Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ông Trăm Tuổi Trèo Qua Cửa Sổ Và Biến Mất

Chương 18

Tác giả: Jonas Jonasson

1953
Trong năm năm và ba tuần, tất nhiên Allan đã học tiếng Nga khá chuẩn nhưng lại quên sạch chỗ tiếng Trung Quốc. Bến cảng là một nơi thực sự sống động, và Allan đánh bạn với những thủy thủ trở về, người có thể cập nhật cho ông về những gì đã xảy ra trên thế giới.

Một trong những điều đã xảy ra là Liên Xô đã nổ quả bom nguyên tử của mình một năm rưỡi sau cuộc gặp của Allan với Stalin, Beria và Yury Borisovich tốt bụng. Phương Tây nghi ngờ họ hoạt động gián điệp, bởi vì quả bom dường như được xây dựng theo nguyên tắc y hệt như kiểu Mỹ. Nhưng Allan thì nhớ lại hồi ở trên tàu ngầm, trong khi tu vodka thẳng từ chai, Yury thực sự đã có bao nhiêu gợi ý.

Tôi ngờ rằng, Yury Borisovich đáng mến là một tổ sư về nghệ thuật vừa uống rượu vừa nghe chuyện cùng lúc, ông nói.

Allan còn biết thêm là Mỹ, Pháp và Anh đã hợp nhất khu vực chiếm đóng của họ và thành lập nước cộng hòa liên bang Đức. Stalin nổi giận, ngay lập tức trả đũa bằng cách lập ra một nước Đức của mình, Tây Âu và Đông Âu mỗi bên đều có một nước Đức. Allan thấy nó nghe có vẻ thực tế.

Và vua Thụy Điển đã chết, theo như Allan đọc được trong một bài báo Anh, chẳng biết vì sao lại có trong tay một thủy thủ Trung Quốc, người nhớ ra mình đã từng trò chuyện với gã tù nhân Thụy Điển ở Vladisvostok nên đã mang nó theo. Khi tin đến với Allan thì nhà vua đã chết gần một năm rồi, nhưng cũng chẳng quan trọng. Và một vị vua mới ngay lập tức đã kế vị, do đó, mọi thứ ở cố hương đều OK.

Nhưng các thủy thủ ở cảng chủ yếu nói về cuộc chiến tranh Triều Tiên. Và cũng chẳng đáng ngạc nhiên lắm. Rốt cuộc thì Triều Tiên chỉ cách đấy khoảng 200 km.

Theo như Allan hiểu thì tình hình là:

Bán đảo Triều Tiên gần như bị bỏ rơi khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Stalin và Truman mỗi bên chiếm một phần trong thỏa thuận anh em, quyết định rằng vĩ tuyến 38 sẽ phân chia ở từ bắc xuống nam. Điều đó kéo theo các cuộc đàm phán bất tận xem có nên để Triều Tiên tự trị hay không, nhưng vì Stalin và Truman bất đồng chính kiến (trên thực tế không phải về tất cả), mọi sự đã kết thúc như ở Đức. Đầu tiên, Mỹ thành lập ra Nam Triều Tiên, Liên Xô trả đũa bằng Bắc Triều Tiên. Rồi sau, cả Mỹ Liên Xô cùng buông tay, để Triều Tiên tự lo với hai miền của nó.

Nhưng chuyện không suôn sẻ lắm. Kim Il Sung ở miền Bắc và Syngman Rhee ở miền Nam, cả hai đều nghĩ rằng mình xứng đáng nhất để lãnh đạo toàn bộ bán đảo. Và họ bắt đầu gây chiến vì chuyện đó.

Nhưng sau ba năm với khoảng 4 triệu người chết, chẳng có gì thay đổi (trừ tất cả những người đã chết). Miền Bắc vẫn là miền Bắc và miền Nam là miền Nam. Và vĩ tuyến 38 vẫn chia cắt họ.

Về đồ uống, tức là lý do chính để trốn khỏi trại Gulag, cách tự nhiên nhất đương nhiên là lẻn vào một trong những con tàu bỏ neo ở cảng Vladivostok rồi đi. Nhưng ít nhất bảy người bạn của Allan trong trại đã từng nghĩ thế trong những năm qua, và cả bảy đã bị phát giác và xử tử. Mỗi khi chuyện đó xảy ra, những người khác trong lều đều khóc. Hầu hết, dường như cả Herbert Einstein. Chỉ có Allan để ý thấy Herbert ngồi phàn nàn rằng lần này lại cũng không phải là mình.

Một trong những khó khăn để lẻn vào tàu là thực tế đơn giản rằng mọi tù nhân đều mặc quần áo tù đen trắng. Bằng cách nào họ cũng không thể trà trộn vào đám đông. Bên cạnh đó, lối đi hẹp để lên tàu luôn được canh gác, và có chó nghiệp vụ đánh hơi tất cả các khối hàng được nâng lên tàu bằng cần trục.

Thêm vào đó, chẳng dễ dàng gì để tìm ra các tàu chịu nhận Allan như một hành khách lậu vé như thế. Rất nhiều tàu đi vào đại lục Trung Quốc, những tàu khác đến Wonsan trên bờ biển phía đông của Bắc Triều Tiên. Có lý do để tin rằng thuyền trưởng Trung Quốc hay Bắc Triều Tiên khi thấy một tù nhân Gulag trên tàu mình thì sẽ đuổi anh ta trở lại hoặc ném xuống biển (kết quả cuối cùng như nhau, nhưng ít thủ tục hành chính hơn).

Không, đi bằng đường biển khó mà thoát, mà ông thì rất muốn trốn. Đường bộ cũng có vẻ không dễ dàng hơn. Về phía bắc đi sâu vào Siberia lạnh giá đương nhiên là không được. Cũng không thể đi về phía Tây vào Trung Quốc.

Chỉ còn phía nam, Nam Triều Tiên, nơi họ chắc chắn sẽ được chăm sóc như người tị nạn Gulag, kẻ thù của cộng sản. Điều đáng tiếc duy nhất là Bắc Triều Tiên chắn ở giữa đường.

Chắc chắn sẽ có một số trở ngại trên đường đi, Allan ý thức về điều đó trước cả khi ông có thời gian vạch kế hoạch chạy trốn bằng đường bộ về phía nam. Nhưng việc gì phải lo lắng đến chết vì chuyện đó, vì ở đó chắc chắn sẽ chẳng có vodka.

Ông nên cố gắng trốn một mình hay cùng với ai đó? Trong trường hợp đó, nó sẽ là Herbert, dù ông ta thật thảm hại. Allan thực sự nghĩ rằng mình có thể dùng Herbert trong việc chuẩn bị. Thêm nữa đi hai người chắc chắn sẽ vui hơn chỉ một mình.

Trốn ư? Herbert Einstein hỏi. Bằng đường bộ? Đến Nam Triều Tiên? Qua Bắc Triều Tiên?

Đại loại thế, Allan đáp. Ít nhất đấy là một giả thuyết xem sao.

Cơ hội để chúng ta sống sót chắc phải soi bằng kính hiển vi, Herbert bảo.

Cực kỳ nhỏ, Allan đáp.

Tôi đi với ông! Herbert nói.

Sau năm năm, tất cả mọi người trong trại đều biết tù nhân số 133 – Herbert chẳng mấy khi nghĩ gì trong đầu, và nếu có ý nghĩ hiếm hoi nào thì chúng lại mâu thuẫn lẫn nhau.

Điều này khiến cho các lính canh tù khá khoan dung với Herbert Einstein. Nếu bất kỳ tù nhân nào khác không đứng theo qui định lúc xếp hàng lấy đồ ăn thì may mắn nhất là anh ta sẽ bị quát vào mặt, thứ hai, vẫn còn may, là bị thúc báng súng trường vào bụng, còn trong trường hợp xấu nhất, nó sẽ là vĩnh biệt.

