Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tôi Là Bêtô

Chương 7

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh

61

– Màu yêu thích nhất? 

– Màu yêu thích nhất? 

– Màu trắng. 

– Vì nó sạch sẽ? 

– Không. Vì đó là màu lông của người bạn tốt nhất của tao. 

Tôi thấy cặp mắt Binô đưa qua đưa lại, long lanh như hai giọt nước. 

Binô hiểu tôi muốn nói gì. Nó hiểu rằng khi ta yêu ai bao giờ cũng yêu tất cả những gì thuộc về người đó, cả điều hay lẫn điều dở. Cả những điều không 

Cặp mắt đó vẫn tiếp tục đong đưa. Và mũi thì khìn khịt. Binô cảm động quá, không làm sao hỏi được câu hỏi tiếp theo.

Mãi một lúc nó mới nói được, nghẹn ngào, và không có vẻ gì là câu hỏi: 

– Còn tao, tao thích màu đen. 

Dĩ nhiên, đen là màu lông của tôi. 

Dĩ nhiên, tới lượt tôi khìn khịt.

 

Trong bản TỰ BẠCH của Binô có những điều nếu nó không nói ra thì tôi cũng biết thừa: “Đặc điểm nhận dạng: Một khối bông mà không phải là một khối bông- Sở thích nghĩ ngợi – Điều thích nhất: Leo lên cầu thang – Điều sợ nhất: Leo xuống cầu thang – Loại người ghét nhất: Những người như lão Hiếng – Loại người thích nhất: Những người như chị Ni”. 

Có một điều tuy biết thừa nhưng khi nghe chính Binô bộc bạch, lòng tôi vẫn nao nao: “Điều hài lòng nhất trong cuộc sống: Kết bạn với Bêtô”. Khi nói ra điều đó, Binô có vẻ ngượng ngùng nhưng ánh mắt nó nhìn tôi thật ấm áp. 

Có một điều tuy biết thừa nhưng khi nghe chính Binô bộc bạch, lòng tôi vẫn nao nao: “Điều hài lòng nhất trong cuộc sống: Kết bạn với Bêtô”. Khi nói ra điều đó, Binô có vẻ ngượng ngùng nhưng ánh mắt nó nhìn tôi thật ấm áp. 

Con người thường nói “Tình bạn là tình yêu không có cánh”. Tôi rất thích cách ví von đó. Bởi tôi và Binô cũng không đứa nào có cánh. Cho nên chắc chắn chúng tôi sẽ mãi mãi là bạn tốt của nhau.

 

Binô ghét nhất là câu: Chó sủa là chó không cắn. Nó bảo điều đó không hoàn toàn đúng với loài chúng tôi. 

Thứ nhất, chúng tôi có thể sủa, và ngay sau đó là cắn. Gặp người lạ, những con chó đàng hoàng bao giờ cũng chọn sủa như một thái độ ưu tiên. Trong trường hợp đó, tiếng sủa có ý nghĩa thông báo cho chủ nhà, vừa như một cảnh báo đối với người lạ. 

Sủa, đó là biển báo của chúng tôi – tương tự như các biển báo của loài người: KHU VỰC NGUY HIỂM CẨM LẠI GẦN, hoặc là KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO, cũng có thể là cả hai. 

Dĩ nhiên có những giống chó được con người huấn luyện để làm mỗi một chuyện là săn lùng và tấn công tội phạm, thường là trong lặng lẽ. Nhưng đó là những con chó đặc biệt, đã thông qua sự nhào nặn của con người. 

Chúng là những con chó hữu ích, nhưng tính cách đó không tiêu biểu cho loài chúng tôi. 

Từ bao đời nay, trong mọi tính huống, chúng tôi chuộng cách đối đầu công khai và trực diện. NHư một bản năng đạo đức.

 

Nếu loài người có nhiều tộc người khác nhau. Chúng tôi cũng có nhiều giống chó khác nhau. 

