruột quá. Jims xúc động nói.

– Đúng vậy, Patsy đáp lại.

Cười vui, Patsy chạy rượt đuổi theo một con vẹt, tay cầm nón đưa ra phía trước như thể anh tin chắc rằng mình sẽ túm được nó. Jims nhìn theo em mỉm cười.

Patsy chạy được khoảng hai mươi mét thì một loạt đạn đại liên nổ dòn, làm tung lên đám cỏ xung quanh. Jims nhìn thấy em mình hai tay đưa lên, thân người quay tròn. Từ ngang bụng xuống đầu gối đầy máu; sự sống như đang buông khỏi Patsy.

– Patsy! Patsy! Jims hét lên.

Anh cảm thấy như chính da thịt mình đón nhận những viên đạn ấy; anh tưởng như mình đang hấp hối và sắp chết. Anh vạch cỏ định lao tới tìm em mình nhưng sự thận trọng của người lính kịp ngăn anh lại. Jims lao đầu xuống cỏ đúng khoảnh khắc một tràng đạn thứ hai nổ dòn.

– Patsy! Patsy! Có sao không? Jims hỏi to một cách ngớ ngẩn vì rằng chính mắt anh đã thấy người Patsy đầy máu.

Thế mà, ngoài sự chờ đợi của Jims, vọng lại một tiếng trả lời khẽ.

– Không sao.

Từng phân một, Jims trườn trên cỏ, hướng tới phía trước, mùi cỏ thơm ngát, tai lắng nghe mọi động tĩnh, tiếng gió và tiếng xào xạc mỗi khi anh chuyển mình. Khi Jims tới chỗ của em mình, anh ngả đầu lên vai trần của Patsy và khóc.

– Ồ, anh đừng khóc, Patsy nói. Em có chết đâu!

Patsy kéo cái quần ngắn ướt đẫm máu xuống để lộ da thịt bị nát, đỏ tươi và run rẩy.

Bấy giờ đã có nhiều người xuất hiện và vây quanh, kể cả những đấu thủ đánh cầu còn mang găng tay và miếng lót bảo vệ ống quyển. Một người chạy đi tìm băng ca và số người còn lại tiến lên để dập tắt họng súng máy đặt bên kia bìa rừng. Cuộc săn tìm để diệt trừ ổ súng diễn ra đầy phẫn nộ vì mọi người đều yêu thương Patsy.

– Patsy may mắn vô cùng, viên sĩ nói với Jims. Cậu ta hứng ít nhất cũng một chục viên đạn nhưng phần nhiều trúng đùi. Theo xét đoán của tôi, ruột còn nguyên vẹn, bọng ********* cũng thế… Chỉ có…

– Sao? Jims sốt ruột hỏi, người run lên, môi tím lại vì mím chặt.

– Bây giờ thì hơi quá sớm để kết luận. Tôi không phải là một nhà giải phẫu tài năng như một vài tay sừng sỏ ở Moresby. Những bậc ấy có thể nói rõ hơn với bạn, nhưng ống ********* đã bị tổn thương cùng rất nhiều dây thần kinh li ti ở vùng xương chậu. Tôi tin chắc rằng có thể lành lặn tất cả nhưng có một số dây thần kinh không còn sử dụng được nữa. Điều mà tôi muốn nói với anh là rất có thể Patsy không còn cảm giác ở vùng bộ phận sinh dục.

Jims cúi đầu nhìn xuống đất qua màn nước mắt.

– Cái chính là Patsy vẫn còn sống, anh nói.

Tại cảng Moresby, sự đánh giá của viên y sĩ sư đoàn 9 về tình trạng của Patsy được xác nhận đúng.

– Chẳng quan trọng gì – Patsy nằm trên băng ca nói với Jims giữa lúc cậu ta được đưa lên máy bay về Sydney – Dù sự thể có thế nào, thật ra em cũng không thích các cô gái . Anh ở lại nhớ thận trọng hơn lúc nào hết, Jims. Em rất buồn khi phải xa anh.

– Không sao đâu, anh sẽ rất cẩn thận – Jims nói cho Patsy yên tâm và siết bàn tay của em mình – Em có biết không tiếp tục chiến đấu mà không có người bạn thân chí cốt thì… Anh sẽ viết thư kể cho em nghe những gì xảy ra ở đây. Em hãy hôn mẹ, Meggie, bà Smith và cho anh gởi lời thăm bạn bè. Dù sao em vẫn được may mắn sớm trở về Drogheda.

Fiona và bà Smith đến Sydney bằng máy bay để kịp đón Patsy từ Townsville đến. Fiona chỉ ở lại Sydney vài ngày còn bà Smith phải thuê phòng ở khách sạn Rankwick gần quân y viện Hoàng tử Xứ Wales. Patsy tiếp tục chữa trị tại đây trong ba tháng. Sự nghiệp trong quân đội của anh đến đây coi như chấm dứt.

Khi Patsy được phép rời quân y viện, Meggie lái chiếc Rolls đến rước. Meggie và bà Smith dìu Patsy ngồi băng sau có sẵn chăn mền và sách báo. Bây giờ gia đình Cleary lại cầu nguyện Chúa ban cho họ một đặc ân khác: sự trở về của Jims.

Meggie đành chịu thua nhưng đồng thời nàng cảm giác như vừa trút được gánh nặng, bây giờ Meggie thấy hết sức nhẹ nhàng và dễ chịu.

– Trong khi ánh mắt của Dane có sự kiêu kỳ. Theo con, đó là điểm giống nhất. Phải chăng nó giống Ralph có quá lộ liễu và mọi người đều biết chuyện này cả rồi phải không mẹ?

– Dĩ nhiên là chưa, Fiona quả quyết. Thiên hạ không tìm hiểu xa hơn màu mắt, cái mũi và hình dáng chung chung. Chính tất cả những điều này làm người ta nhớ đến Luke. Chỉ có mẹ biết rõ vì suốt trong nhiều năm mẹ đã theo dõi con và Ralph. Mẹ biết cha Ralph chỉ cần đưa một ngón tay lên là con đã sẵn sàng lao vào vòng tay ông ấy. Thế thì khi mẹ nói với con chuyện ly dị Luke, đáng lý con không nên trả lời theo cái kiểu trái với luật lệ của Giáo hội. Chính con khao khát vi phạm điều luật của Giáo hội hơn gấp bội so với điều luật ly dị kia mà. Chuyện con đã làm không được đàng hoàng đâu Meggie ạ. Con đã gặp một người đàn ông rất bướng bỉnh. Trước hết, ông ta muốn trở thành một linh mục hoàn toàn về mọi mặt vì vậy với ông ấy, con trở nên thứ yếu. Thật là ngu ngốc! Cuối cùng thì điều đó chẳng giúp ích gì cho Ralph để rồi theo thời gian điều không thể tránh được chuyện ấy đã xảy ra.

Ngừng một lát, Fiona nói tiếp:

– Con cứ tưởng đánh lừa được mẹ khi từ chối để Ralph làm lễ hôn phối cho con với Luke? Mẹ không dễ bị lừa đâu. Con muốn Ralph là chồng con chứ không phải với tư cách người làm lễ trong đám cưới này. Chắc con vẫn nhớ trước khi lên đường đi Athens, Ralph đã ghé lại Drogheda, lúc ấy con không còn ở đây nữa, Ralph lang thang khắp trang trại như kẻ mất hồn, tức khắc mẹ đoán ngay ông ấy sẽ đi tìm con và sẽ gặp con. Con đã tính toán rất kỹ để rồi quyết định lấy Luke. Khi con nhớ nhung mỏi mòn thì Ralph không cần đến con nhưng ngay cái giây phút hay tin con thuộc về người đàn ông khác thì Ralph lại đeo bám con như con chó của người làm vườn. Tất nhiên, Ralph tự lừa dối với chính mình rằngsự gắn bó của ông ta với con là trong sáng thật sự, nhưng rõ ràng là ông ta cần con. Con cần cho cuộc đời của ông ấy hơn bất cứ người phụ nữ nào, trước đây cũng như sau này. Lạ thật – Fiona lại nói tiếp với vẻ suy nghĩ trang nghiêm – có lúc mẹ tự hỏi ông ấy có thể tìm thấy gì ở con, rồi mẹ lại cho rằng các bà mẹ đều ít nhiều bị mù khi xét đoán những gì liên quan đến con gái của mình, ít ra cũng cho đến khi các bà đã quá già và mang tâm lý ghen tị về nét thanh xuân của con gái.

Bà ngả người ra phía sau, dựa vào lưng ghế, người lắc lư nhẹ, mắt lim dim nhưng vẫn không ngừng theo dõi Meggie.

– Mẹ không biết ông ấy đã khám phá ở con điều gì nhưng ông ấy đã tìm thấy điều đó ngay phút đầu tiên gặp con và từ đó con không ngớt làm ông ấy say mê. Điều khổ tâm nhất đối với ông ấy là nhìn thấy con lớn lên một cách hồn nhiên và trọn vẹn. Nỗi khổ ấy không thể giấu diếm được ai khi Ralph đến đây, hay tin con đã có chồng và đã ra đi. Tội nghiệp Ralph! Chỉ còn có mỗi một sự chọn lựa là đi tìm con và Ralph đã toại nguyện, có đúng vậy không Meggie? Mẹ biết ngay chuyện gì xảy ra khi con trở về nhà trước ngày sinh Dane. Ngay lúc chiếm đoạt Ralph con đã cảm thấy không còn cần thiết tiếp tục ở lại với Luke nữa.

– Dạ đúng thế, Meggie thú nhận bằng một tiếng thở dài – Ralph đã tìm gặp con nhưng điều đó cũng không giải quyết được gì. Con biết Ralph sẽ không bao giờ bỏ Chúa. Chính vì lý do đó mà con quyết định chiếm lấy ở Ralph điều duy nhất mà con có thể hy vọng: một đứa con, một đứa con trai, Dane.

– Mẹ có cảm tưởng như nghe một tiếng vọng nào đó, bà vừa nói vừa cười chua chát. Hình như mẹ đã từng nói những lời giống hệt như thế.

– Về chuyện của anh Frank?

Chiếc ghế bành nghiến xuống nền gạch; Fiona đứng lên, đi tới đi lui, gót giày nện mạnh; cuối cùng bà quay trở lại đứng trước con gái và nhìn chăm chăm:

– Có phải con định trả đũa mẹ, Meggie? Con đã biết chuyện đó từ bao giờ?

– Từ khi… còn nhỏ. Từ ngày Frank bỏ nhà ra đi!

Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng:

– Con che mắt thế gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ đâu. Con sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồi đây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà mẹ vô cùng… Con sẽ thấy… Rồi con cũng vậy, sẽ mất Dane.

– Con có cách giữ Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với ba. Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn.

Mùa mưa đến rồi lại qua đi, nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn.

Ở tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu.

Sống xa không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai con của Meggie ít ốm đau. Năm Dane lên mười và Justine mười một, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney. Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm khăn vẫy về hướng nàng. Chưa bao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xa. Meggie hết sức mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính đôi cánh của chúng nó.

Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ đô.

Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph de Bricassart:

Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII phong Hồng Y De Bricassart.

Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại Úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang Vatican.

Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart, dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang Úc ngay sau khi được thụ phong linh mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurra.

Tháng sáu năm 1920, Ngài được đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng giám mục Di Contini Verchese. Chính lúc đó Ngài được phong giám mục, khi Đức Tổng giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp thành công nổi bật tại La Mã.

Ngài De Bricassart được phong Tổng giám mục và từ Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm 1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội.

Đặc phái viên báo “Diễn đàn buổi sáng Sydney†hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbone. Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi.

Hồng Y De Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở Gilly, Ngài đã mang lại một sự hỗ trợ tinh thần rất lớn cho giáo dân và đặc biệt cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời khỏi nơi đây trên hai mươi năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu vắng không có gì có thể bù đắp được.