Tuy nhiên, sau năm năm trong doanh trại Herbert vẫn bị lạc đường. Tất cả cùng màu nâu, cùng kích thước khiến anh ta không biết đằng nào mà lần. Thức ăn luôn được dọn ra giữa trại 13 và 14, nhưng tù nhân số 133 có thể được tìm thấy lang thang cạnh trại số 7. Hoặc 19. Hoặc 25.

Đồ chết tiệt, Einstein, lính canh tù mắng. Xếp hàng ăn chỗ kia kìa. Không, không phải ở đấy, kia kìa! Nó vẫn ở đấy từ đời tám hoánh nào!

Allan nghĩ rằng mình và Herbert có thể lợi dụng điều này. Tất nhiên họ có thể mặc quần áo tù trốn đi, nhưng với bộ vó đó thì sống quá một, hai phút cũng còn khó. Allan và Herbert cần phải có đồng phục lính. Và tù nhân duy nhất có thể đến gần kho quân trang mà không bị bắn ngay lập tức khi phát hiện là số 133 Einstein.

Vì vậy, Allan hướng dẫn bạn mình phải làm gì. Chỉ việc “đi nhầm đường” vào giờ ăn trưa vì lúc đó các nhân viên tại kho quân trang cũng đi ăn trưa. Trong nửa tiếng đó, kho hàng chỉ được một người lính có súng máy ở tháp canh 4 trông chừng. Cũng như các lính canh khác, hắn ta biết cái tật lạ lùng của tù nhân số 133, nên nếu nhìn thấy Herbert, có lẽ hắn chỉ la mắng chứ không xả súng bắn ông ta. Và nếu Allan tính sai, thì cũng không quá tệ vì Herbert vẫn khao khát được chết từ lâu rồi.

Herbert nghĩ kế hoạch của Allan khá ổn. Nhưng đấy là những gì mà ông định làm, có thể nói như thế.

Và tất nhiên là hỏng việc. Herbert thực sự cố tình đi nhầm đường và lần đầu tiên sau bao nhiêu năm tìm đúng đến nơi xếp hàng lấy đồ ăn. Allan đã đứng ở đó, với một tiếng thở dài, ông đẩy nhẹ Herbert về phía kho quân trang. Nhưng vô ích, Herbert lạc một lần nữa và thấy mình ngơ ngẩn trong phòng giặt ủi. Và ông ta tìm thấy gì ở đó, nếu không phải là một đống đồng phục mới được giặt sạch và ủi!

Ông lấy hai đồng phục, giấu bên trong áo khoác của mình rồi quay lại khu trại lần nữa. Người lính trong tháp canh số bốn nhìn thấy nhưng thậm chí không buồn la mắng ông ta. Hắn chắc mẩm là thằng ngu này đang tìm đường về trại của mình thôi.

Một tin giật gân đây, ông lẩm bẩm một mình rồi quay lại như cũ, mơ màng về một cõi xa xôi nào đó.

Giờ thì Allan và Herbert đã có đồng phục lính trông như những tân binh kiêu hãnh của Hồng Quân. Bây giờ phải làm phần còn lại.

Thời gian gần đây, Allan nhận thấy số lượng tàu đi Wonsan Bắc Triều Tiên gia tăng đáng kể. Tất nhiên là Liên Xô không chính thức về phe Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến tranh, nhưng rất, rất nhiều vật liệu chiến tranh đã được chở đến bằng xe lửa ở Vladivostok, rồi đưa lên các con tàu đến cùng một điểm. Tàu không ghi nơi đến, nhưng các thủy thủ có miệng thì nói, và Allan thì có ý hỏi họ. Đôi khi còn thể nhìn thấy hàng chở gì, ví dụ xe địa hình hoặc thậm chí cả xe tăng, trong khi vào những dịp khác chỉ chứa các container gỗ bình thường.

Allan nghĩ tới chuyện nghi binh như hồi ở Teheran sáu năm trước đó. Theo câu châm ngôn La Mã cũ, cứ làm những gì bạn làm tốt nhất, Allan nghĩ rằng có lẽ cần một ít pháo hoa. Và thế là các container đi Wonsan Bắc Triều Tiên lọt vào tầm ngắm. Allan không thể biết nhưng đoán rằng vài thùng trong số đó có chứa chất nổ và nếu một container như thế bắt lửa trong khu vực bến tàu, nếu nó bùng nổ không kiểm soát ở những chỗ khác nhau… thì chà, Allan và Herbert sẽ có cơ hội lẻn vào một góc, thay đồng phục của Liên Xô… và… chà, sau đó họ có thể lấy một chiếc xe hơi… có sẵn chìa khóa cắm ở ổ khởi động, đầy bình xăng, và chủ xe không phản đối. Rồi các cửa được canh gác phải được mở theo lệnh của Allan và Herbert, và một khi họ đã ra khỏi bến cảng và Gulag, không một ai nhận ra bất cứ điều gì kỳ lạ cả, không ai thấy mất chiếc xe bị đánh cắp và không ai đuổi theo họ. Và tất cả những rắc rối này chưa thấm vào đâu so với vấn đề làm thế nào họ vào được Bắc Triều Tiên và nhất là – làm thế nào để đi được từ miền Bắc xuống miền Nam.

Có thể là tôi nghĩ hơi ngu, Herbert nói. Nhưng có vẻ như kế hoạch của ông chưa sẵn sàng lắm.

Ông không ngu đâu, Allan phản đối. Chà, có lẽ một chút thôi, nhưng về chuyện này, ông hoàn toàn đúng. Càng nghĩ về nó, tôi càng thấy chúng ta chỉ nên để thế đã, rồi ông sẽ thấy chuyện gì đến sẽ đến, vì nó thường xảy ra như vậy. Trên thực tế là gần như thường xuyên.

Phần đầu tiên (và duy nhất) của kế hoạch chạy trốn là bí mật châm lửa đốt một container phù hợp. Để đạt mục đích đó, họ cần 1) một container phù hợp, và 2) một cái gì đó để gây cháy. Trong khi chờ đợi con tàu chở cái thứ nhất đến, một lần nữa Allan lại cử Herbert Einstein nổi tiếng ngu đi làm một nhiệm vụ. Và Herbert đã hoàn thành một việc kỳ diệu là ăn cắp một quả pháo sáng và giấu nó trong quần mình trước khi lính gác Liên Xô phát hiện ra Herbert ở một nơi bị cấm đến. Nhưng thay vì bắn chết hoặc ít nhất là tóm lấy gã tù, lính gác chỉ quát tù nhân số 133 sau năm năm phải biết cách đừng đi lạc nữa. Herbert xin lỗi, và rón rén bỏ đi. Thế quái nào, ông lại lạc hướng nữa.

Doanh trại ở bên trái, Einstein, tên lính gác hét lên sau lưng ông. Sao mà ngu thế?

Allan khen ngợi Herbert đã làm tốt và giả vờ tốt. Herbert đỏ mặt vì lời khen, nhưng bác bỏ nó, nói rằng làm ra vẻ ngu ngốc chẳng khó gì nếu mình ngu ngốc thật. Allan đáp ông không biết nó khó thế nào, vì những kẻ ngu mà Allan từng gặp trong đời thường cố gắng làm ngược lại.

Rồi cũng đến cái ngày thích hợp. Đó là một buổi sáng lạnh, ngày 1 tháng Ba năm 1953, khi một chuyến tàu đến có nhiều toa xe tới mức Allan, hoặc ít nhất là Herbert, không thể đếm hết. Cái tàu rõ ràng là của quân đội, và mọi thứ sẽ được chất lên ít nhất là ba chiếc tàu, tất cả đều đến Bắc Triều Tiên. Tám chiếc xe tăng T34 chứa trong đó thì không giấu đi đâu được, nhưng mọi thứ khác đều được đóng kín trong các container gỗ khổng lồ không hề có nhãn hiệu gì. Tuy nhiên, khe hở giữa các tấm ván vừa đủ để có thể bắn một quả pháo hiệu vào một trong các thùng chứa. Và Allan đã làm đúng như thế sau một ngày rưỡi kể từ hôm bốc hàng, khi vừa có cơ hội.