Chó săn như Beagie, Foxhound, Greyhound. 

Chó thể thao như Pointer, Retriever, Coker Spaniel, Irish Setter. 

Chó lao động như Shepherd, Newfounđlan, Terrier, St.Bernard, Husky Siberia…. 

Giống chó thứ ba thường giúp việc cho người mù, làm công tác cứu hộ hoặc kéo xe. Tôi vẫn mơ ước được kéo xe trượt tuyết trong tư cách một con chó lao động mặc dù tôi không thuộc giống Husky Siberia. Nhưng dù là giống chó nào đi nữa, trước loài người chúng tôi vẫn có một ngôn ngữ chung. Đó là SỦA. 

Con người cần học cách hiểu chúng tôi, vì SỦA bản thân nó là một ngôn ngữ. Với những ý nghĩa và sắc thái tình cảm đa dạng và hoàn toàn khác nhau. 

Bằng tiếng sủa, chúng tôi báo động, chúng tôi giận dữ, chúng tôi mừng rỡ, chúng tôi khóc than. 

Tất nhiên, SỦA cũng là một thái độ xã hội. Một con chó sống một mình ngoài hoang đảo không cần phải sủa. Nó chỉ cần tru lên vào những đêm trăng. 

Buồn thay, với những đầu óc giản đơn, SỦA chỉ là SỦA, Binô ghét câu: “Chó sủa là chó không cắn” là vì vậy. Nó bảo: Bọn họ chẳng biết cái quái gì về tụi mình hết! 

“Đã vậy – Binô làu bàu – bọn họ còn dùng nhận xét 

Ờ, với loài người, điều đó có thể đúng. Nhưng với chúng tôi thì sai be bét.

 

Căn cứ vào bản tự bạch của Binô thì câu thành ngữ nó thích nhất là câu: “Chó ngáp phải ruồi”. Và điều đó làm tôi bất ngờ hết sức. 

Tôi nói: 

– Câu đó chả có gì hay ho. Nó chỉ muốn nói đến sự may mắn. 

– Nó muốn nói đến chuyện gì không quan trọng. Tao thích nó theo nghĩa đen. 

– Là sao? – Tôi không hiểu. 

Binô chớp mắt: 

– Tao từng ngáp phải một con ruồi. 

Tôi chưa từng biết có ai ngáp phải một con ruồi. Tôi cũng không bao giờ nghĩ điều đó có thể xảy ra trong thực tế. Ai cũng biết “chó ngáp phải ruồi” chỉ là một cách nói ẩn dụ. 

Nhưng Binô đã ngáp phải một con ruồi. 

Tôi ngẩn ngơ một lúc rồi nói: 

– Mày thật là may mắn. 

– Tao chỉ thấy buồn cười. 

– May mắn nữa. – Tôi cãi – Câu thành ngữ này nói đến sự may mắn chứ không phải nói đến sự buồn cười. 

– Không đâu, Bêtô. Một con ruồi không phải là một cái đùi gà. Một con chó ngáp phải một con ruồi chỉ thấy buồn cười thôi. Hơn nữa. “Chó ngáp phải ruồi” thực ra không phải nói về sự may mắn mà nhằm chế giễu sự may mắn. 

Binô đột nhiên nghiêm trang: 

– Gặp được mày, đó mới là sự may mắn của tao. Chứ không phải chuyện tao ngáp được thứ gì.

 

Tôi chẳng hiểu Binô thích tôi ở điểm nào. 

Binô là một đứa bạn thú vị. Trong khi ngược lại, tôi là một đứa nhạt nhẽo. Có lẽ nó thích tôi chỉ vì tôi thích nó. 

Con người chắc cũng vậy: đôi khi bạn yêu mến một ai đó đơn giản chỉ vì người đó thật lòng yêu mến bạn. Tâm hồn chúng ta được sinh ra là để chờ đáp lại niềm yêu mến đến từ một tâm hồn khác. Nó giống như chiếc ống sáo, sẵn sàng reo lên khi ngọn gió mùa hè thổi qua. 