Trong chiến tranh, Tổng giám mục De Bricassart đã phục vụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước àtrở thành thù địch với nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phục hồi khi nước Đức bại trận. Những năm sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập cư của Úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế, với tư cách Hồng Y, có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước Úc có quyền nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình.

Meggie trả lại tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã:

– Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói điều này với đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ? – Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên văn. Lời lẽ của mẹ thật là sắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của mẹ giữa các dòng chữ.

– Người đó trước hết là ông ấy… nếu ông ấy đọc bài báo.

– Con tự hỏi ông ấy có còn nhớ chúng ta không, Meggie nói thật nhẹ với tiếng thở dài.

– Chắc chắn. Dù sao thì ông ấy cũng sắp xếp được thời giờ để trực tiếp quản lý Drogheda. Dĩ nhiên là ông ấy vẫn còn nhớ chúng ta. Làm sao quên được?

– Đúng thế. Con quên mất trang trại Drogheda này. Chúng ta đang quản lý một cơ ngơi làm ăn có nhiều huê lợi nhất. Chắc hẳn ông ấy sẽ rất hài lòng. Chỉ cần cạo lông cừu để có một món lợi trên bốn triệu bảng!

– Con không nên bạc bẽo, vô ơn như thế Meggie ạ. Giọng của Fiona hạ thấp xuống, gần đây bà tỏ ra kính trọng và có tình cảm hơn đối với Ralph. Chúng ta nên mừng cho mình, con biết không? Đừng quên hàng năm tiền vẫn đến với chúng ta dù được mùa hay không được mùa. Ralph vừa chuyển ngân hàng một trăm ngàn tiền thưởng Bob, mỗi chúng ta được năm chục ngàn. Nếu ông ấy buộc chúng ta rời khỏi Drogheda vào ngày mai, chúng ta cũng có dư tiền để mua trang trại Bugela, dù với giá đất đang lên vùn vụt như hiện nay. Và ông ấy đã cho hai đứa con của con bao nhiêu nữa? Hàng chục và hàng chục ngàn bảng. Con nên biết ơn ông ấy.

– Nhưng các con của con đều không hay biết gì về sự ban phát rộng rãi của ông và con sẽ không để chúng biết điều đó. Dane và Justine lớn lên với ý nghĩ là trong cuộc đời chúng hoàn toàn không có sự giúp đỡ của con người thân mến Ralph, Hồng Y De Bricassart.

– Con nghĩ sao nếu ông ấy trở về đây, Meggie?

– Cũng chẳng sao, Meggie đáp lại hơi làm dáng.

– Rất có thể ông ấy trở về đây, Fiona quả quyết với một vẻ bí ẩn.

… Và đúng thế, ông ấy trở về vào tháng mười hai. Một cách kín đáo, không ai được báo trước, trên một chiếc xe ô tô thể thao hiệu Aston Martin mà ông tự lái, khởi hành từ Sydney. Báo chí không hề nói đến sự có mặt của ông tại Úc, và không một ai có thể đoán biết chuyến viến thăm Drogheda của Hồng Y. Khi chiếc xe nhỏ ông dừng lại ở bãi đậu bên hông nhà, không ai nghe tiếng xe và cũng chẳng có ai tiếp đón.

Trong từng cây số từ Gilly đến đây, ông cảm nhận trong da thịt mình nỗi sung sướng được hít vào buồng phổi mùi vị của rừng, của cừu, của cỏ khô lấp lánh liên tục dưới ánh nắng.

Mùa thu đã trở lại ở đây, từ hai tuần trước ngày Noel và những hoa hồng của Drogheda đã đến lúc nở rộ. Ở đâu cũng là hoa hồng, màu hồng, màu trắng, màu vàng, màu đỏ thẫm như máu đọng trong động mạch và cả màu đỏ đậm như chiếc áo của Hồng Y. Giữa những dây đậu tía còn xanh có những cành hồng mềm mại vươn lên, hoa buông xuống mái hiên dọc theo hàng rào mắt cáo, bám vào một cách tình tứ trên những khung cửa sổ màu đen ở tầng lầu thứ nhất, nhánh đưa thẳng lên trời. Các bồn chứa nước đều bị che khuất gần hết. Hình như ông nhận ra một âm sắc bàng bạc khắp các hoa hồng, một thứ màu hồng xám nhạt. Hồng tro? Đúng rồi, đó là cái tên của âm sắc đó. Có lẽ Meggie đã trồng các bụi hồng này, không ai khác hơn là Meggie.

Ông nghe tiếng cười của Meggie và đứng sựng lại, hốt hoảng, nhưng rồi, lại phải đi tới hướng có tiếng cười ấy. Đúng là cái kiểu cười thường có hồi Meggie còn là một cô gái bé tí.

Nàng đang đứng đấy? Ở đằng kia sau một bụi hồng tro, gần cây hồ tiêu? Ralph đưa tay vạch một chùm hoa qua một bên, đầu óc hỗn loạn do mùi thơm tỏa ngát lẫn cái cười rạng rỡ. Nhưng không có Meggie ở đây, Ralph chỉ gặp một cậu bé trai ngồi xổm trên cỏ đang học phá một con heo con. Con heo chạy quanh thằng bé, vụng về trượt ngã. Thằng bé cười hồn nhiên. Tiếng cười Meggie. Thằng bé khoảng mười một, mười hai tuổi, chỉ mặc quần cụt bằng cải kaki mình trần, chân không, da sạm nắng, vai rộng, một thân hình chắc nịch. Tóc nó hơi dài, cuốn thành lọn, màu vàng nhạt như cỏ của Drogheda. Đôi mắt với hàng mi dày và dài đáng kinh ngạc ánh lên một màu xanh biếc. Thằng bé như một thiên thần nhỏ lén lút dạo chơi.

– Chào ông, thằng bé vừa nhìn khách vừa cười.

– Chào chú bé, Hồng Y đáp và bị ngay nụ cười hồn nhiên của thằng bé thu hút.

– Cháu tên gì?

– Dane O” Neill, thằng bé tự giới thiệu, Còn ông là ai?

– Tôi tên Ralph… Dane O” Neill.

Như thế thằng bé là con của Meggie. Thế là nàng vẫn chưa bỏ Luke; nàng đã trở lại với anh ta và đã sinh ra thằng bé kháu khỉnh này. Đáng lý nó là con của ông nếu trước đó ông đã không kết hôn với Chúa? Không lớn hơn thằng bé này và chắc chắc lúc ấy ông cũng không già dặn hơn thằng bé. Nếu ông không như thế, thằng bé rất có thể là con của ông. Thật là phi lý, Hồng Y De Bricassart! Nếu anh không kết hôn với Chúa, thì anh vẫn ở lại Ireland chăn nuôi ngựa, vĩnh viễn anh không biết Drogheda, kể cả Meggie Cleary.

– Ba của cháu có nhà không, Dane?

– Ba cháu? Thằng bé lặp lại câu hỏi, chân mày nhíu lại đầy kinh ngạc. Không, ba cháu không có ở nhà. Ba cháu chưa bao giờ có mặt ở đây.

– Ồ, tôi đã hiểu! Vậy thì mẹ cháu có ở nhà không?

– Mẹ cháu đi Gilly nhưng cũng sắp về rồi. Trong nhà có ngoại. Nếu ông muốn gặp, cháu đưa ông vào nhà. Ralph De Bricassart. Cháu đã nghe nói về ông. Nhớ rồi, Hồng Y De Bricassart! Thưa Đức Ngài, xin Ngài tha lỗi. Cháu không muốn tỏ ra thiếu lễ độ đâu.

Mặc dù không mặc quần áo dòng, chỉ mang giày ủng, quần cỡi ngựa và một chiếc áo trắng, Ralph vẫn đeo nhẫn có nạm một viên hồng ngọc, nhẫn này suốt đời ông không thể tuột ra. Dane O” Neill quỳ gối, nắm lấy bàn tay của Hồng Y đặt vào hai tay mình và hôn một cách kính cẩn chiếc nhẫn.

– Cháu hãy đứng lên, Dane. Tôi đến đây không phải với tư cách Hồng Y mà với tư cách là người bạn của mẹ cháu và bà ngoại cháu.

Bỗng có tiếng gọi vang lên.

– Dane, Dane, em ở đâu?

Một cô bé khoảng 15 tuổi, xuất hiện. Ralph biết ngay là ai, chỉ cần nhìn đôi mắt và tóc cô bé. Đúng là con gái của Meggie.

– Ồ, chào ông. Xin lỗi ông. Cháu không biết có khách. Cháu là Justine O” Neill.

– Jussy, đây là Hồng Y De Bricassart! Dane nói nhỏ với Justine. Hãy hôn ngay chiếc nhẫn của Ngài nhanh lên!

– Cứ gặp chuyện gì dính dấp đến tôn giáo là lúc nào em cũng vớ vẩn, – cô bé nói không cần hạ thấp giọng – Hôn lên một chiếc nhẫn là ngược lại các quy tắc vệ sinh. Hơn nữa, cái gì chứng minh rằng đây thật sự là Hồng Y De Bricassart? Chị thấy ông ấy giống một người chăn nuôi theo lối cũ. Em biết không, không khác ông Gordon.

– Đúng là Đức Hồng Y, chính ông ấy, Dane cả quyết. Em năn nỉ chị, chị hãy chìu em đi, ráng tỏ ra dễ thương một chút.

– Chị sẽ tỏ ra dễ thương vì em, và dù có muốn chìu ý em chị cũng không hôn lên chiếc nhẫn đâu. Gớm lắm. Làm sao chị biết rõ ai là người cuối cùng hôn lên chiếc nhẫn này. Biết đâu một người nào đó bị bệnh cúm.

– Hôn lên nhẫn tôi là vô ích, Justine. Tôi đến đây để nghỉ hè. Lúc này, tôi không phải là Hồng Y.

– Ông có cần chúng tôi dẫn đường gặp ngoại? Justine hỏi

– Không, cám ơn cháu. Tôi biết đường.

Muốn gặp Fiona thì có nơi nào khác hơn là trong văn phòng? Ralph đi và một cửa nhỏ, Fiona nghe tiếng động nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Lưng hơi còng, mái tóc màu vàng rực rỡ trước kia nay đã bạc trắng. Khó khăn lắm, Ralph mới nhớ lại năm nay bà đã bảy mươi hai tuổi rồi.

– Kính chào bà Fiona.

Khi bà ngước nhìn lên, Ralph nhận ra ngay sự thay đổi ở người phụ nữ này, tuy thế ông vẫn không hiểu ra thái độ lạnh lùng của Fiona. Vẫn như lâu nay, trong bà có cả sự mềm mại lẫn cứng rắn, do đó trở thành nhân bản hơn, nhưng lại nhân bản theo kiểu bà Mary Carson. Chúa ơi, cái chế độ mẫu quyền ở Drogheda! Rồi nó cũng sẽ xảy ra như thế với Meggie sau này chăng?

– Chào Ralph – bà đạp lại tưởng như Ralph vẫn bước qua cửa nhỏ này hàng ngày. Tôi rất vui mừng gặp ông.

– Tôi cũng thế, rất vui mừng gặp lại bà.

– Tôi không biết rằng ông đang có mặt tại Úc.

– Không một ai biết. Tôi đi nghỉ hè vài tuần.

– Tôi hy vọng rằng ông sẽ nghỉ tại đây chứ?

– Làm sao tôi có thể nghỉ ở nơi nào khác? Bà có một khiếu thẩm mỹ đặc biệt, bà Fiona ạ. Căn phòng này không thua bất cứ căn phòng nào ở Vatican. Các cửa sổ hình trái soan màu đen với những hoa hồng nổi bật, thật là một nét thiên tài.

– Cảm ơn ông. Chúng tôi ráng làm những gì trong khả năng của mình. Nhưng tôi tự hỏi tại sao mình lại phải khổ cực như thế. Nhà này là của ông, chớ đâu phải của chúng tôi.