Tất nhiên, chẳng bao lâu khói bốc lên từ container, nhưng nó phải mất vài giây trước khi khối hàng cháy, nên Allan có thể chuồn ngay và không bị nghi ngờ ngay lập tức là có liên quan. Ngay sau đó, cả chiếc container bốc cháy, bất chấp trời đang âm độ.

Kế hoạch là nó sẽ phát nổ sau khi ngọn lửa lan đến một quả lựu đạn hoặc cái gì đó tương tự trong khối hàng. Điều đó sẽ làm cho lính canh phản ứng giống như lũ gà mái điên, và Allan và Herbert có thể về trại của mình để nhanh chóng thay quần áo.

Vấn đề là nó không hề phát nổ. Tuy nhiên khói thì kinh khủng, và thậm chí còn tồi tệ hơn khi bọn lính canh không muốn đến gần lửa nên đã ra lệnh cho các tù nhân dội nước vào chiếc container đang cháy.

Điều này khiến ba trong số các tù nhân đã lợi dụng khói che phủ để leo qua hàng rào cao 2 mét đến phía bến cảng để ngỏ. Nhưng tên lính trong tháp canh nhìn thấy những gì đã xảy ra. Hắn đang ngồi sẵn đằng sau khẩu súng máy và xả súng hết băng này đến băng khác xuyên qua đám khói vào ba tù nhân. Vì sử dụng đạn gắn hỏa tiễn, hắn bắn hạ cả ba người với một số đạn lớn và họ rơi xuống đất chết tươi. Nếu chưa chết thì sau đó một giây họ chắc chắn cũng chết, bởi vì tên lính trong tháp canh đã lia súng máy bắn thủng không chỉ các tù nhân mà còn cả chiếc container không bị hư hại gì nằm bên trái của chiếc mà Allan Karlsson đã đốt cháy. Chiếc công-ten-nơ của Allan chứa 1.500 cái chăn quân sự. Cái container bên cạnh chứa 1.500 quả lựu đạn. Đạn hỏa tiễn chứa phốtpho và khi viên đạn đầu tiên trúng vào quả lựu đạn đầu tiên, nó phát nổ, và một phần mười giây sau nổ nốt 1499 quả khác. Vụ nổ mạnh đến nỗi bốn chiếc container kề đó bay xa từ 30 đến 80 mét vào doanh trại.

Chiếc container số năm chứa 700 quả mìn chẳng bao lâu cũng phát nổ mạnh mẽ như chiếc đầu tiên, khiến thứ chứa trong 4 chiếc container xa hơn lần lượt bắn tung về mọi hướng.

Allan và Herbert muốn hỗn loạn thì đã có hỗn loạn. Mà mới chỉ là khúc dạo đầu. Vì bây giờ đám cháy lan từ container này đến container khác. Một trong số đó chứa đầy dầu diesel và xăng, đúng là lửa cháy đổ thêm dầu. Một cái khác chứa đầy đạn dược cũng đi đời nhà ma. Hai trong số lính gác tháp canh và tám doanh trại bốc cháy hoàn toàn trước khi chỗ đạn bắn xe bọc sắt bắt lửa. Chỗ đạn đầu tiên đánh sập tháp canh thứ ba, cái thứ hai đã bắn thẳng vào tòa nhà ở cổng vào của trại và kéo sập cả hàng rào lẫn trạm gác.

Bốn chiếc tàu đang neo sẵn để chở hàng và loạt đạn bắn xe bọc thép tiếp theo khiến cả bốn bốc cháy.

Sau đó, một chiếc chứa lựu đạn phát nổ và bắt đầu phản ứng dây chuyền đến cái container cuối cùng ở cuối hàng. Chẳng may nó lại là chiếc chứa đạn bắn xe bọc thép và bắn theo hướng khác, về phía bến cảng để ngỏ, nơi một tàu chở 65.000 tấn dầu đã về neo đậu. Một cú bắn trực tiếp vào cầu khiến tàu chở dầu trôi dạt, và 3 cú bắn tiếp theo vào bên hông thân tàu chở dầu làm bùng lên một đám cháy lớn nhất.

Chiếc tàu chở dầu cháy dữ dội trôi dạt dọc theo bờ kè về phía trung tâm của thành phố. Trong cuộc hành trình cuối cùng này, nó đốt cháy tất cả những ngôi nhà dọc theo tuyến đường khoảng 2,2km. Thêm vào đó, hôm ấy có gió đông nam. Vì vậy, khoảng 25 phút sau, toàn bộ – theo nghĩa đen – Vladivostok bốc cháy.

Đồng chí Stalin vừa dùng xong bữa tối ngon lành với các thuộc hạ Beria, Malenkov, Bulganin và Khrushchev thì nghe tin Vladivostok gần như bị xóa sổ bởi một container đựng chăn bốc cháy và ngọn lửa bùng lên không kiểm soát nổi.

Tin này làm Stalin rất khó chịu.

Nikita Sergeyevich Khrushchev, người mới được Stalin sủng ái, vốn tính năng động bèn hỏi liệu mình có thể được phép đưa ra một lời khuyên hữu ích về vấn đề này không và Stalin ậm ừ rằng được.

Đồng chí Stalin yêu quý, Khrushchev nói, tôi giả định là chuyện này chưa từng xảy ra. Giả sử ta đóng cửa hẳn Vladisvostok với thế giới rồi từ từ xây lại thành phố, biến nó thành căn cứ Thái Bình Dương đúng như đồng chí đã dự định trước đấy. Nhưng trên hết, chuyện này không xảy ra là vì nó cho thế lực thù nghịch thấy điểm yếu mà chúng ta không nên để lộ. Đồng chí Stalin hiểu ý tôi chứ ạ? Đồng chí có đồng không?

Stalin vẫn khó chịu. Và còn đang say nữa. Nhưng đồng chí gật đầu tỏ ý rằng Stalin muốn Khrushchev nhận trách nhiệm dập vụ này đi như nó chưa từng xảy ra. Rồi Stalin cáo từ vì cảm thấy không được khỏe.

Vladisvostok, Tư lệnh Beria nghĩ. Chẳng phải là nơi mình đã giam giữ tay chuyên gia Thụy Điển phát xít để phòng khi Nga không thể tự chế tạo bom? Mình đã quên béng mất hắn, lẽ ra phải thanh toán tên quỷ này khi Yury Borisovich Popov đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ. Dù sao, có lẽ bây giờ hắn đã bị thiêu cháy. Mặc dù hắn không cần phải làm cả một thành phố cháy theo như thế.

Cửa phòng ngủ, Stalin bảo nhân viên tuyệt đối không được quấy rầy mình. Rồi ông đóng cửa lại, ngồi trên mép giường, vừa cởi nút áo sơ vừa ngẫm nghĩ.

Vladivostok… thành phố mà Stalin đã định biến thành căn cứ của Hạm đội Xô Viết Thái Bình Dương! Vladivostok… thành phố đóng một vai trò quan trọng đến thế để chuẩn bị tấn công trong chiến tranh Triều Tiên! Vladivostok…

Đã không còn tồn tại nữa!

Stalin vẫn còn thời gian để tự hỏi làm thế quái nào một container đựng chăn có thể bốc cháy dưới nhiệt độ âm 20 độ C. Ai đó phải chịu trách nhiệm… và tên khốn đó… sẽ… sẽ…

Đến đó thì Stalin ngã chúi đầu xuống sàn. Và cứ nằm nguyên thế trong 24 tiếng do đột quỵ, bởi một khi đồng chí Stalin đã nói không muốn bị quấy rầy thì chẳng ai dám làm phiền.