Tôi không những nhạt nhẽo, còn ưa tranh cãi. 

Khi nghe Binô bảo nghề nghiệp yêu thích của nó là làm xiếc – là diễn viên xiếc, tôi không khỏi nằm vật ra sàn nhà, lăn qua lăn lại vì quá buồn cười. 

– Làm xiếc không chỉ là kéo xe mà còn phải biết đi hai chân, phải biết ngồi trên đuôi mình…- Cuối cùng tôi nói, sau khi đã ngồi dậy. 

– Tao làm được. 

Binô đáp và nó vụt đứng lên trên hai chân sau. Tôi nhìn sững Binô, thán phục khi thấy nó đột nhiên cao lêu nghêu như một cái tháp chuông. 

Nhưng nó chỉ đứng được như thế một chốc thôi, rồi lảo đảo vài bước và vội vã đặt hai chân trước xuống. 

– Tao sẽ tập. Rồi tao sẽ làm được như những con chó trong rạp xiếc. 

Binô nhìn tôi bằng ánh mắt mà chỉ vừa chạm vào tôi đã tin ngay.

 

Nhưng đi ai chân không phải là tiết mục khó nhất của một diễn viên xiếc. 

Tôi đi lòng vòng quanh Binô, tất cả là ba vòng, rồi mới ngần ngừ cất tiếng: 

– Mày còn phải biết nhảy qua vòng lửa. 

– Tao làm được. 

– Mày làm được thật à? 

– Nhảy qua vòng lửa là điều tuyệt vời nhất mà một con cún có thể làm được. Vì vậy mà tao sẽ làm. 

Tôi nói, và không hiểu sao tôi lại nói như thế về ước mơ của bạn mình, thậm chí nếu không phải là một con cún thì chắc tôi đã bĩu môi: 

– Tao nghĩ một đứa không dám leo xuống cầu thang sẽ không bao giờ dám nhảy qua vòng lửa. 

– Bêtô! 

Binô kêu lên, giọng nó lớn đến mức có cảm tưởng tôi vừa phạm phải một sai lầm ghê gớm.

 

Có lẽ bạn cũng từng phạm những sai lầm tương tự, nhất là khi bạn còn quá trẻ. 

Quá trẻ thì không hiểu được rằng ước mơ đôi khi không phải là điều nhất định phải thực hiện cho bằng được, hơn nữa có thể là điều người ta không có khả năng thực hiện trong suốt cuộc đời mình. 

Gặp một chú lùn ước mơ lớn lên sẽ chơi bóng rổ hay một chú bé bị dị tật ở chân nuôi mộng sau này trở thành ngôi sao bóng đá thì đó không phải là điều mà bạn nên chế nhạo. 

Một ngày nào đó bạn sẽ nhận ra ý nghĩa của ước mơ không phải ở chỗ nó có phù hợp với khả năng thực tế hay không. Điều quan trọng là nó cho phép bạn sống thêm một cuộc đời nữa với cảm xúc của riêng bạn, trong một thế giới mà bạn có thể hoá thân một cách hồn nhiên nhất vào đấng toàn năng. 

Như vậy, ước mơ không chỉ là chiếc bàn là tinh thần giúp bạn ủi thẳng những nếp nhăn của số phận mà còn là cách để bạn bắt gặp hình ảnh của Thượng đế trong bản thân mình.

 

Ba chị Ni viết “Ở đây áo ấm, trời lên Tết” nhưng tôi không thấy ông mặc áo ấm bao giờ, kể cả khi ông đi ra phố. 

Nhưng tôi và thằng Binô thì được chị Ni khoác cho mỗi đứa một chiếc áo may bằng thứ vải rất dày. Đó là mảnh vải hình chữ nhật có khoét bốn lỗ để xỏ chân vào, và gài nút phía dưới bụng. 