– Phải chờ đến khi nào không còn một người mang dòng họ Cleary thì điều bà nói mới đúng. Ralph trả lời một cách bình thản.

– Điều ông nói làm cho tôi thật yên tâm làm sao! Cho phép tôi được nói điều này: ông đã đạt nhiều thành công từ khi làm linh mục ở Gilly. ông có đọc bài báo trên tờ Diễn đàn?

Ralph không tránh né được:

– Tôi có đọc. Lời lẽ của bà thật là bén, bà Fiona ạ!

– Vâng, hơn thế ấy nữa, tôi cảm thấy thích thú được nói những điều đó, sau bao nhiêu năm thu mình lại chẳng nói một lời… Meggie đi Gilly nhưng sắp về.

Dane và Justine đi vào ngã cửa nhỏ.

– Ngoại ơi, tụi con cỡi ngựa đi dạo đến Borehead được không? – Justine nói với Fiona.

– Con biết luật lệ rồi. Không được dạo bằng ngựa mà không có phép của mẹ con. Bà ngoại không thể làm khác, đó là lệnh của mẹ con. Ô hô! Các con quên điều sơ đẳng của sự lễ phép. Hãy đến đây trình diện với khách quí của gia đình.

– Con đã gặp rồi. – Justine nói ngắn ngủn.

– Ồ…

– Thưa Đức cha, Đức cha có định nghỉ lại lâu không? Dane hỏi với sự ngưỡng mộ

– Đức cha sẽ ở lại đây với chúng ta cho đến chừng nào Đức cha muốn, Dane ạ. Fiona nói chen vào. Có điều là ngoại rất mệt tai khi nghe con không ngớt thưa bẩm Đức cha. Các con nên gọi bằng gì nào? Cậu Ralph?

– Cậu! Justine kêu lên. Không được đâu, ngoại? Các cậu đã có cậu Bob, cậu Jack, Hughies, Jims, Patsy. Vậy chỉ nên gọi Ralph vắn tắt thôi.

– Không được hỗn, Justine! Fiona cắt ngang.

– Không sao đâu, Fiona, Justine nói đúng. Tôi vẫn thích mọi người gọi giản dị cái tên Ralph, – Hồng Y can thiệp vào dứt khoát, lòng tự hỏi tại sao con bé lại tỏ ra đố kỵ với mình như thế.

– Con không thể gọi bằng bên Ralph đâu. Dane phản đối, giọng xúc động.

– Được, không sao, Dane. Cũng chẳng tội lỗi gì đâu.

Hồng Y De Bricassart đi thẳng đến chỗ Dane đứng, hai tay siết chặt đôi vai trần của Dane và mỉm cười. Đôi mắt ông trở nên dịu dàng và long lanh. Hồng Y và con trai của ông cùng quay lại phía Fiona. Cùng hướng về bà một cái nhìn giống nhau như cắt.

– Chúa ơi! Fiona kêu khẽ. Thôi được rồi, đi chơi đi Dane. Ra ngoài chơi (hai tay bà vỗ mạnh vào nhau). Cút đi!

Ralph ở lại nói chuyện rất lâu với bà Smith và những người giúp việc khác. Tất cả đều già đi rất nhiều so với lần gặp trong chuyến thăm Drogheda cuối cùng.

Khi Ralph rời khỏi nhà bếp, Meggie vẫn chưa về và để giết thời giờ, ông đi dạo dọc theo con suối. Cảnh vật ở nghĩa trang yên tĩnh làm sao! Sáu bảng đồng nổi bật trên hầm mộ, vẫn y nguyên như thế từ khi ông ghé lại đây lần chót. Phải chuẩn bị để chính mình cũng sẽ được chôn cất tại đây, Ralph tự nhắc nhở mình để khi về đến La Mã sẽ đưa ra những dặn dò cần thiết. Không xa hầm mộ, Ralph chú yến đến hai ngôi mộ mới, một của ông già Tom, người làm vườn và một là vợ của người thợ chăn nuôi làm thuê ở Drogheda từ năm 1946. ông không muốn được chôn trong hầm mộ ở Vatican giữa những nhân vật cũng như ông. Ở đây ông yên nghỉ giữa những con người đã sống thật sự.

Vừa quay nhìn lại, ông gặp cặp mắt màu xanh lục của tượng thánh bằng cẩm thạch, ông đưa tay lên chào và qua đám cỏ cao, ông hướng mắt đến tòa nhà lớn. Meggie, nàng đang đi lại. Thon thả, tóc vàng óng ả, quần cỡi ngựa bó sát và cũng chiếc áo sơ mi trắng giống hệt Ralph. Trên đầu là chiến nón rộng vành kiểu đàn ông hất ra phía sau gáy, giày ống màu nâu.

Nàng đến gần, bước qua hàng rào sơn trắng đến bên Ralph khiến ông chỉ còn thấy đôi mắt nàng, đôi mắt màu nâu ngập tràn ánh sáng. Vẻ đẹp Meggie không hề giảm chút nào vẫn hoàn toàn có quyền uy đối với trái tim ông. Hai cánh tay Meggie ôm lấy cổ Ralph, đột nhiên Ralph lại cảm thấy số mệnh của mình nằm trong vòng tay ấy. Hình như chưa bao giờ ông rời xa Meggie; đôi môi ấy đặt dưới đôi môi ông, thật sống động không phải là một giấc mơ. Ông khao khát quá lâu rồi, quá lâu rồi. Một loại thánh lễ khác, giản dị như đất, không dính dáng gì đến trời.

– Meggie, Meggie, ông thì thầm, mặt ông vùi trong mái tóc màu hung của Meggie, chiếc nón rơi xuống đất tự bao giờ. Ralph càng siết nàng vào lòng.

– Những chuyện như thế này cũng chẳng sao, phải không Ralph? Không có gì thay đổi, nàng nói, mắt nhắm.

– Không, không có gì thay đổi, Ralph quả quyết.

– Chúng ta đang ở Drogheda, Ralph, em đã báo trước với anh. Ở Drogheda anh thuộc về em chứ không phải thuộc về Chúa.

– Anh biết. Anh chấp nhận và anh đã đến (ông kéo nàng xuống thảm cỏ). Tại sao thế, Meggie?

– Tại sao là sao?

– Tại sao em lại trở lại với Luke? Tại sao em sinh cho Luke đứa con trai? Ralph hỏi trong thứ cảm giác bị cơn ghen hành hạ

Xuyên qua những cửa sổ màu nâu, tâm hồn sáng rực Meggie rọi thẳng vào Ralph, che giấu những ý nghĩ thật của nàng.

– Hắn bắt buộc em, nàng nói dịu dàng. Chỉ một lần thôi. Nhưng nhờ thế mà em có Dane. Do đó em không ăn năn về chuyện ấy. Dane đã bù đắp trọn vẹn tất cả những gì em đã phải chịu đựng với hắn.

– Xin lỗi em, anh không có quyền đặt với em câu hỏi đó. Lúc đầu, chính anh đã xô đẩy em vào tay Luke, phải không?

– Vâng, đúng thế.

– Thằng bé tuyệt đẹp. Nó có giống Luke không?

Meggie cười trong bụng, túm lấy một chùm cỏ, và nhét nó vào ngực của Ralph qua chỗ hở chiếc áo sơ mi.

– Không giống lắm. Không đứa con nào của em thật giống Luke hoặc em.

– Anh thương hai đứa vì chúng nó là con em.

– Anh bao giờ cũng đầy tình cảm. Tuổi tác không ảnh hưởng đến anh, Ralph ạ. Em tin chắc điều đó và hy vọng sẽ được thấy anh trẻ mãi. Em biết anh đã ba mươi năm nay rồi, vậy mà cứ tưởng như mới ba ngày vậy.

– Ba mươi năm? Nhiều đến thế sao?

– Anh thương yêu của em, em đến bốn mươi mốt tuổi rồi. Cũng khá lớn phải không? Trong nhà bảo em ra đây để tìm anh. Bà Smith đã chuẩn bị ấm trà thật tuyệt để đãi anh, sau đó khi trời mát hơn, chúng ta sẽ ăn giăm-bông rô ti với thật nhiều tóp mỡ.

Bob, Jack, Hughie, Jims và Patsy tham dự buổi tối như mọi thứ bảy. Sáng hôm nay, đáng lý cha Watty làm lễ nhưng Bob điện thoại báo cho ông ấy biết là cả nhà đi vắng. Nói dối để bảo vệ sự bí mật của Hồng Y ở đây.

Sau khi hai đứa nhỏ đi ngủ, Ralph nhìn lần lượt những người chủ nhà: các anh em trai dòng họ Cleary, Meggie và Fiona.

– Bà Fiona, mời bà tạm rời bàn làm việc trong chốc lát, Ralph nói. Tôi có chuyện muốn nói với… tất cả.

Fiona đi đứng vẫn vững vàng, người không mập. Bà im lặng ngồi vào một trong những chiếc ghế bành màu kem đặt trước mặt Hồng Y. Meggie ngồi bên trái bà, còn mấy đứa con trai ngồi trên những băng đá cẩm thạch gần đó.

– Về chuyện của Frank, Hồng Y mở đầu.

Tên Frank với những âm vang xa xôi làm nặng lòng tất cả những người có mặt.

– Ông muốn nói gì về Frank? Bà Fiona bình tĩnh hỏi.

Meggie đặt chiếc áo len xuống, nhìn mẹ và Ralph:

– Ông hãy nói đi, nàng lên tiếng thúc giục vì không đủ sức chịu đựng thêm một phút giây nào chờ đợi nữa.

– Frank đã thi hành xong án tù ba mươi năm. Gia đình chắc đã biết điều này khá đầy đủ qua những người thường liên lạc với tôi. Tôi có dặn họ đừng nói bất cứ gì có thể gây đau xót cho gia đình bởi cũng chẳng có lợi gì trong khi chúng ta không giúp gì được cho anh ta. Nếu trong những năm đầu ở tù anh không có những hành vi hung bạo và bất thường để phải mang tiếng xấu thì Frank đã ra tù sớm hơn. Ngay trong thời gian chiến tranh đã có nhiều tù nhân được thả để tình nguyện vào quân đội, riêng đơn xin của Frank đã bị bác.

Fiona ngước nhìn lên lạnh lùng:

– Tính tình của nó vẫn thế, bà nói không để lộ một nét xúc động.

Hồng Y nhìn mấy đưa con trong gia đình Cleary:

– Hãy chuẩn bị đi đón Frank về Drogheda trong không khí đầm ấm của gia đình.

– Đây là quê hương của Frank. Anh về đây là về nhà của gia đình. Bob trả lời.

Mọi người đều tán đồng. Riêng Fiona dường như vẫn ngập chìm trong những suy nghĩ miên man.

– Frank không còn như xưa, Hồng Y chậm rãi nói tiếp. Trước khi về đây, tôi có đến phòng giam ở Goulburn báo tin cho Frank biết và tôi đã phải nói thật với anh là mọi người ở Drogheda đều biết tất cả những gì đã xảy ra cho anh. Frank không hề nổi nóng, điều đó đủ hiểu anh ta đã thay đổi như thế nào. Anh chỉ nói… rất mang ơn. Và nôn nóng được gặp lại gia đình. Được gặp lại tất cả và đặc biệt là Fiona.

– Khi nào Frank được thả? Bob tằng hắng rồi hỏi.

– Khoảng một hay hai tuần nữa, Frank sẽ về bằng chuyến tàu đêm. Tôi muốn Frank đi máy bay nhưng anh ấy lại thích về bằng tàu hỏa.

– Patsy và con sẽ đón anh ấy ở nhà ga, Jims mau mắn đề nghi (Rồi mặt anh lại sa sầm xuống). Nhưng hai đứa tụi này không hề biết mặt Frank.

– Không ai cả, Fiona cắt ngang. Mẹ sẽ đích thân đón Frank và chỉ một mình mẹ thôi. Sức khỏe của mẹ không đến nỗi tệ đâu. Mẹ có thể lái xe tới Gilly kia mà.