Doanh trại của Allan và Herbert là một trong những cái bắt lửa đầu tiên, mọi người ngay lập tức hủy bỏ kế hoạch lẩn trốn và mặc đồng phục vào.

Tuy nhiên, hàng rào quanh trại đã đổ xuống và nếu còn tháp canh nào chưa đổ thì cũng chẳng có ai bảo vệ. Vì vậy, ra khỏi trại không khó. Vấn đề ở chỗ sau đó thì sao. Họ không thể đánh cắp xe tải quân sự vì chúng đều bốc cháy. Và đi vào thành phố để kiếm một chiếc xe cũng không được. Chẳng biết sao nhưng toàn bộ Vladivostok đều đang cháy.

Hầu hết các tù nhân trong trại thoát chết khỏi đám cháy nổ tụ tập thành một nhóm trên con đường bên ngoài trại, ở một khoảng cách an toàn tránh lựu đạn, đạn bắn xe bọc thép và mọi thứ khác đang bay lượn trong không khí. Một vài phương án mạo hiểm được đặt ra, tất cả đều hướng về phía tây bắc, bởi vì đó là hướng hợp lý duy nhất để người Nga chạy trốn. Phía đông là biển nước, phía nam là Chiến tranh Triều Tiên, còn thẳng phía bắc là thành phố đang bốc cháy hừng hực. Lựa chọn duy nhất còn lại là đi thẳng vào Siberia cực kỳ lạnh giá. Nhưng bọn lính cũng nghĩ thế, và trước khi trời tối đã bắt hết đám người bỏ trốn, đưa họ đến cõi vĩnh hằng, không sót một ai.

Chỉ trừ có Allan và Herbert. Cả hai đã mò tới được một ngọn đồi phía tây nam Vladivostok. Họ ngồi nghỉ ở đó một lát, ngắm cảnh tàn phá bên dưới.

-Quả pháo sáng cháy sáng thật đấy, Herbert nói.

-Bom nguyên tử cũng chẳng làm được hơn thế, Allan đáp.

– Thế chúng ta làm gì bây giờ? Herbert tự hỏi, lạnh cóng đến nỗi đâm thèm được quay lại cái trại đã không còn đó nữa.

– Giờ ta sẽ đến Bắc Triều Tiên, anh bạn ạ, Allan đáp. Và vì quanh đây chẳng có xe cộ gì, ta sẽ phải đi bộ. Thế cho ấm người.

Kirill Afanasievich Meretskov là một trong những sĩ quan Hồng quân giỏi giang, được gắn huân chương nhiều nhất. Ông là một anh hùng Liên Xô được thưởng Huân chương Lenin ít nhất bảy lần.

Là chỉ huy của quân đoàn Bốn, ông đã chiến đấu ngoan cường chống quân Đức quanh tuyến Leningrad, và sau 900 ngày đáng sợ đã phá vỡ cuộc bao vây. Không có gì ngạc nhiên khi Meretskov được phong làm tư lệnh Liên Xô, cùng với tất cả huân huy chương và các danh hiệu.

Sau khi đẩy lùi được Hitler vĩnh viễn, Meretskov tiến về phía đông 9.600km bằng xe lửa. Ông được điều động chỉ huy Mặt trận Viễn Đông, để đuổi Nhật ra khỏi Mãn Châu. Và không ai ngạc nhiên khi ông lại thành công.

Và rồi chiến tranh thế giới kết thúc, Meretskov thấy mệt mỏi. Chẳng ai chờ đợi ông trở lại Moskva, ông vẫn ở phía đông. Ngồi chơi xơi nước sau cái bàn quân sự ở Vladisvostok. Một cái bàn rất đẹp. Bằng gỗ tếch xịn.

Vào mùa đông năm 1953, ông đã 56 tuổi, vẫn ở yên sau cái bàn làm việc của mình. Từ chỗ đó, ông quản lý sự vắng mặt của Liên Xô trong chiến tranh Triều Tiên. Tư lệnh Meretskov và đồng chí Stalin coi việc Liên Xô tạm thời không tham chiến trực tiếp với quân Mỹ là một chiến lược quan trọng. Tất nhiên cả hai bên đều có thứ Bom kia, nhưng Hoa Kỳ đi trước. Cái gì cũng cần có thời gian, và đây không phải là lúc để khiêu chiến – như thế Nga sẽ không tránh khỏi nhúng tay vào Triều Tiên: chiến tranh Triều Tiên có thể thắng lợi, và thực sự là nó phải thắng.

Giờ đã là một tư lệnh, Meretskov cho phép bản thân thỉnh thoảng xả hơi một chút. Ví dụ, ông có một ngôi nhà đi săn ngoài Kraskino, đi vài tiếng về phía nam Vladisvostok. Ông thu xếp đến đó khá thường xuyên, nhất là vào mùa đông. Nếu có thể thì đi một mình. Tất nhiên chưa kể trợ lý của ông, tư lệnh mà tự lái xe cho mình thì mọi người sẽ nghĩ sao?

Tư lệnh Meretskov và viên trợ lý lái xe được gần một tiếng từ Kraskino đến Vladisvostok thì lần đầu tiên thấy một luồng khói đen bốc lên từ đường ven biển quanh co. Chuyện gì thế? Cái gì đang bị cháy?

Khoảng cách quá xa, nếu có lấy ống nhòm trong xe ra cũng chẳng ăn thua gì. Tư lệnh

Meretskov ra lệnh phóng nhanh về phía trước, bắt viên trợ lý trong vòng hai mươi phút phải tìm được một chỗ đậu xe có thể nhìn rõ xuống vịnh. Điều gì có thể xảy ra nhỉ? Chắc chắn có cái gì bị cháy…

Allan và Herbert đã đi bộ khá xa dọc con đường chính khi chiếc POBEDA quân sự màu xanh lá cây phóng đến từ phía nam. Hai kẻ đào tẩu vội giấu mình sau một ụ tuyết. Nhưng ngay sau đó, chiếc xe chạy chậm lại và đỗ cách họ chừng năm mươi mét. Một viên sĩ quan huân chương đầy ngực bước ra cùng trợ lý. Người trợ lý lấy chiếc ống nhòm của viên sĩ quan đeo huân chương ra khỏi cốp xe, rồi họ rời xe tìm một nơi có thể quan sát rõ bờ vịnh bên kia, phía Vladisvostok.

Thế là Allan và Herbert lẻn vào xe dễ như ăn kẹo, tóm lấy khẩu súng lục của viên sĩ quan và súng tự động của người trợ lý, khiến cả hai rơi tõm vào một tình cảnh hết sức trớ trêu. Như Allan nói:

– Thưa quý vị, xin cho phép tôi tước quần áo của quý vị.

Tư lệnh Meretskov tức điên lên. Không ai dám đối xử với một tư lệnh của Liên Xô theo cách đó, huống chi lại là một gã tù nhân. Các vị định nói là ông – Tư lệnh KA Meretskov nên đi bộ đến Vladivostok mặc mỗi cái quần lót? Allan đáp, đến Vladivostok khó lắm vì cả thành phố đang cháy thành tro, nhưng ông và anh bạn Herbert đây có ý gần gần như thế. Đương nhiên, đổi lại, quí vị sẽ được cung cấp hai bộ quần áo đen và trắng của tù nhân, càng đến gần Vladisvostok thì càng ấm – nếu có thể gọi đám mây khói và đống đổ nát ấy là Vladisvostok.