Tôi mặc chiếc áo sọc xanh, Binô mặc chiếc áo sọc vàng và hai đứa cứ đứng đực mặt ra ngắm nghía nhau như thể chúng tôi chưa quen bao giờ. 

Cảm giác lạ lẫm đó thật thú vị. 

Mẹ chị Ni có lẽ cũng thích cảm giác đó khi bà kêu ba chị Ni giúp bà kê chiếc tủ qua bên phải, dịch chiếc bàn qua bên trái, còn chiếc đi-văng thì đẩy vào sát góc nhà. Tủ ly tách năm ngoái nằm ở bậc cửa dẫn xuống nhà bếp, năm nay đã nhích dần lên gần phòng khách. Chiếc đồng hồ treo trên tường cũng không còn ở vị trí cũ: trước đây nó quay mặt về hướng Nam, bây giờ quay mặt về hướng Đông, mặc dù tôi không nghĩ sự thay đổi đó sẽ giúp nó chỉ giờ chính xác hơn. Đồ đạc trong nhà không có thêm món gì khác, nhưng khi mọi thứ đã xê dịch, tôi và Binô có cảm tưởng vừa dọn về nhà mới. Chúng tôi dọ dẫm khắp các ngóc ngách, chui vào gầm tủ, gầm đi-văng, đánh hơi mọi thứ với vẻ nghi ngờ. 

Cảm giác kỳ lạ đó lấp đầy chúng tôi suốt nhiều tuần lễ liền cho đến khi chúng tôi làm quen được với vị trí của các đồ vật. 

Những gì tôi kể ra thật là nhỏ nhặt. Nhưng phải chăng quy luật của cuộc sống cũng không có gì to tát: khi bạn thay đổi một góc nhìn, bạn sẽ thấy thế giới mà bạn đang sống hiện ra dưới một thứ ánh sáng khác, và biết đâu nhờ vậy mà quan niệm của bạn về thế giới cũng khác đi!

 

Nhưng tôi chỉ được mặc áo vào ban đêm. 

Những ngày đầu xuân, thời tiết trở nên khác thường. Hôm nào cũng vậy, cả nhà vừa dùng xong bữa tối, tiết trời bắt đầu se lạnh và bọn mèo hoang bắt đầu ho sù sụ trên các mái nhà. 

Có nhiều đêm tôi và Binô chui vào sau kẹp tủ, cố tránh xa các cửa sổ, vừa ngủ vừa ép sát người vào nhau nhưng chúng tôi vẫn bắt gặp mình run lên qua hòa âm của những tiếng rên. 

Từ khi khoác thêm lớp áo dày, chúng tôi có cảm giác ái đó vừa quạt than dưới da mình. Tôi lại có dịp mơ những giấc mơ về thảo nguyên, trên cánh đồng quen thuộc đó tôi và Binô lại được nô đùa thoả thích, lại lăn lộn trên cỏ nhiều giờ liền nhưng lần này chiếc áo đã giữ cho mớ lông trắng của Binôt bớt vấy bẩn và xơ xác hơn. Trong rất nhiều ngày, giấc ngủ của tôi đã được những giấc mơ đó sưởi ấm đến tận sáng bảnh. 

Khi nắng lên, chị Ni ôm từng đứa vào lòng, một tay giữ chặt không cho chúng tôi cựa quậy tay kia lần cởi từng cúc áo. 

Tôi nhìn Binô, tiếp tục thấy lạ lẫm, lần này vì chẳng thấy chiếc áo sọc vàng trên người nó đâu. Cứ như thể nó vừa bước ra khỏi giấc mơ đêm qua của tôi và trong khi vội vàng hắn đã đánh rơi chiếc áo ở chỗ nào đó ngay rìa cơn mơ. Chắc thế!

Bình luận