– Mẹ nói đúng, Meggie nói dứt khoát trước khi các anh trai phản đối. Chúng mình nên để mẹ ra nhà ga một mình bởi chính mẹ là người đầu tiên Frank muốn gặp mặt. Năm anh em trai đứng lên một lượt.

– Đã đến lúc bọn này phải đi ngủ, miệng ngáp dài Bob nhìn Hồng Y cười rụt rè. Chúng ta sẽ sống lại cảm giác của những ngày xưa vào lúc sáng mai khi Đức cha làm lễ.

Meggie xếp chiếc áo len lại, quấn vào hai que đan, rồi đứng lên.

– Tôi cũng vậy. Xin chúc Ralph ngủ ngon.

– Chúc Meggie ngủ ngon. Chúc bà Fiona ngủ ngon – Ralph tránh không theo chân Meggie lên lầu. Trước khi ngủ, tôi đi dạo một vòng.

Khi Ralph lên lầu, của phòng ngủ của Meg

gie mở rộng, để lọt ra ngoài một vệt sáng. Ralph bước vào, đóng cửa lại rồi vặn khóa một vòng.

Meggie mặc áo ngủ mỏng, ngồi trên một chiếc ghế gần cửa sổ. Quay đầu lại, nàng thấy Ralph bước tới và ngồi xuống bên mép giường. Chậm rãi nàng đứng lên và đến với Ralph.

– Anh lại đây, để em cởi đôi giày ống cho anh. Chính vì vậy mà em không thích mang giày ống cao. Em không thể cởi giày ra nếu không dùng tấm cởi mà những thứ đó làm giày mau hư.

– Có phải em cố tình chọn màu áo này?

– Hồng tro? Nàng mỉm cười hỏi. Đó là màu mà em thích nhất, nói không chỏi lại màu tóc của em.

Khi nàng quay lưng lại cởi chiếc giày ống, chân của Ralph đặt lên mông nàng.

– Tại sao em biết chắc rằng anh sẽ đến phòng này để tìm em, Meggie?

– Em đã nói với anh rồi. Ở Drogheha, anh thuộc em. Nếu anh không đến, em sẽ lại tìm lại phòng anh.

Nàng cởi chiếc áo sơ mi của Ralph ra và chỉ khoảnh khắc sau, bàn tay rạo rực của nàng đã đặt lên chiếc lưng trần của ông. Tiếp đó nàng đi thẳng lại tắt đèn, trong khi Ralph đặt quần áo của mình lên lưng ghế. Ông nghe nàng đi lại trong bóng tối cởi bỏ chiếc áo ngủ.

Ngày mai, tôi sẽ làm lễ. Nhưng đó là sáng mai, lúc đó ma lực đã dịu xuống từ lâu. Còn bây giờ là ban đêm và Meggie. Tôi muốn được nàng. Nàng cũng là một thánh lễ.

Luđie và Mueller đến Drogheda ăn lễ Noel như mọi năm. Dưới mái nhà lớn nơi trú ẩn của những tâm hồn thanh thản, mọi người chuẩn bị tiếp đón những ngày lễ Giáng Sinh tuyệt diệu. Minnie và Cat vừa làm việc vừa hát, gương mặt béo phị của bà Smith tươi rói, Meggie thì giao Dane cho Hồng Y De Bricassart mà không nói thêm lời nào, còn Fiona vui hẳn lên, bớt dính cứng với chiếc bàn làm việc. Phía đàn ông khi có dịp là trở về nhà mỗi chiều, vì rằng sau buổi cơm tối rất muộn, phòng khách luôn rộn rã tiếng nói cười. Ngày thứ tư Ralph ở lại Drogheda, thời tiết rất nóng bức, Hồng Y cùng với Dane phi ngựa đi tìm một đàn cừu bị lạc, bỏ lại Justine hờn dỗi đứng một mình dưới gốc cây hồ tiêu; còn Meggie thì nằm lăn một cách lười biếng giữa những chiếc gối trên ghế dài bằng mây đặt ngoài hiên. Nàng cảm thấy thư thả, mãn nguyện và rất hạnh phúc. Một người phụ nữ có thể không cần chuyện đó trong nhiều năm nhưng thật là hạnh phúc làm sao được sung sướng với anh ấy, người đàn ông duy nhất của nàng. Khi ở bên cạnh Ralph, Meggie trải lòng đón lấy cuộc sống, ngoại trừ phần dành riêng cho Dane. Và khi nàng bên cạnh Dane, con người của nàng giang tay ra trước cuộc sống cũng còn lại một phần khác dành cho Ralph. Chỉ khi nào cả hai Ralph và Dane cùng một lúc trong cái thế giới riêng của mình như hiện giờ, thì Meggie mới cảm thấy trọn vẹn hạnh phúc.

Thế nhưng lảng vảng đâu đó, có một bóng đen làm mờ hạnh phúc của nàng. Ralph không hề biết. Nàng tự hỏi có nên giữ mãi bí mật ấy? Nếu Ralph không có khả năng tự mình khám phá thì tại sao Meggie lại tiết lộ làm gì? Ralph đã làm gì xứng đáng để nàng nói về sự thật ấy? Tại sao Ralph có thể nghĩ rằng nàng đã thuận tình quay trở lại với Luke? Ralph không xứng đáng để nàng tiết lộ nếu Ralph nghĩ rằng nàng có thể làm chuyện đốn mạt như thế. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy đôi mắt xanh và lạnh lùng của Fiona chăm chăm nhìn nàng. Mẹ nàng hiểu mọi việc.

Điện thoại reo. Meggie đứng lên uể oải.

– Xin được nói chuyện với bà Fiona Cleary – Một giọng đàn ông bên kia đầu dây.

Nghe Meggie gọi, Fiona hấp tấp chạy đến cầm lấy ống nghe.

– Fiona Cleary đang nghe đây.

Gương mặt của bà dần dần biến sắc, căng thẳng, đó là sắc diện của những ngày tiếp theo sau cái chết của Pađy và Stuart.

– Cảm ơn ông, bà nói trước khi đặt ống nghe xuống, người yếu đuối, rã rời.

– Chuyện gì đó, mẹ?

– Frank đã được thả. Anh con đã lên tàu đêm qua và sẽ đến vào chiều nay (bà nhìn đồng hồ). Mẹ phải đi ngay, hơn hai giờ rồi.

– Mẹ cho phép con đi theo, Meggie đề nghị lòng tràn đầy niềm vui.

– Không được Meggie ạ. Con ở nhà thu xếp tất cả và nhớ đừng dọn cơm chiều trước khi mẹ về.

– Thật tuyệt phải không mẹ, Frank về nhà kịp lễ Noel.

– Thật tuyệt – Fiona đáp lại.

Ntnhan: Cảm ơn lời nhận xét đúng đắn của bạn. Vì nhiều khi văn phương Tây khá khô khan và thẳng thắn nên không phải ai cũng hiểu được nét đẹp của truyện phương Tây và nội dung sâu sắc của nó.

Bây giờ không còn bao nhiêu người đi chuyến tàu đêm từ khi có những chuyến bay nối liền Gillanbone. Đoàn tàu ì ạch đi qua cả ngàn cây số lần lượt trút bỏ gần hết hành khách qua các ga tỉnh lẻ; chỉ còn một số rất ít xuống ga Gillanbone.

Trên sân ga, một mình bà Fiona lặng lẽ đứng chờ. Bà vẫn đẹp người so với tuổi tác. Nón, áo đều hợp thời trang, giày cao gót. Cuộc đời làm vợ một người chăn nuôi đã giúp bà giữ được vóc dáng trẻ trung.

Chính vì thế mà Frank đã nhận ra mẹ anh nhanh hơn là bà nhận ra anh. Frank đã năm mươi hai tuổi, đứng giữa mặt trời chiều Drogheda trông rất gầy, hốc hác, xanh xao. Đầu đã hói, quần áo không ra hình thù gì, phủ trên một thân hình tuy nhỏ nhưng vẫn còn gợi nhớ một chút sức lực. Hai bàn tay rắn rỏi nắm chặt chiếc mũ phớt màu nâu. Anh không còng lưng, không bệnh hoạn nhưng đứng chôn chân ở sân ga một cách vụng về, không tin rằng có ai đón mình và cũng không biết phải làm gì.

Rất tự chủ, Fiona nhanh chân bước tới:

– Con mạnh khỏe, Frank? bà nói.

Frank nhìn lên, hai mắt xưa kia rực sáng, lấp lánh giờ đây khuyết sâu trên gương mặt của một người già nua. Đôi mắt ấy không phải của Frank. Mệt mỏi, nhẫn nhục và vô cùng chán nản. Nhưng khi đôi mắt ấy nhìn thấy Fiona, nó lại gây nên một ấn tượng dị thường của một người bị lăng nhục, hoàn toàn không được che chở, sắp chết và đang kêu gào sự cứu giúp.

– Ôi, Frank! Bà kêu lên và ôm chầm lấy con trai. Mọi việc đều tốt đẹp, tiếng của bà dịu dàng như tiếng ru. Mọi việc đều tốt, bà tiếp tục nói giọng càng dịu dàng hơn.

Lúc đầu, Frank vẫn im lặng, ngồi lún xuống trên nệm xe. Nhưng khi chiếc Rolls tăng tốc độ và ra khỏi thành phố, anh bắt đầu nhìn hai bên đường.

– Cũng không thay đổi bao nhiêu phải không mẹ, anh nói thì thầm.

– Không. Ở đây thời gian trôi qua rất chậm.

Khi xe vượt qua chiếc cổng cuối cùng vào sân trong trước cửa tòa nhà, Frank kêu lên:

– Con không thể tưởng tượng nó đẹp như thế.

– Đây là nhà của chúng ta, Fiona nói. Gia đình mình đã bỏ rất nhiều công chăm sóc nó con à.

Bà lái xe vào gara, đưa con trai đi lên hướng nhà lớn nhưng lần này chính Frank xách vali của mình.

– Con chọn một phòng trong nhà này hay chọn một nhà khách nhỏ để ở riêng?

– Con thích căn nhà nhỏ. Cảm ơn mẹ. Con muốn được ở riêng yên ổn một thời gian.

Khi Frank gặp lại Meggie, anh không dễ dàng nhận ra đứa em gái nay đã trở thành một người phụ nữ già dặn. Mẹ tuy già nhưng anh vẫn dễ nhận ra hơn. Trong khi Meggie ôm anh, Frank rụt rè quay mặt chỗ khác, hai tay vo ve nếp áo vét nhăn nheo, rồi nhìn về phía mẹ để cầu cứu. Ãnh mắt của bà Fiona như muốn nói: không có gì quan trong; thời gian trôi qua, rồi thì tất cả sẽ trở nên bình thường.

Nhờ nhiều cố gắng của bà Fiona, Frank thích nghi dần với cuộc sống ở Drogheda và không chú ý lắm sự đố kỵ ngấm ngầm của mấy đứa em trai. Fiona xử sự với Frank như đứa con trai lớn vắng nhà một thời gian ngắn, không hề làm mất danh dự gia đình và cũng không hề gây ra sự đau khổ vô vàn cho mẹ anh. Bà kín đáo tìm cho Frank một chỗ ẩn náu mà Frank mong muốn, tách xa những đứa em trai. Bà cũng không khuyến kích Frank phục hồi lại một phần sức sống trước kia; hơn nữa sức sống ấy cũng không còn trong con người của Frank hiện nay. Fiona đã hiểu điều đó ngay cái phút giây con trai bà ngước mắt lên nhìn trên sân ga Gillanbonẹ Không có chuyện đưa Frank đi làm ngoài các bãi chăn vì các em trai sẽ phản đối, hơn nữa Frank cũng không thích một công việc mà xưa kia anh vẫn ghét. Dần dần các em trai của Frank quen với sự trở về của con cừu ghẻ lở trong lòng gia đình. Không có điều gì có thể làm thay đổi tình cảm của mẹ chúng đối với Frank, Frank ở tù, hay ở Drogheda cũng chẳng quan hệ gì, bà vẫn luôn luôn yêu Frank thiết tha. Sự hiện diện của Frank ở Drogheda làm cho bà hạnh phúc và đó là điều quan trọng nhất. Frank không chen vào cuộc sống trước đây của các nhân vật khác ở Drogheda và vẫn trung thành với con người xưa của mình.