Vừa nói Allan và Herbert vừa mặc bộ quân phục thó được và để lại quần áo tù cũ của mình thành đống dưới đất. Allan nghĩ mình lái xe thì an toàn hơn nên Herbert phải làm tư lệnh, Allan là trợ lý. Herbert ngồi ở ghế hành khách, còn Allan ngồi sau tay lái. Allan tạm biệt vị tư lệnh, khuyên ngài đừng tức giận làm gì vô ích. Thêm nữa, trời sắp sang xuân rồi, mà mùa xuân ở Vladivostok thì… ờ, có lẽ cũng không đến nỗi quá… Dù sao, Allan cũng khuyến khích tư lệnh hãy suy nghĩ lạc quan, nhưng nói thêm rằng tất nhiên tùy ngài thôi. Nếu ngài vẫn thích đi bộ suốt dọc đường chỉ mặc mỗi quần lót và nghĩ ngợi bi quan về cuộc sống thì cứ việc.

– Tạm biệt ngài tư lệnh. Và anh bạn nữa, Allan nói thêm với viên trợ lý.

Tư lệnh không trả lời, chỉ tiếp tục nhìn họ nảy lửa, trong khi Allan quay vòng chiếc POBEDA. Rồi ông và Herbert đi về phía Nam.

Trạm tiếp theo là Bắc Triều Tiên.

*

Biên giới giữa Liên Xô và Bắc Triều Tiên ra vào rất dễ và nhanh chóng. Đầu tiên, lính biên phòng Liên Xô đứng thẳng chào, sau đó Bắc Triều Tiên cũng làm tương tự. Chẳng phải nói tiếng nào, thanh chắn được nâng lên cho tư lệnh Liên Xô (Herbert) và trợ lý của ông (Allan). Một trong hai chú lính biên phòng tận tụy của Bắc Triều Tiên còn rưng rưng nước mắt nghĩ rằng cú lách qua biên giới này là một cam kết cá nhân. Triều Tiên chắc chắn không thể có người bạn nào tốt hơn Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Ngài tư lệnh chắc đang trên đường đến Wonsan để đảm bảo nguồn tiếp viện từ Vladisvostok đến đúng lúc đúng chỗ khi cần.

Nhưng thật ra không phải thế. Riêng vị tư lệnh này chẳng nghĩ gì ráo về hạnh phúc của Bắc Triều Tiên. Ông thậm chí còn chẳng rõ là mình đang ở nước nào. Ông chỉ đang chăm chăm tìm cách mở cái hộp đựng đồ lặt vặt trong xe.

Allan đã moi tin từ các thủy thủ cảng Vladisvostok rằng chiến tranh Triều Tiên đã đi vào bế tắc, hai bên trở lại phía của mình ở vĩ tuyến 38. Ông cũng truyền đạt lại với Herbert, người hình dung ra tất cả những gì họ phải làm để đi từ Bắc sang Nam Triều Tiên là chạy thật nhanh và nhảy qua biên giới (miễn là giới tuyến đừng rộng quá). Tất nhiên có nguy cơ là họ sẽ bị bắn khi nhảy qua, nhưng chắc cũng không sao.

Nhưng hóa ra – dù vẫn còn lâu mới tới biên giới – cuộc chiến tranh quy mô đã lan đến chỗ họ. Máy bay Mỹ lượn vòng trên không trung và ném bom gần như mọi thứ họ thấy. Allan nhận ra rằng chiếc xe quân sự màu xanh lá cây của Nga có lẽ sẽ được coi là một mục tiêu tuyệt vời, do đó, ông rời đường chính phía nam (mà không xin phép tư lệnh của mình) và lái vào nội địa, trên những con đường nhỏ hơn, dễ kiếm chỗ trú ẩn khi nghe tiếng máy bay gầm rú trên đầu.

Allan tiếp tục đi theo hướng đông nam, trong khi Herbert giải khuây bằng cách săm soi ví tiền của vị tư lệnh mà mình tìm thấy trong túi bộ quân phục. Nó chứa một ít tiền rúp, ngoài ra là những thông tin về vị tư lệnh và một số thư từ mà từ đó có thể suy ra ông đã làm những gì ở Vladisvostok hồi thành phố vẫn còn tồn tại.

Biết đâu ông ta lại chẳng phải là sếp của vận tải đường sắt nữa, Herbert nói. Allan khen ngợi Herbert vì liên tưởng đó, nó có vẻ khôn ngoan, và Herbert lại đỏ mặt. Nhận xét cái gì đó không tồi hóa ra cũng hay.

Nhân tiện, anh có thể nhớ tên của tư lệnh Kirill Afanasievich Meretskov không? Allan nói. Có thể nó sẽ tiện dụng đấy.

Được, chắc là tôi nhớ được, Herbert đáp.

Trời vừa sụp tối thì Allan và Herbert rẽ vào sân một trang trại trông có vẻ khá giả. Người chủ trại cùng vợ và hai con nhanh nhẩu ra xem hai vị khách đặc biệt với chiếc xe lạ mắt. Trợ lý (Allan) xin lỗi bằng cả tiếng Nga lẫn tiếng Tàu vì mình và ngài tư lệnh đã đến mà không báo trước, nhưng liệu nhà có gì để ăn không? Tất nhiên họ sẽ trả tiền nhưng bằng rúp vì không có gì khác.

Vợ chồng nhà bác nông dân chả hiểu Allan nói gì. May có cậu cả 12 tuổi có học tí tiếng Nga ở trường đứng ra dịch cho bố. Vài giây sau, trợ lý Allan và tư lệnh Herbert đã được mời vào trong nhà. Sau bữa tối, cả hai lại được xếp chỗ ngủ. Tư lệnh Herbert chiếm phòng ngủ lớn trong khi ông bà chủ nhà xuống ngủ với trẻ con. Trợ lý Allan thì nằm ở sàn bếp.

Sáng hôm sau, bữa sáng dọn ra với rau củ hấp, hoa quả khô và trà, trước đó bác nông dân còn lấy thùng trong nhà kho đổ đầy xăng cho xe của tư lệnh. Cuối cùng, bác cứ từ chối nhận nắm tiền rúp mà vị tư lệnh đưa cho, đến khi tư lệnh phải gầm lên bằng tiếng Đức:

– Cầm tiền đi, đồ nhà quê!

Bác nông dân khiếp quá vội làm theo, dù chẳng hiểu Herbert nói mô tê gì.

Họ thân ái vẫy chào từ biệt và cuộc hành trình tiếp tục về hướng tây nam, suốt con đường lộng gió không có lấy một bóng xe qua, chỉ có tiếng gầm rú đe dọa của máy bay thả bom trên đầu.

Khi xe đến Bình Nhưỡng, Allan thấy đến lúc phải lên kế hoạch mới. Cái cũ giờ có vẻ không phù hợp nữa. Cố gắng đến Hàn Quốc từ chỗ hai người đang ở là chuyện không tưởng. Thay vì đó, kế hoạch chuyển thành phải sắp xếp một cuộc gặp mặt với Thủ tướng Kim Il Sung. Herbert là một tư lệnh Liên Xô kia mà, tất phải được.

Herbert xin lỗi vì đã chen ngang nhưng thắc mắc gặp Kim Il Sung để làm gì.

Allan đáp mình chưa biết, nhưng hứa sẽ suy nghĩ về chuyện đó. Lý do trước mắt ông giải thích với Herbert là càng đến được gần sếp to thì càng được chén ngon hơn. Và có cả vodka nữa.

Allan nhận ra, chẳng sớm thì muộn, ông và Herbert sẽ bị chặn đường và kiểm tra kỹ càng. Kể cả một vị tư lệnh thì cũng không thể phăm phăm tiến vào thủ đô một đất nước đang chiến tranh mà không bị xét hỏi câu nào. Do đó, Allan dành ra vài giờ để hướng dẫn Herbert nên nói gì – chỉ một câu thôi nhưng rất quan trọng: “Tôi là tư lệnh Meretskov của Liên Xô, đưa tôi đến gặp lãnh đạo của anh!”