Thế nhưng, sự có mặt của Frank ở Drogheda không mang lại một niềm vui thật sự cho Fiona. Làm sao khác hơn bây giờ? Khi nhìn thấy Frank mỗi ngày, lòng bà như bị khơi dậy một nỗi buồn khác hẳn nỗi buồn mà bà đã chịu đựng trong thời gian vắng Frank. Đó là niềm đau đớn dữ dội phải chứng kiến cuộc sống của một con người đang bị hủy diệt. Con người đó lại là đứa con trai thương yêu nhất của bà, nó đã trải qua những nỗi đau đớn không thể tưởng tượng.

Một hôm, bấy giờ Frank đã trở về được khoảng sáu tháng, Meggie bước vào phòng khách và gặp mẹ đang ngồi nhìn Frank qua một trong những cửa sổ lớn. Frank đang xén hàng rào hoa hồng dọc theo con đường nhỏ. Đột ngột bà quay lại và có điều gì đó hiện ra trên gương mặt lạnh lùng của bà khiến cho Meggie phải đưa hai tay ôm lấy ngực.

– Ôi, mẹ! Nàng bối rối.

Fiona nhìn con gái, lắc đầu và mỉm cười.

– Không có gì quan trọng, Meggie à.

– Phải, chỉ có con mới giúp ích điều gì cho mẹ.

– Con có thể. Đừng thay đổi thái độ của con. Mẹ rất mang ơn con. Con đã trở thành đồng minh của mẹ.

Xong rồi, Justine nói với mẹ, con đã quyết định. Con biết sẽ theo nghề nào.

– Mẹ tưởng rằng chuyện xong lâu rồi chứ. Con sẽ theo học nghành mỹ thuật ở trường Đại học Sydney phải không?

– Không đâu mẹ, con nói dối để mẹ yên tâm khi con chuẩn bị kế hoạch. Bây giờ tất cả đã xong, con có thể tiết lộ hết bí mật với mẹ.

Meggie mệt mỏi nhìn Justine, sốt ruột và bất lực. Trước một đứa con cứng đầu, bướng bỉnh như Justine, Meggie đành chịu thôi.

– Vậy con nói hết bí mật của con đi, mẹ sốt ruột quá. Meggie vừa nói vừa tiếp tục chọn từng cái bánh chuẩn bị nướng.

– Con sẽ trở thành diễn viên.

– Sao?

– Diễn viên.

– Chúa ơi! (Meggie tạm ngưng công việc của mình.) Justine con nghe đây, mẹ không thích làm con kỳ đà và cũng không có ý định làm buồn phiền con. Nhưng bộ con tưởng con có được nhan sắc để theo nghề đó?

– Không phải như vậy đâu mẹ! Justine tỏ vẻ hơi nản. Không phải tài tử màn ảnh đâu! Mà là diễn viên! Con không chịu làm những cái trò uống éo mông, phô bày bộ ngực hay nút lưỡi đâu. Con muốn đóng kịch. Con có đủ tiền để theo học bất cứ ngành nào con thích chứ?

– Phải! Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y De Bricassart.

– Vậy thì con không bàn lui nữa. Con sẽ theo học lớp kịch của Alber Jones trên sân khấu Culloden và con viết thư cho viện kịch nghệ Hoàng gia ở Luân Đôn để đăng ký vào danh sách chờ đợi.

– Con đã suy nghĩ kỹ chưa, Justine?

– Vâng, con đã suy nghĩ từ lâu.

– Mẹ vẫn không hiểu, Meggie vừa lắc đầu vừa nói một mình. Diễn viên.

Justine nhún vai.

– Mẹ nghĩ coi, con tìm ra nơi nào cho phép con la hét, gầm lên như trên sân khấu? Ở đây thì không thể được rồi, ở nhà trường hay ở một nơi nào khác cũng thế! Con lại thích la hét, chỉ có thế thôi!

– Nhưng con làm thế nào để được chấp nhận học sân khấu Culloden?

– Con đã qua một kỳ trình diễn thử.

– Và con đã trúng tuyển?

– Đúng là mẹ tin cậy ở con gái mình. Đúng thế, con đã trúng tuyển! Con diễn rất tốt mẹ biết không. Một ngày nào đó con sẽ nổi tiếng.

– Con không định lấy chồng?

– Con chẳng nghĩ đến điều ấy nhưng con không thích cuộc sống lại mất thì giờ vào việc lau mũi, rửa đít cho trẻ con. Hoặc chiều chuộng vuốt ve một thằng đàn ông không ra gì mà cứ tưởng mình ngon lắm. Nhất định không.

– Con nói quá đáng Justine ạ. Ma quỷ nào đã dạy con nói cái giọng đó? Con không khác ba con chút nào!

– Cứ mỗi lần con làm sai ý mẹ là mẹ nói giống hệt ba con. Thế thì con phải đành tin lời mẹ vì rằng con chưa bao giờ được gặp con người hào hoa phong nhã ấy.

– Khi nào con đi? Meggie nói sang chuyện khác.

Justine cười:

– Mẹ muốn con đi sớm cho khuất mắt mẹ phải không? Con thông cảm mẹ và không giận mẹ chút nào. Mẹ biết không, con không kìm chế được mình trêu chọc người khác, nhất là với mẹ. Mẹ nghĩ sao nếu con xin mẹ đưa con ra sân bay ngày mai?

– Mẹ đề nghị ngày mốt. Ngày mai, mẹ đưa con ra ngân hàng. Con cần biết con có bao nhiêu tiền. Và, này Justine…

Justine đang phụ mẹ làm bánh. Giọng nói đột ngột thay đổi của Meggie khiến cho Justine ngừng tay lại ngước mắt lên nhìn mẹ.

– Mẹ nói đi…

– Nếu một mai con gặp những chuyện buồn phiền, con hãy quay trở về nhà, đừng do dự con nhé. Ở Drogheda luôn có chỗ dành cho con; mẹ muốn con nhớ điều đó. Dù sau này con có làm chuyện gì tồi tệ mấy đi nữa thì điều đó cũng không cản ngăn con trở về đây.

Ánh mắt Justine dịu xuống.

– Cảm ơn mẹ

Trở lên Sydney, Justine lo chăm sóc ngay sắc đẹp của mình, trước hết tìm cách phá những vết tàn nhang trên mặt, tiếp đó đi mướn một căn hộ riêng gồm hai phòng ở phố Neutral Bay, trong chung cư Bothwell Gardens, giá năm bảng mười xu mỗi tuần. Chung cư Bothwell Gardens gầm năm căn tất cả. Anh chàng thanh niên người Anh Peter Wilkins ở sát vách tìm mọi cách chinh phục Justine nhưng không thành công. Một hôm anh ta mời Justine sang phòng anh uống trà, lợi dụng dịp này tấn công Justine. Những năm lao động ở Drogheda đã cho Justine sức mạnh phi thường, hơn nữa cô cũng không ngần ngại vi phạm luật lệ của môn quyền Anh dùng những cú đấm dưới thắt lưng để tự bảo vệ mình.

– Chúa ơi! Justine! Peter hét lên, đau điếng đến chảy nước mắt. Giữ gìn để làm gì cái quái ấy! Trước sau rồi cũng phải mất thôi! Thời đại nữ hoàng Victoria xưa rồi. Đâu cần gìn giữ cái tiết trinh kín bưng như đóng hộp để làm gì!

– Tôi không có ý định đóng hộp chờ ngày cưới, Justine vừa trả lời vừa sửa lại chiếc váy. Nhưng tôi chưa biết phải dành cho ai vinh dự ấy. Chỉ có thế thôi.

Các bạn trai của Justine tò mò hỏi, khi nào và với ai, Justine sẽ quyết định trở thành một người đàn bà thật sự. Nhưng Justine vẫn không hấp tấp.

Cho đến một hôm Justine lọt vào cặp mắt của Arthur Lestrange. Arthur Lestrange, một diễn viên chuyên đóng vai kép mùi của đoàn kịch Alber Jones, hơn bốn mươi tuổi, gương mặt rất đàn ông, mái tóc dợn sóng, luôn gặt hái sự tán thưởng của khán giả mỗi khi xuất hiện trên sân khấu. Arthur Lestrange chú ý Justine khi Justine diễn một đoạn trong vở Lord Jim của Conrad.

Arthur mời Justine đi uống cà phê. Cuộc nói chuyện giữa hai người dẫn đến đề tài vốn sống cần thiết đối với một kịch sĩ. Justine tự cho mình hiểu gần hết các mặt của cuộc sống. Arthur đề cập đến kinh nghiệm sống, Justine trả lời cho đến nay tôi chỉ cần quan sát.

– Ồ! Nhưng nếu là chuyện tình yêu? Arthur hỏi ngược lại, cố tình chuyển giọng nặng xuống ở chữ cuối cùng – thì làm sao cô có thể đóng vai Julliette mà không biết tình yêu là gì?

– Anh đã thắng một điểm. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh.

– Cô có yêu bao giờ chưa?

– Chưa?

– Cô có biết điều gì về tình yêu chưa?

Lần này Arthur nhấn mạnh biết điều gì chứ không phải tình yêu.

– Chưa biết điều gì cả.

– Tôi rất muốn giúp cô biết được thế nào là một người đàn bà – Arthur đột ngột nói.

– Tại sao không? Được rồi, anh đừng dông dài nữa, coi chừng tôi đổi ý bây giờ.

Và chuyện biết được thế nào là một người đàn bà đã xảy ra ngay tối hôm đó tại khách sạn Metropole. Giữa hai người không có tình yêu. Với Justine chủ yếu là tò mò và để có vốn sống mà đóng vai Juliette. Trong suốt quá trình tìm hiểu Justine đòi nhờ Arthur hướng dẫn từng động tác một.

Sáng hôm sau Justine gặp Dane. Trong nhiều mặt, Justine gần gũi với Dane nhiều hơn là mẹ cô gần gũi với cô hay Dane. Mối liên hệ mật thiết giữa Justine và Dane hình thành rất sớm và ngày càng được củng cố. Justine thường kể lể dài dòng với Dane chuyện này chuyện nọ, nên cậu ta hiểu chị mình nhiều hơn là Justine hiểu được em mình. Trong chừng mực nào đó, Dane cho rằng Justine hơi bốc đồng về phương diện đạo đức, mình có nhiệm vụ cảnh giác Justine những điều mà người chị không chú ý đến. Thế là cậu ta chấp nhận đóng vai người nghe kiên nhẫn với một thái độ dịu dàng và một tình thương sâu kín dành cho Justine. Nếu Justine khám phá được những suy nghĩ thầm kín của Dane, cô ta có thể nổi khùng lên.

– Em nói xem tối hôm qua chị làm gì?

– Biểu diễn trong một vai chính? Dane đoán mò.

– Đần! Em tưởng chị cần nói chuyện đó để kéo em tới nhà vỗ tay khen chị à? Ráng động não đi.

– Chị nhận lãnh một cú đấm của Bobbie định tặng cho Billie?

– Em thật ngớ ngẩn!

Hai chị em đang ngồi trên thảm cỏ dưới bóng mát của nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh. Dane đã gọi điện thoại yêu cầu gặp Justine để báo cho biết mình sắp dự một lễ đặc biệt trong thánh đường.

Dane vừa kết thúc năm học cuối cùng ở Riverview tốt nghiệp thủ khoa toàn trường, là thủ quân của các đội quần vợt, bóng ném, bóng bầu dục và cricket. Mười bảy tuổi và cao một mét tám mươi lăm.

Hôm nay là một ngày đẹp trời, nắng ấm.

– Thế thì chị đã làm gì đêm qua, Justine?

– Chị đã không còn trinh tiết…, hình như thế.

Dane mở to hai mắt.

– Chị điên rồi!

– Hùm! Chị nghĩ cũng đã đến lúc rồi. Làm sao chị có thể trở thành một diễn viên giỏi nếu chị vẫn mù tịt về những chuyện xảy ra giữa người đàn ông và người đàn bà?

– Đáng lý chị nên dành cho người đàn ông mà chị sẽ lấy làm chồng.

Justine nhìn Dane nhăn mặt tỏ vẻ bực bội.

– Chị nói thật Dane nhé, em bảo thủ đến mức chị phải khó chịu. Nói như em, lỡ như chị không gặp người đàn ông ấy trước bốn mươi tuổi thì sao? Em muốn chị phải làm gì? Chị chỉ được dùng cái mông của chị để ngồi thôi trong suốt thời gian ấy? Em muốn thế phải không? Hay giữ cái đó cho đến ngày em lấy vợ?

– Có lẽ em sẽ không bao giờ lấy vợ.

– Vậy thì chị cũng thế. Trong trường hợp này, tại sao lại gói cái đó cẩn thận, thắt ru-băng màu xanh và cất kỹ trong một cái tủ sắt với những hy vọng hão huyền? Chị chẳng muốn chết một cách ngu đần như thế.

Nhưng rồi cái vẻ bất cần đời ấy bỗng mất đi trên gương mặt của Justine.

– Nhưng bây giờ chị thấy mình xấu xa. Nếu không hiểu rõ em, chị có thể nghĩ rằng em coi thường chị… hay ít ra cũng coi thường động cơ thúc đẩy chị làm chuyện đó.

– Chị rất hiểu em mà. Không khi nào em coi thường chị. Dù cho lý do chị nêu lên quả thật là kỳ cục và ngu ngốc. Em là tiếng nói của lương tâm chị, Justine O” Neill.

– Nhưng em cũng là một thằng ngốc!

– Ồ, Justine…! Dane nói giọng buồn bã.

Nhưng Dane chưa kịp kết thúc câu nói thì Justine lại nói tiếp thật nhanh:

– Mãi mãi, mãi mãi, chị sẽ không yêu bất kỳ ai! Nếu mình yêu người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Nếu mình cần người khác, người khác sẽ hủy diệt mình. Đúng thế, chị đoan chắc với em như thế.

– Sao mẹ im lặng thế? Dane hỏi. Mẹ đang nghĩ gì? Nghĩ về Drogheda phải không?

– Không, Meggie trả lời lạc giọng. Mẹ nghĩ là mẹ đã già rồi. Sáng nay khi chải đầu mẹ vừa phát hiện nhiều sợi tóc bạc. Các khớp xương của mẹ bắt đầu cứng lại.

– Mẹ sẽ không bao giờ già, Dane khẳng định một cách tự nhiên.

– Mẹ mong con nói đúng, con yêu quí của mẹ. Nhưng tiếc thay sự thật lại không như thế. Mẹ bắt đầu thấy cần nước nóng ở suối Borehead, đó là một dấu hiệu của tuổi già.

Hai mẹ con đang phơi nắng trên cỏ gần suối nướng nóng Borehead.

– Con có nghĩ đến chút nào về phụ nữ không Dane? Meggie hỏi giọng băn khoăn.

Dane mỉm cười.

– Chim và bướm, có phải mẹ muốn nói thế?

– Về chuyện này, con không dốt đâu, nhất là khi có một người chị như Justine! Mỗi khi cô ta khám phá điều gì đó trong quyển sinh lý học thì cô ta la ầm lên. Không phải chuyện đó. Mẹ muốn hỏi con đơn giản thôi, con có từng áp dụng trong thực tế những bài học của Justine?

Dane lắc đầu và trườn lên bãi cỏ đến sát bên mẹ. Cậu ta nhìn thẳng vào mắt:

– Thật cũng lạ khi mẹ hỏi con chuyện này. Lâu rồi con muốn đề cập vấn đề này với mẹ nhưng con không biết phải nói thế nào.

– Con chỉ mới mười tám tuổi. Cũng còn hơi sớm để vận dụng những hiểu biết ấy vào thực tế.

– Đó chính là điều con muốn nói với mẹ. Dứt khoát sẽ không bao giờ con làm như thế!

Gió lạnh như thổi lại từ giữa hai làn nước! Lạ thật, thế mà trưóc đây không bao giờ Meggie để ý hiện tượng đó. Chiếc áo choàng đâu rồi?

– Không áp dụng lý thuyết vào thực tế. Dứt khoát không áp dụng, Meggie lặp lại bằng một giọng đều đều mà không đặt câu hỏi về ý nghĩa của những lời lẽ ấy.

– Thưa mẹ, đúng như thế. Con không muốn. Không phải vì con không nghĩ tới, hay vì không muốn có vợ. Cũng có lúc con có nghĩ tới đó chứ, nhưng con không thể thực hiện được, vì rằng con không còn chỗ để yêu thương vợ và con cùng một lúc với Chúa. Con nhận ra điều này từ lâu. Con nghĩ rằng con vẫn thấy rõ điều đó và càng đi tới, tình yêu dành cho Chúa càng lớn hơn. Yêu Chúa, đó là một bí ẩn vĩ đại.

Meggie vẫn nằm dài, nhìn chăm chăm vào đôi mắt xanh ấy, đôi mắt bình thản và xa vắng. Đúng là đôi mắt của Ralph không khác một chút nào. Nhưng nó lại ánh lên một thứ lửa hoàn toàn không có ở Ralph. Phải chăng năm mười tám tuổi, đôi mắt của Ralph cũng đã từng ánh lên một thứ lửa ấy. Có phải đây là sự hưng phấn chỉ xuất hiện ở tuổi mười tám? Ngày Meggie bước vào cuộc đời của Ralph thì tuổi mười tám của Ralph đã trôi qua đến mười năm rồi. Nhưng con trai của Meggie là một người sùng tín, Meggie biết rõ điều đó từ lâu.

… Meggie thấy nghẹn ở cổ. Nàng kéo chiếc áo choàng sát vào người.

– Thế là, con đã tự hỏi con có thể làm gì để chứng minh với Chúa rằng con yêu thương Người đến mức nào, Dane nói tiếp. Trước đây con muốn có một cuộc sống của một người đàn ông bình thường. Con rất muốn giữ cuộc sống đó. Nhưng con lại hiểu Chúa chờ đợi gì ở con. Con đã biết… Chỉ có một điều duy nhất mà con có thể hiến dâng cho Người để chứng minh với Người rằng trong trái tim con chỉ có Người mà thôi, ngoài ra không thể có ai khác. Con phải hiến dâng cho Người sự hy sinh mà Người đòi hỏi ở con. Con phải chọn lựa. Người vẫn để cho con hưởng mọi lạc thú, ngoại trừ chuyện ấy. Con cần chứng tỏ với Người rằng con hiểu tại sao Người ưu đãi sự ra đời của con. Con cần chứng tỏ với Người rằng con ý thức về sự vô nghĩa của cuộc sống đàn ông nơi con.

– Không! Con không thể làm thế! Mẹ không bao giờ để cho con làm điều như thế! Meggie kêu lên, bàn tay bấu vào cánh tay con trai.

Làn da của Dane mịn làm sao! Dấu hiệu của một sức lực căng tràn giống như Ralph, hoàn toàn như Ralph! Thế mà từ nay sẽ không có một thiếu nữ nào có thể đặt bàn tay lên làn da ấy.

– Con muốn trở thành linh mục, Dane lại nói tiếp. Con biết không dễ dàng nhưng con đã nhất quyết như vậy.

Đôi mắt Meggie biến sắc! Nàng có cảm giác như Dane đã giết chết mình, đã nghiến nát mình dưới gót giày. Dane không ngờ rằng cậu ta phải hy sinh cả mẹ. Trước đó cậu ta tưởng rằng mẹ mình sẽ vô cùng hãnh diện về con trai, về hạnh phúc được hiến dâng đứa con trai cho Chúa. Thực tế trái lại, Meggie coi cái viễn ảnh Dane trở thành linh mục như một bản án tử hình đối với mình.

– Con không ước muốn điều gì khác mẹ ạ. Dane nói trong thất vọng khi nhìn thấy ánh mắt tắt lịm của mẹ. Mẹ ơi, chẳng lẽ mẹ không hiểu? Con đã không muốn gì và chẳng muốn gì hơn là trở thành linh mục! Con không thể khác hơn là linh mục!

Meggie để bàn tay mình buông thả, không đủ sức nắm cánh tay của con nữa; Dane nhìn xuống và thấy những vết tái hình cung nhỏ do móng tay để lại sâu trên da.

Meggie ngước đầu lên và cười điên dại, những tràng cười cuồng loạn, chua chát, mỉa mai.

– Trời ơi, Có lẽ nào đó là sự thật! Một lúc khá lâu Meggie mới nói được trong hơi thở dồn dập, một tay run rẩy lau những giọt nước mắt đọng lại trên má. Thật là trơ trẽn không thể tưởng tượng được! Hồng tro! Anh ấy đã gọi như thế chiều tối hôm phi ngựa đến vũng Borehead. Quả thật lúc đó mình không hiểu anh ấy muốn nói gì khi đề cặp hai tiếng ấy. Con chỉ là tro bụi và con hãy trở về tro bụi. Con thuộc vê Giáo hội, phải trả con về với Giáo hội. ôi! Chúa đáng nguyền rủa! Chúa xấu xa! Kẻ thù tệ hại nhất của những người phụ nữ. Chúa là thế đó! Tất cả những gì mình nỗ lực xây dựng, Người làm mọi cách để phá đổ!

– ôi, không phải thế đâu, không phải thế đâu mẹ ạ. Con van lạy mẹ!

Dane ôm mẹ khóc. Trong sự đau khổ của Meggie cậu ta không hiểu được lý do, cũng như không hiểu được ý nghĩa những gì mà Meggie đã nói. Nước mắt chảy dài xuống, trái tim thắt lại; thế là sự hy sinh đã xảy ra rồi mà cậu ta không hề nghĩ đến. Nhưng, dù khó vì nỗi đau mẹ, cậu ta vẫn không từ bỏ ý nghĩ hiến mình cho Chúa, không thể vì mẹ mà từ bỏ sự chọn lựa của mình. Sự hiến dâng cho Chúa phải được thực hiện, thực hiện càng khó khăn thì nó càng có giá trị trước Người.

Meggie đã làm cho con tai khóc; cho tới nay Dane chưa từng khóc do lỗi lầm của chính cậu ta gây ra. Thật là bất công nếu đổ trút lên con hình phạt mà mình phải gánh chịu. Dane không thể nào khác hơn con người mà những gien của nó đã hình thành hoặc Chúa đã hình thành. Chúa của Ralph. Đứa con trai yêu dấu ấy là ánh sáng của đời nàng. Không thể để nó đau khổ vì nàng, không thể được.

– Dane, con đừng khóc, Meggie thì thầm vừa vuốt ve những vết bầm hằn sâu trên cánh tay đầy lông tơ của Dane, hậu quả của một lúc giận dữ. Mẹ rất ân hận. Mẹ ăn nói lung tung. Mẹ bị bất ngờ quá có thế thôi. Tất nhiên là mẹ vui sướng vì con, vui sướng thật sự. Tại sao mẹ lại không vui nhỉ? Con dội cho mẹ cái tin ấy mà không chuẩn bị trước gì cả, con biết không?

ánh mắt của Dane sáng lên, nhìn mẹ không chút nghi ngờ. Tại sao Dane lại tưởng tượng một cách vô lý rằng mình đã giết chết mẹ? Bây giờ thì đúng là đôi mắt của mẹ, đôi mắt Dane quen thuộc và tràn đầy yêu thương, đôi mắt thật sinh động. Dane ôm mẹ trong vòng tay khỏe mạnh của cậu, siết mạnh mẹ vào lòng ngực.