Lúc này, Bình Nhưỡng được bảo vệ bởi một vành đai quân sự bên ngoài và bên trong. Vòng ngoài cách thành phố hai mươi cây số, gồm súng chống máy bay và các trạm kiểm soát kép trên đường, còn vòng trong là những chướng ngại vật xếp thành chiến tuyến để phòng thủ nếu bị tấn công đường bộ. Allan và Herbert bị giữ lần đầu tiên tại một trong các trạm kiểm soát vòng ngoài và gặp một chú lính Bắc Triều Tiên đang say khướt, với khẩu súng máy Cocked trước ngực. Tư lệnh Herbert tập đi tập lại câu nói duy nhất của mình, và cất lời:

Tôi là lãnh đạo của anh, đưa tôi đến… Liên Xô.

May sao chú lính không biết tiếng Nga, nhưng lại hiểu tiếng Trung Quốc. Vì thế, trợ lý (Allan) dịch cho ngài tư lệnh của mình và nói ra đúng câu cần nói.

Nhưng chú lính đã nốc rượu say đến mức không biết phải làm gì. Thế là chú ta mời Allan và Herbert vào trạm kiểm soát và gọi điện cho đồng nghiệp cách đấy 200m. Rồi chú ngồi phịch xuống chiếc ghế bành tồi tàn, lôi chai rượu gạo (thứ ba trong ngày) ra khỏi túi, tợp một ngụm và bắt đầu ư ử ngâm nga một mình, vừa nhìn xuyên qua các vị khách Liên Xô bằng đôi mắt long lanh, hướng vào cõi xa xăm vô định.

Allan lo lắng trước ứng xử của Herbert với tay lính gác, và nhận ra nếu Herbert cứ đóng vai tư lệnh với Kim Il Sung thì chỉ cần vài phút là cả tư lệnh lẫn trợ lý sẽ bị tống giam ngay. Qua cửa sổ, Allan thấy người lính khác đang tới.

Họ phải nhanh lên mới kịp.

Herbert, mình đổi quần áo đi, Allan nói.

Sao thế? Herbert thắc mắc.

Cứ làm đi, Allan đáp.

Và thế là, nhanh như chớp, tư lệnh biến thành trợ lý, còn trợ lý thành tư lệnh. Chú lính say khướt đảo cặp mắt trống rỗng trong lúc vẫn âm ư cái gì đó bằng tiếng Triều Tiên.

Vài giây sau, người lính thứ hai bước trạm gác và lập tức đứng chào khi thấy vị khách nổi bật. Anh ta cũng biết tiếng Trung Quốc, và Allan (trong vai tư lệnh) lại bày tỏ mong muốn gặp chủ tịch Kim Il Sung. Trước khi người lính thứ hai kịp trả lời, chú lính thứ nhất chợt ngừng âm ư giai điệu của mình.

Anh ta nói gì vậy? Tư lệnh Allan hỏi.

Anh ta nói rằng ông cởi hết quần áo ra rồi mặc lại lần nữa, anh lính số 2 thật thà đáp.

Đúng là rượu nói! Allan nói và lắc đầu.

Anh lính thứ 2 vội xin lỗi vì cư xử của đồng đội và khi chú thứ nhất cứ khăng khăng là Allan và Herbert đã cởi quần áo rồi mặc lẫn của nhau, chú ta bị thụi một quả vào mũi để im miệng, trừ phi muốn bị báo cáo là say rượu.

Chú lính thứ nhất đành im bặt (và tợp một ngụm nữa) trong khi chú số 2 gọi vài cú điện thoại trước khi điền vào một tờ giấy thông hành bằng tiếng Triều Tiên, ký tên, đóng dấu ở hai chỗ, rồi giao cho Tư lệnh Allan và dặn:

Đồng chí Tư lệnh, đồng chí sẽ xuất trình cái này tại trạm kiểm soát tới. Rồi đồng chí sẽ được hướng dẫn tới đồng chí cấp phó của cấp phó thủ tướng.

Allan cảm ơn anh ta, chào và trở lại xe, đẩy Herbert ra ngồi phía trước.

Vì anh đã thành trợ lý của tôi, từ giờ anh phải lái xe, Allan nói.

Hay đấy, Herbert đáp. Tôi đã không lái xe hơi từ khi cảnh sát Thụy Sĩ cấm tôi vĩnh viễn không được lái.

Tốt nhất là anh đừng kể nữa, Allan bảo.

Tôi thấy nó khó quá, sang trái và phải, Herbert nói.

Phải, phải, tôi nói rồi đấy, anh đừng nói gì nữa cho lành, Allan đáp.

Cuộc hành trình tiếp tục với Herbert sau tay lái, hóa ra nó trôi chảy hơn nhiều so với Allan tưởng. Với tấm giấy thông hành, họ không gặp khó khăn gì khi băng qua các con đường vào thành phố và thẳng đến phủ thủ tướng.

đó, cấp phó của cấp phó thủ tướng tiếp họ và cho biết trong ba ngày tới, cấp phó thủ tướng không tiếp kiến họ được. Trong thời gian ấy, quí vị sẽ ở tại phòng khách trong phủ thủ tướng. Và bữa tối sẽ được phục vụ vào lúc 8 giờ, nếu quí vị thấy phù hợp.

– Anh thấy tôi nói đúng không? Allan bảo Herbert.

***

Kim Il Sung sinh tháng Tư năm 1912, trong một gia đình Kitô giáo ở ngoại ô Bình Nhưỡng. Gia đình ông, cũng như tất cả các gia đình Triều Tiên bấy giờ, bị Nhật Bản cai trị. Trong nhiều năm, người Nhật hầu như muốn gì làm nấy với dân thuộc địa. Hàng trăm hàng ngàn cô gái và phụ nữ Triều Tiên đã bị bắt giữ và sử dụng như nô lệ tình dục khi quân đội Nhật hoàng cần. Đàn ông Triều Tiên bị bắt đi lính, chiến đấu cho vị hoàng đế đã buộc họ phải đổi tên Nhật Bản và làm đủ cách để diệt trừ ngôn ngữ, văn hóa Triều Tiên.

Cha của Kim Il Sung là một nhà bào chế thuốc ít nói, nhưng những lời chỉ trích

Nhật Bản của ông lại hết sức sắc bén, gây khó chịu cho người Nhật đến mức một ngày kia, gia đình ông thấy tốt nhất nên chuyển lên phía bắc, vùng Mông Cổ, Trung Quốc. Nhưng đến năm 1931, sự bình yên ở đó cũng bị phá vỡ khi quân đội Nhật lại tràn đến. Lúc đó, cha của Kim Il Sung đã mất, nhưng mẹ khuyến khích ông tham gia du kích Trung Quốc, với tham vọng đánh bật Nhật Bản ra khỏi Mãn Châu – và cuối cùng là Triều Tiên.

Kim Il Sung đã làm nên sự nghiệp khi tham gia du kích cộng sản Trung Quốc. Ông nổi tiếng là một người ưa hành động và dũng cảm. Ông được bổ nhiệm làm sĩ quan chỉ huy toàn sư đoàn và đã chiến đấu chống Nhật quyết liệt đến khi chỉ còn ông và vài người trong sư đoàn còn sống sót. Đó là vào năm 1941, giữa chiến tranh Thế giới, và Kim Il Sung buộc phải trốn qua biên giới sang Liên Xô.

Đó ông cũng khá thành công. Chẳng bao lâu, ông được phong đại úy Hồng quân và chiến đấu đến năm 1945.

Kết thúc chiến tranh, Nhật Bản phải bàn giao lại Triều Tiên. Kim Il Sung từ nơi lưu vong trở về như một anh hùng dân tộc. Vấn đề còn lại là chính thức xây dựng lên một nhà nước, và thực tế hiển nhiên là mọi người muốn bầu Kim Il Sung làm Lãnh tụ Vĩ đại.