– Mẹ nói thật là việc này không làm mẹ ưu phiền chứ?

– Sao lại ưu phiền? Một người mẹ công giáo tốt lại ưu phiền khi hay con mình muốn trở thành linh mục sao? Hoàn toàn không thể có chuyện đó (Meggie đứng phắt lên). Trời lạnh rồi đó! Mẹ con mình về đi.

Hai mẹ con đã đến đây trên chiếc Land Rover; Dane ngồi vào tay lái, Meggie kế bên.

– Con tính sẽ đi học ở đâu? Nuốt nước mắt, Meggie hỏi.

– Có thể ở tu viện Thánh Patrick. Dù sao cũng còn phải chờ lúc con có quyết định dứt khoát. Con cũng thích trở thành tu sĩ dòng Tên, nhưng bây giờ con vẫn chưa thấy thật chắc chắn.

Meggie nhìn đăm đăm những lớp cỏ ngà màu nâu lần lượt rạp xuống trước đầu xe, kính chắn gió trước mặt lấm tấm đầy xác côn trùng.

– Mẹ có một ý kiến rất hay, Dane ạ.

– ý kiến gìthưa mẹ?

– Mẹ sẽ gởi con đến La Mã, đến Hồng Y De Bricassart. Con nhớ Ngài chứ?

– Con nhớ Ngài không ạ – Sao mẹ lại hỏi lạ lùng vậy? Không thể nào con quên được Ngài. Với con, Ngài là hiện thân của một con người hoàn thiện Nếu con phấn đâu được theo gương của Ngài thì con mãn nguyện vô cùng.

– Sự hoàn thiện cũng chỉ là tương đối con ạ, Meggie nhận xét không giấu được chút cay đắng. Nhưng mẹ giao con cho Ngài vì mẹ biết rằng Ngài sẽ chăm sóc con chu đáo, như thế đủ cho mẹ vui lòng. Con có thể vào một tu viện ở La Mã.

– Có thật không mẹ? Thật chứ? ánh mắt Dane rực sáng niềm vui mờ nhạt tất cả nỗi âu lọ Nhưng mà nhà mình có đủ tiền cho con vào tu viện ở La Mã không? Sẽ tốn kém hơn nhiều so với việc hoc. tại úc.

– Tiền bạc cũng lại nhờ vào chính Đức Hồng Y De Bricassart. Con yêu thương của mẹ, con không bao giờ thiếu tiền đâu.

Về đến nhà, người đầu tiên Meggie gặp là bà Anne.

Từ mười tám năm nay, vợ chồng Luđie hàng năm đều đến nghỉ hè ở Drogheda và họ nghĩ rằng sẽ còn rất lâu như thế. Nhưng vào mùa thu năm trước Luđie Mueller đột ngột qua đời. Meggie đã viết thư đề nghị. Anne đến sống hẳn ở Drogheda; ở đây thật sự có thể đùm bọc cùng một lúc cả ngàn người khách. Nhưng để tránh cho Anne tự ái, Meggie gợi ý nếu bà muốn có thể góp một số tiền nào đó. Thật tâm, Meggie muốn trả ơn gia đình Mueller về những năm nàng sống cô độc ở miền Bắc Queensland.

– Có chuyện gì đó Meggie, Anne hỏi.

Meggie ngồi phịch xuống ghế.

– Em có cảm tưởng như vừa bị quật ngã bởi một tia chớp xử tội em.

– Sao?

– Chị và mẹ em, hai người đều có lý. Hai người đã tiên toán rằng mình sẽ mất nó. Em đã không tin. Em thật sự tưởng rằng em mạnh hơn Chúa, nhưng không bao giờ một người phụ nữ lại có thể đối đầu với Chúa được. Chúa là một người đàn ông.

Fiona rót một tách trà cho con gái.

– Con uống đi, bà nói như ra lệnh. Con đã mất nó như thế nào?

– Dane muốn trở thành linh mục.

Một tiếng cười gằn chen lẫn trong những tiếng khóc. Anne với lấy hai cây gậy, đi khập khiễng đến chiếc ghế bành của Meggie, vụng về ngồi lên trên tay ghế và vuốt mái tóc vàng hung óng ả của nàng.

– Ồ, Em của chị! Như thế có gì là ghê gớm đâu!

– Cô có biết chuyện của Dane không? Fiona quay qua Anne hỏi.

– Cháu biết từ lâu, Anne đáp.

Meggie dịu xuống:

– Không có gì ghê gớm lắm phải không mẹ? Đây là điểm khởi đầu của một sự kết thúc. Con đã cướp Ralph của Chúa và bây giờ con phải trả lại cho Chúa chính đứa con trai của con. Mẹ đã nói với con rằng đó là sự cướp đoạt, mẹ có nhớ không? Lúc đó con không chịu tin mẹ nhưng bây giờ mẹ có lý như đã từng có lý trước bao nhiêu điều khác.

– Nó sẽ vào tu viện Thánh Patrick? Fiona hỏi, bà luôn luôn thực tế.

Meggie cười vang, mẹ ạ. Không, con sẽ gởi Dane cho Ralph. Phân nửa con người Dane là của Ralph. Nó có thể dựa vào Ralph. Đối với con, Dane quan trọng hơn Ralph. Con biết Dane muốn đến La Mã.

– Em có thú nhận cho Ralph biết ông ấy là cha của Dane không? Lần đầu Anne đề cập đến vấn đề này.

– Không, không bao giờ em nói cho Ralph biết điều đó. Không bao giờ chị ạ.

– Hai người rất giống nhau đến mức không thể không nhận ra.

– Ai? Ralph à? ông ấy chẳng hề hay biết gì cả! Em sẽ giữ bí mật của em. Em gởi đến cho ông ấy đứa con của em. Chứ không phải đứa con của ông ấy.

– Coi chừng, đó lại là sự ghen tuông với thánh thần, Meggie – Anne nói thật nhỏ. Thánh thần chưa để em yên đâu.

– Em còn phải chịu hành phạt nào khác nữa? Meggie hỏi lại trong tiếng thở dài.

Chiếc xe hơi của Vatican đến rước Dane tại sân bay và đưa Dane đi qua các con đường ngập nắng đông đúc những người đi dạo.

Vừa ăn kem Dane vừa thích thú tò mò khám phá những bức tượng mà trước đây cậu ta chỉ nhìn thấy trong ảnh, những cột thời La Mã, những lâu đài xưa, Thánh đường Saint Peter, niềm tự hào của phục hưng.

Và tại đây, Ralph đón Dane, lần này từ đầu đến chân ông mặc toàn màu đỏ thắm. Ralph chìa bàn tay ra, chiếc nhẫn lấp lánh. Dane sụp quỳ xuống, hôn viên hồng ngọc.

– Con hãy đứng lên, để cha ngắm nhìn con một chút nào?

Dane đứng dậy, nụ cười trên môi, nhìn con người to lớn, có chiều cao như mình. Cả hai có thể nhìn nhau trong mắt. Với Dane, ở Hồng Y De Bricassart tỏa ra vầng hào quang chứa đựng một quyền lực tinh thần đặt ông vào tư thế một giáo chủ hơn là một vị thánh. Thế nhưng, đôi mắt ấy lại ngập tràn một nỗi buồn u uẩn, lại càng không phải là đôi mắt của một người giáo chủ. Ôi, ông đã trải qua biết bao đau khổ khiến cho đôi mắt còn đọng lại nỗi buồn ấy, nhưng ông đã vượt lên sự đau khổ một cách cao thượng để trở thành vị linh mục hoàn toàn giữa chúng ta.

Trong khi đó Hồng Y De Bricassart nhìn đứa con trai mà ông không biết đó là con mình. Ông yêu thương Dane vì ông nghĩ rằng đó là con của Meggie yêu dấu. Nếu ông có một đứa con trai, ông rất muốn nó giống như chàng trai đứng trước mặt ông, cũng cao lớn, có một nét đẹp thu hút và có duyên.

Nhưng ông bằng lòng hơn tất cả là những nét hấp dẫn về thể hình, ở Dane hiện rõ cái đẹp từ sự giản dị của tâm hồn. Dane có sức mạnh của những thiên thần và phần nào đó là sự cao cả của họ. Bản thân ông có được như thế ở tuổi mười tám không? Ralph cố nhớ lại và khơi dậy trong trí nhớ biết bao sự kiện của mọt cuộc đời đã về chiều… Không. Ông không hề có những gì như Dane hôm nay. Phải chăng vì con người này đã thật sự đến với Chúa do sự chọn lựa của chính mình? Còn với ông, thì không phải như thế, dù cho ông có thiên hướng. Về điều này ông nhớ rất kỹ.

– Con hãy ngồi xuống, Dane. Con có làm theo lời cha căn dặn, đã bắt đầu học tiếng chưa?

– Con đã đạt trình độ có thể nói trôi chảy nhưng chưa sử dụng thành thạo các thành ngữ. Con đọc rất dễ dàng, vì đây là sinh ngữ thứ tư của con nên việc học cũng thuận lợi. Vài tuần lễ ở àsẽ giúp con làm quen với ngôn ngữ bình dân.

Em giao cho anh trách nhiệm chăm sóc Dane – thư của Meggie viết. – Cuộc sống yên vui và hạnh phúc của nó tùy thuộc vào anh. Em đã lấy cắp cái gì, em xin trả lại cái đó. Người ta buộc em như thế. Chỉ xin anh hứa với em hai điều để em yên tâm là anh hết lòng lo cho Dane. Thứ nhất, anh hứa với em trước khi Dane có một sự chọn lựa dứt khoát, chính anh phải hiểu rõ một cách chắn chắn thiên hướng thật sự của Dane. Thứ hai, nếu thiên hướng của Dane là đúng như vậy, anh hãy trông nom làm sao cho sự lựa chọn ấy không bị chao đảo. Còn ngược lại, em muốn Dane trở về với em. Vì trước hết, nó thuộc về em. Chính em đã trao nó vào tay anh.

– Dane, con có tin chắc vào thiên hướng của con?

– Chắc chắn thưa Đức cha.

– Tại sao?

– Vì tình yêu mà con dành cho Chúa; con muốn được phục vụ Chúa, suốt đời là người chăn dắt con chiên cho Chúa.

– Con có hiểu điều gì đòi hỏi ở người làm tôi tớ của Chúa?

– Con hiểu.

– Rằng không có một tình yêu nào khác được chen vào giữa Chúa và con? Con hoàn toàn thuộc về Chúa và từ bỏ tất cả

– Thưa vâng.

– Rằng mọi việc đều hành xử theo ý muốn của Người; khi trở thành tôi tớ của Người, con phải từ bỏ nhân cách, cái nhân của con, từ bỏ ý nghĩ cho rằng bản thân con là quan trọng?

– Thưa vâng.

– Rằng con sẵn sàng đối đầu với cái chết, tù tội, cái đói nhân danh Người? Rằng con sẽ không sở hữu bất cứ cái gì, không để cho bất cứ cái gì ảnh hưởng xấu đến tình yêu của con hiến dâng cho Người?

– Thưa vâng.

– Con có nghị lực không Dane?

– Con là một người đàn ông. Con biết rằng sẽ rất khó khăn nhưng con cầu nguyện Người giúp con.

– Con có thật sự tin ở con không Dane? Không có điều gì khác có thể làm con sa ngã?

– Thưa vâng.

– Và nếu sau này, con thấy cần thay đổi ý kiến con sẽ làm thế nào?

– Con sẽ xin rời khỏi nơi đây, Dane trả lời, vẻ ngạc nhiên. Nếu con thay đổi ý kiến, duy nhất chỉ vì con sai lầm khi định ra thiên hướng của mình, chứ không do một nguyên nhân nào khác. Trong trường hợp này, con sẽ xin rời khỏi nơi đây. Con sẽ tiếp tục yêu Người nhưng con hiểu ra rằng không phải bằng cách này Người muốn con phục vụ cho Giáo hội.