Tuy nhiên, phe thắng trận, Liên Xô và Mỹ, lại phân chia Triều Tiên thành vùng lãnh thổ theo lợi ích của mỗi bên. Mỹ không chấp nhận một người cộng sản đứng đầu toàn bộ bán đảo. Vì vậy, họ đã đưa về một người Triều Tiên lưu vong làm người đứng đầu nhà nước khác của riêng mình, và đưa xuống phía nam. Kim Il Sung phải yên vị
phần phía bắc, nhưng ông nhất quyết không chịu. Thay vào đó, ông bắt đầu cuộc chiến tranh Triều Tiên. Nếu ông đã đuổi được Nhật thì cũng có thể đuổi được Mỹ và quân Liên Hợp Quốc theo sau.

Kim Il Sung đã từng phục vụ trong quân đội ở cả Trung Quốc và Liên Xô. Và bây giờ ông đã chiến đấu vì chính mình. Trong cuộc hành trình đầy kịch tính, một trong những điều ông học được là không lệ thuộc vào bất cứ ai khác ngoài bản thân mình.

Ông chỉ có một ngoại lệ cho quy tắc đó. Và ngoại lệ ấy vừa được bổ nhiệm làm cấp phó cho ông. Bất cứ ai muốn tiếp xúc với Thủ tướng Kim Il Sung trước tiên phải tìm cách gặp được con trai ông.

Kim Jong Il.

– Con phải để cho khách chờ đợi ít nhất 72 tiếng trước khi tiếp họ. Điều đó duy trì quyền lực của con, con trai ạ, Kim Il Sung dạy con trai.

– Con hiểu, thưa cha, Kim Jong Il nói dối, rồi lén tìm một cuốn từ điển, tra cái từ mình không hiểu.

***

Ba ngày chờ đợi chẳng khiến Allan và Herbert khó chịu chút nào, vì trong phủ thủ tướng, đồ ăn rất ngon, giường rất êm. Thêm nữa, hiếm khi máy bay thả bom của Mỹ đến gần Bình Nhưỡng vì có những mục tiêu tấn công đơn giản hơn.

Tuy nhiên, rồi cũng đến lúc. Cấp phó của cấp phó thủ tướng đến tìm Allan, đưa đi dọc hành lang đến văn phòng của cấp phó thủ tướng. Allan đã được biết trước là cấp phó thủ tướng mới chỉ nhỉnh hơn một cậu bé một chút.

Tôi là con trai của thủ tướng, Kim Jong Il, Kim Jong Il nói. Và tôi là cấp phó của cha tôi.

Kim Jong Il giơ tay về phía vị tư lệnh và bắt chặt, dù bàn tay cậu ta lọt thỏm trong nắm tay khổng lồ của Allan.

Còn tôi là Tư lệnh Kirill Afanasievich Meretskov, Allan nói. Xin cám ơn cậu Kim đã tiếp đón tôi. Xin phép cậu Kim cho tôi được trình bày sứ mệnh của mình?
Kim Jong Il đồng ý, thế là Allan tiếp tục nói láo: như cậu Kim biết đấy, tư lệnh có mang theo một thông điệp trực tiếp từ đồng chí Stalin ở Moskva gửi Thủ tướng. Vì có những nghi ngờ rằng Hoa Kỳ – đồ chó tư bản – đã thâm nhập vào hệ thống thông tin liên lạc của Liên Xô (Tư lệnh không muốn đi vào chi tiết hơn, hy vọng cậu Kim hiểu), đồng chí Stalin đã quyết định rằng thông điệp nên được chuyển tải trực tiếp theo cách này. Và sứ mệnh này vinh dự được đặt trên vai của tư lệnh và trợ lý của ông (vì lí do an toàn, tư lệnh đã để trợ lý ở lại phòng).

Kim Jong Il nhìn Tư lệnh Allan một cách ngờ vực và nói như đọc bài rằng việc của mình là bảo vệ cha bằng mọi giá. Và một phần của việc này là không tin tưởng bất kỳ ai, cha đã dạy như thế, cậu ta giải thích. Vì vậy, Kim Jong Il không thể cho phép Tư lệnh đến gặp cha mình, Thủ tướng, cho đến khi chuyện này được kiểm tra với Liên Xô. Kim Jong Il có ý định khá đơn giản là gọi điện cho Moskva và hỏi liệu có đúng là Stalin đã cử tư lệnh đến đây hay không.

Đương nhiên một tư lệnh lại ngồi đây và phản đối cậu thì thật không thích hợp, nhưng dù sao, tôi vẫn cho phép mình phản ánh rằng có lẽ ta không nên dùng điện thoại để kiểm tra, nếu thật sự là không nên sử dụng điện thoại.

Cậu Kim nghe những gì Allan nói. Nhưng những lời của ông bố vẫn vang vọng trong đầu: “Đừng tin tưởng bất cứ ai, con trai ạ!” Cuối cùng, cậu nghĩ đến một giải pháp. Cậu vẫn gọi điện cho bác Stalin, nhưng sẽ nói chuyện kiểu mật mã. Cậu Kim đã gặp bác Stalin nhiều lần và bác Stalin thường gọi cậu là ‘nhà cách mạng nhỏ’.

Thế thì, tôi sẽ gọi điện cho bác Stalin, giới thiệu bản mình là ‘nhà cách mạng nhỏ’ rồi hỏi liệu bác Stalin có cử ai đến thăm cha. Như thế tôi không nghĩ rằng chúng ta nói quá nhiều, ngay cả nếu người Mỹ nghe được. Ông có nghĩ thế không, Tư lệnh?

Tư lệnh nghĩ cậu nhỏ này là một con quỷ ranh ma. Cậu ta bao nhiêu tuổi? Mười tuổi ư? Bản thân Allan đã người lớn trước tuổi. Bằng tuổi Kim Jong Il, ông đã ráng sức mang thuốc nổ ở nhà máy Nitroglycerin tại Flen. Hơn nữa, Allan e rằng chuyện này có thể dẫn đến một kết cục tệ hại, ai mà biết được. Dù sao, mọi chuyện vẫn đang tiếp diễn.

Tôi tin rằng cậu Kim rất khôn ngoan và sẽ tiến xa, Allan nói, còn lại phó mặc cho số phận.
Vâng, tư lệnh nói đúng, dự kiến là tôi sẽ kế thừa công việc của cha tôi. Mời ông dùng trà trong khi tôi gọi điện thoại cho bác Stalin.

Cậu Kim băng qua chiếc bàn màu nâu ở góc phòng, trong khi Allan rót trà và nghĩ xem mình có nên thử nhảy ra ngoài cửa sổ. Nhưng ông lập tức bỏ ý định này. Trước hết, ông đang ở tầng thứ tư của phủ thủ tướng, và Allan cũng không thể bỏ mặc đồng chí của mình. Herbert có lẽ cũng muốn nhảy lắm (nếu anh ta dám) nhưng anh ta lại không ở đây ngay lúc này.

Đột nhiên, ý nghĩ của Allan bị gián đoạn bởi cậu Kim òa lên khóc. Cậu ta đặt điện thoại xuống, chạy lao đến chỗ Allan, vừa khóc vừa kêu to:

Bác Stalin mất rồi! Bác Stalin mất rồi!

Nào, nào, cậu Kim. Cậu lại đây để chú Tư lệnh ôm cậu Kim một cái nào. Nào, nào…
Khi được an ủi ít nhiều, cậu Kim không còn nghi ngờ lắm nữa. Có vẻ như cậu không cố làm người lớn thêm được nữa. Sụt sịt, cậu gắng kể rằng mấy hôm trước Stalin đã bị đột quỵ và theo bác gái Stalin (cậu gọi bà ta như vậy) bác đã mất vừa đúng trước khi cậu Kim gọi điện.