– Nhưng khi con đã phát nguyện và đã được thụ phong, con phải biết rằng con không trở lui lại được nữa, con sẽ không có cách nào để giành lại sự tự do của con.

– Thưa Đức cha con hiểu, Dane kiên trì khẳng định. Nhưng nếu phải lấy một quyết định thì con sẽ làm việc đó trước khi con phát nguyện.

Hồng Y De Bricassart ngả lưng vào ghế bành, thở ra. Xưa kia ông đã từng có một quyết tâm như thế. Có bao giờ ông đã chứng tỏ một nghị lực như thế?

– Tại sao con tìm đến ta hở Dane? Tại sao con lại mong muốn đến La Mã? Tại sao không ở Úc?

– Mẹ con đã có ý nghĩ đưa con đến La Mã nơi mà chính con cũng mơ ước từ lâu. Nhưng trước kia con không tin rằng gia đình có đủ tiền gửi con đến đây.

– Mẹ con rất sáng suốt. Và mẹ con đã nói cho con biết rõ chứ?

– Biết chuyện gì thưa Đức cha?

– Biết rằng hằng năm con có một khoản tiền năm ngàn bảng và hiện trong ngân hàng con có một số tiền dành dụm lên đến vài chục ngàn.

Dane giật mình.

– Không, mẹ con chưa bao giờ nói với con điều đó.

– Đúng là mẹ con rất thận trọng. Nhưng bây giờ con đã biết con có sẵn một số tiền như thế, vậy con có muốn ở lại La Mã không?

– Thưa vâng.

Điện thoại reo, Hồng y thản nhiên nhấc ống và trả lời bằng tiếng Ax.

– Vâng cảm ơn. Chúng tôi sẽ đến ngay (Hồng Y đứng lên). Đã đến giờ uống trà, chúng ta sẽ uống trà với một trong những người bạn già thân nhất của cha. Sau Đức Thánh cha, ông ấy là người quan trọng nhất trong Giáo hội. Cha đã báo cáo với Đức ngài về sự có mặt của con và Ngài có ý muốn gặp con.

Vittorio Scarbanza tức Hồng Y Di Contini Verchese đã sáu mươi sáu tuổi, bị phong thấp nặng nhưng đầu óc vẫn bén nhạy như ngày nào. Con mèo cái của ông – Natasha – đang nằm ngủ trên đùi. Ông không thể đứng lên chào khách nhưng tươi cười và dùng đầu ra dấu mời khách đến gần. Đôi mắt ông nhìn bắt gặp vẻ gì đó rất quen thuộc. Đôi mắt ông mở to rồi nhíu lại. Ông cảm thấy tim ông như ngừng lại và đưa tay lên ngực với một cử chỉ có vẻ tự trấn an. Một lúc sau miệng há hốc và ánh mắt vẫn nhìn thẳng anh thanh niên có gương mặt giống hệt De Bricassart như một bản sao.

– Vittorio, có sao không? Hồng Y De Bricassart vừa âu lo vừa cầm lấy tay của Di Contini Verchese để xem mạch.

– Không sao. Một cơn đau nhẹ thoáng qua, thế thôi. Hai người ngồi xuống đi, xin mời.

Dane quỳ xuống, áp mạnh môi lên chiếc nhẫn.

– Con hãy ngồi. Một lát nữa hãy pha trà. Ồ, ông bạn thanh niên, con muốn trở thành linh mục phải không và con tự đặt mình dưới sự che chở của Hồng Y De Bricassart?

– Thưa Đức cha, vâng.

– Sự chọn lựa của con thật đúng. Được Hồng Y De Bricassart bảo trợ con khỏi phải e ngại điều gì không hay xảy ra. Nhưng sao cha thấy con có vẻ âu lo, phải chăng vì con chưa quen nơi này.

Dane mỉm cười, cũng lại nụ cười duyên dáng của Ralph mà chính anh không hề biết. Nụ cười ấy giống Ralph đến đỗi khiến cho trái tim già nua và mệt mỏi nhói lên như vừa bị một mũi nhọn kẽm gai đâm vào.

– Con bối rối, thưa Đức cha. Con hoàn toàn bất ngờ và xúc động vì đứng trước các Hồng Y. Con không bao giờ dám mơ ước được có người đón ở phi trường và càng không dám nghĩ được uống trà với Đức cha.

– Đúng thế, đây là chuyện bất thường. Ồ, đã có trà… Ông theo dõi vị nữ tu đang đặt tách đĩa bằng ánh mắt vui vẻ, rồi đưa ngón tay lên để ngăn Ralph lại. Ồ, không! Hãy để cho tôi đóng vai chủ nhà. Dane, con thích uống trà thế nào?

– Thưa cũng như Ralph, trả lời xong cậu đỏ mặt. Xin lỗi Đức cha, con không có ý định gọi như thế…

– Không sao Dane à, Ralph cắt ngang. Hồng Y Di Contini Verchese không bắt lỗi con đâu. Chúng ta đã gặp và quen nhau bằng cách gọi nhau Dane và Ralph. Và như thế chúng ta sẽ thân thiết nhau hơn nhiều, phải không? Nghi thức chỉ tạo sự xa lạ hoàn toàn trong các quan hệ giữa chúng ta. Tôi muốn chúng ta vẫn là Dane và Ralph trong thân tình; Đức cha không thấy gì bất tiện chứ?

– Không. Ralph là người ủng hộ việc gọi nhau bằng tên. Nhưng, trở lại chuyện đang nói dở dang lúc nãy cha nghĩ đến việc con có những người bạn có chức vị cao – chẳng hạn như mối quan hệ tình bạn lâu ngày với Ralph – sẽ gây phiền phức cho con khi con đặt chân vào tu viện nào đó mà Ralph sẽ chọn lựa cho con. Thật là bực bội nếu phải luôn luôn giải thích dài dòng mỗi khi mối quan hệ giữa hai người gây nên sự chú ý. Đôi khi, Chúa của chúng ta cho phép nói láo một cách thành khẩn. Vì lợi ích chung, ta thấy tốt hơn nên bẻ cong một chút sự thật. Do rất khó giải thích cho suông sẻ các mối quan hệ tình cảm riêng tư, tốt hơn là nên nêu ra mối liên hệ dòng họ. Như thế chúng ta có thể nói với mọi người rằng Hồng y De Bricassart là cậu của con, Dane và chúng ta dừng lại ở mối quan hệ đó. Hồng Y Di Contini Verchese kết thúc bằng một giọng ngọt ngào.

Dane hơi bị khó chịu về những điều vị Hồng Y nói, còn Ralph thì cúi đầu im lặng.

Hồng Y Di Contini Verchese dịu dàng nói tiếp:

– Con đừng thất vọng vì các tên tuổi nổi tiếng cũng có những đôi chân bằng đất sét và có khi họ cũng cần nói láo để giữ được một sự yên ổn nào đó. Con vừa học được một bài học rất bổ ích. Tuy nhiên con phải hiểu, các Hồng Y là những nhà ngoại giao rất sâu sắc. Thật ra, ta chỉ nghĩ đến con, chỉ vì con thôi, Dane ạ. Lòng ghen tị và sự thù ghét cũng phổ biến trong các tu viện chẳng khác nào các trường học ngoài đời. Con sẽ phải chịu đựng một chút vì người ta cho rằng Ralph là cậu của con, anh của mẹ con, nhưng con sẽ phải chịu đựng nhiều hơn nếu người ta nghĩ rằng giữa hai người không có một mối liên hệ bà con nào cả. Chúng ta trước hết là những con người, vì thế mà phải đối đầu với con người trong môi trường này hoặc môi trường khác.

Dane cúi đầu, rồi chồm ra phía trước định đưa tay vuốt ve con mèo cái nhưng anh kịp dừng lại.

– Con xin phép… Con rất yêu mèo, thưa Đức cha.

Thái độ của Dane khiến tấm lòng trung thực của Hồng Y Di Contini rộng mở:

– Vâng. Ta phải thú nhận rằng bây giờ nó hơi nặng ký vì ăn hơi nhiều… Phải không Natasha?Con qua Dane đi, hãy đến với thế hệ mới.

Hai tháng sau khi Dane đi La Mã, Justine cũng đi Anh. Mùa kịch ở Culloden kết thúc, Justine rời chung cư Bothwell Gardens không luyến tiếc. Meggie chỉ đến Sydney hai lần. Lần đầu để đưa Dane và lần nãy tiễn Justine. Đến giây phút cuối cùng chia tay, Meggie vẫn nhìn thấy có quá nhiều khác biệt giữa bản thân mình với con gái. Tính tình Justine ngổ ngáo. Nếu bị trách phiền, Justine trêu chọc mẹ: “ Như mẹ vẫn nói, con giống ba chớ đâu giống mẹâ€. Trên boong tàu nhìn xuống, Justine không nghĩ rằng mẹ mình đã năm mươi tuổi.

Do có tiền bạc dư dả, Justine cảm thấy Luân Đôn trở thành một nơi đặc biệt hấp dẫn. Nhất định cô không chọn một cuộc sống nghèo nàn ở khu Earl” s Court – mệnh danh “Kangaroo Valley†– nơi có rất nhiều người Úc.

Justine mướn một căn hộ tiện nghi ở Kensington, gần Knightsbridge và ký hợp đồng với đoàn kịch Clyde Daltinham – Roberts.

Mùa hè đến, Justine đi tàu hỏa sang La Mã. Con tàu đi xuyên qua Pháp và ànhưng Justine không nhớ mình đã nhìn thấy những gì vì đầu óc của cô chủ yếu tập trung ôn lại những chuyện sẽ kể cho Dane nghe. Và đúng là có quá nhiều điều để nói.

Có phải Dane đó không? Chàng thanh niên cao lớn, tóc vàng đứng ở sân ga chính là Dane?

Dane không khác xưa bao nhiêu, nhưng cũng không còn là đứa em trai bé nhỏ. Cuộc sống của Dane tạo ra một khoảng cách với Justine, xa lạ cứ như là hiện giờ Justine đang ở Drogheda.

Khi về đến khách sạn, cậu em trai nói với chị:

– Chị có cảm thấy phiền hà không nếu em mời chị chiều nay uống trà với vài người bạn của em? Em hơi vội vàng lỡ nhận lời trước rồi. Họ rất muốn được biết mặt chị…

– Đồ ngu! Tại sao lại phiền hà? Nếu hai đứa mình ở Luân Đôn, chị cũng sẽ nhận chìm em qua giữa bạn bè của chị thôi. Chị rất vui được biết bạn bè của em ở tu viện ra sao, dù có thể sẽ chẳng có thú vị lắm. Chắc chắn là không mê được một chàng trai nào đâu.

Trong phòng ngủ khách sạn, đứng gần cửa sổ, nhìn qua bên ia trong cảnh lặng im và buồn, xa xa là bức tường bao quanh một nhà thờ, Justine gọi khẽ.

– Dane!

– Chuyện gì?

– Chị thông cảm em. Chị thông cảm em thật sự.

– Vâng, em biết. Em rất mong mẹ cũng hiểu em, Justine ạ.

– Với mẹ thì khác. Mẹ có cảm tưởng là chúng ta đã bỏ rơi mẹ, nhưng em đừng âu lo vì mẹ, trước sau gì mẹ cũng chấp nhận thôi.

– Em hy vọng như thế – cậu ta cười – Thật ra chiều này những người chị gặp không phải là bạn em ở tu viện. Không bao giờ em đẩy chị và các bạn em vào một thứ bẫy cám dỗ như thế. Chị sẽ gặp Hồng Y De Bricassart. Em biết chị không có cảm tình với ông ấy nhưng chị hãy hứa với em là chị sẽ tỏ ra dễ thương.

Trong mắt của Justine thoáng một ánh tinh nghịch.

– Chị hứa với em. Chị sẽ hôn lên tất cả những chiếc nhẫn mà ông ấy chìa ra.

– Cả Hồng Y Di Contini Verchese cũng có mặt.

Bình luận