Vừa để cậu Kim ngồi trên đầu gối, Allan vừa kể đầy cảm xúc về kỷ niệm tươi sáng khi mình được gặp đồng chí Stalin lần cuối. Họ đã ăn tiệc với nhau, đã rất vui như những người bạn thật sự. Đồng chí Stalin còn nhảy và hát nữa. Allan vô tình ngân nga bài hát dân gian Gruzia mà Stalin đã hát lúc đó, và cậu Kim nhận ra bài hát! Bác Stalin cũng từng hát bài hát đó cho cậu. Thế là bao nhiêu nghi ngờ tan biến. Chú Tư lệnh hẳn là nói thật rồi. Cậu Kim sẽ đảm bảo để bố mình, thủ tướng, tiếp chú ấy ngày hôm sau. Còn bây giờ cậu muốn được ôm cái nữa…

* * *

Thủ tướng không ngồi điều hành nửa đất nước của mình ở ngay văn phòng bên cạnh. Như thế với ông là quá mạo hiểm. Không, ai đến gặp Kim Il Sung cũng phải trải qua một hành trình dài bằng xe thùng trang bị súng SU-122 bộ binh, vì lý do an ninh bởi đích thân cậu quý tử, cánh tay phải của thủ tướng cũng sẽ đi cùng.

Chuyến đi không được thoải mái lắm, mà đương nhiên xe trang bị súng bộ binh không phải là để tiện nghi. Suốt hành trình, Allan có vô khối thời gian để ngẫm nghĩ về hai chuyện khá quan trọng. Trước hết là ông nên nói gì với Kim Il Sung, và thứ hai là ông muốn đi đến đâu.

Trước mặt cánh tay phải (và con trai) của Thủ tướng, tất nhiên Allan đã tuyên bố rằng mình đến mang theo một thông điệp quan trọng của đồng chí Stalin, thật cám ơn cơn đột quỵ may mắn vô cùng, nên chuyện này đâm ra dễ đối phó. Tư lệnh dỏm bây giờ muốn nói gì chẳng được, Stalin chết rồi nên không thể phản đối. Thế là, Allan quyết rằng thông điệp cho Kim Il Sung sẽ là Stalin quyết định tặng Kim Il Sung 200 chiếc xe tăng cho cuộc chiến cộng sản ở Triều Tiên. Hay là 300. Con số càng cao thì tất nhiên hơn thủ tướng càng vui.

Vấn đề kia khó xử hơn. Allan chẳng muốn trở lại Liên Xô sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình với Kim Il Sung. Nhưng để khiến những nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên giúp Allan và Herbert sang Hàn Quốc thì thật không dễ dàng. Và ở nơi gần Kim Il Sung cũng chẳng hay ho gì nếu mỗi ngày qua xe tăng vẫn chẳng thấy đâu.

Hay là đi Trung Quốc nhỉ? Nếu Allan và Herbert vẫn còn mặc áo tù sọc trắng đen thì không được, nhưng bây giờ đã khác. Ông hàng xóm khổng lồ của Triều Tiên có thể không còn là mối đe dọa mà thành ra hứa hẹn, một khi Allan đã thành Tư lệnh của Liên Xô. Đặc biệt là nếu Allan có thể lừa Kim Il Sung cấp cho họ một thư giới thiệu tốt đẹp.

Thế thì, điểm đến tới là Trung Quốc? Sau đó thì mọi thứ sẽ giống như họ đã làm.

Nếu không có ý tưởng nào hay hơn nảy ra dọc đường thì họ có thể đi lang thang trên

Hy Mã Lạp Sơn lần nữa.

Đến đó, Allan thấy nghĩ thế đủ rồi. Trước hết, Kim Il Sung sẽ nhận được 300 chiếc xe tăng, hay thậm chí 400 – chẳng việc gì phải keo kiệt về chuyện đó. Sau đó, Tư lệnh dỏm sẽ khiêm tốn nhờ Thủ tướng giúp mình phương tiện và thị thực cho chuyến đi đến Trung Quốc, vì Tư lệnh cũng có việc với Mao Trạch Đông. Allan hài lòng với kế hoạch chu đáo của mình. Gần tối, đoàn xe bọc thép với hành khách là Allan, Herbert và cậu Kim Jong Il tới một nơi mà Allan đoán có vẻ là một doanh trại quân đội hay gì đó.

Hay là tụi mình được đưa đến Nam Triều Tiên nhỉ? Herbert hỏi đầy hy vọng.

Nếu có bất cứ nơi nào trên thế giới mà Kim Il Sung sẽ KHÔNG ngồi và giữ mình cẩn thận, thì đó là Nam Triều Tiên, Allan đáp.

Không, tôi tưởng… Tôi chỉ nghĩ… không, mà thực ra tôi cũng chẳng nghĩ gì…

Herbert nói.

Rồi chiếc xe bọc thép mười bánh dừng lại đột ngột. Ba hành khách chui ra, đặt chân xuống nền đất cứng. Họ đã đến một sân bay quân sự, và đang đứng bên ngoài một cái gì như là trung tâm chỉ huy.

Cậu Kim giữ cửa cho Allan và Herbert, rồi lại nhã nhặn đi vượt lên hai quý khách và mở cánh cửa tiếp theo. Cứ thế, bộ ba đi đến tận chốn linh thiêng nhất. Bên trong là một bàn viết rộng rải đầy giấy tờ, đằng sau là một bức tường với bản đồ Triều Tiên và bên phải là hai chiếc sofa. Thủ tướng Kim Il Sung ngồi trên một sofa, còn khách của ông ngồi chiếc kia. Sát tường đầu kia căn phòng, hai lính gác trang bị súng máy đứng nghiêm.

Xin chào ngài Thủ tướng, Allan nói. Tôi là Tư lệnh Kirill Afanaseivich

Meretskov của Liên Xô.

Chắc chắn ông không phải là Tư lệnh, Kim Il Sung bình tĩnh nói. Tôi biết Tư lệnh Meretskov rất rõ.

Ôi trời, Allan nói.

Hai người lính lập tức thôi đứng nghiêm và hướng mũi súng của họ vào Tư lệnh dỏm và trợ lý có lẽ cũng dỏm như thế. Kim Il Sung vẫn bình tĩnh, nhưng con trai ông tức quá òa lên khóc. Có lẽ đúng lúc này, các mảnh vụn tuổi thơ cuối cùng của cậu đã biến mất. Không bao giờ tin bất kỳ ai! Thế mà trước đó, cậu đã ngồi trên đùi Tư lệnh dỏm! Không bao giờ tin bất kỳ ai! Cậu sẽ không bao giờ, không bao giờ tin tưởng một người nào nữa.

Mày sẽ chết! Cậu hét lên với Allan trong nước mắt. Và mày nữa! Cậu nói với Herbert.

Phải, chắc chắn các anh sẽ chết, Kim Il Sung vẫn bình tĩnh theo cách của mình. Nhưng trước tiên chúng tôi muốn tìm ra ai đã cử các anh tới.

Không xong rồi, Allan nghĩ. Có vẻ hay đây, Herbert nghĩ.

**

Tư lệnh Kirill Afanasievich Meretskov thật và trợ lý của ông chẳng còn cách nào khác ngoài lóc cóc đi bộ tới phần còn sót lại của Vladisvostok.

Vài giờ sau, họ đến một doanh trại được Hồng quân lập bên ngoài thành phố bị phá hủy. Ở đó, Tư lệnh còn nhục nhã hơn vì bị nghi ngờ là một tù nhân đào tẩu giờ hối hận vì đã bỏ trốn. Nhưng chẳng bao lâu, ông cũng được nhận ra và được phục vụ đúng với địa vị của mình.

Trong đời mình, chỉ có một lần Tư lệnh Meretskov chịu bất công, đó là khi Beria, cấp phó của Stalin, đã vô cớ bắt, tra tấn, và chắc chắn sẽ để ông chết nếu đích thân Stalin không đến cứu. Lẽ ra sau đó Meretskov phải đánh lại Beria nhưng ông đã giành chiến thắng trong chiến tranh thế giới và dù sao Beria cũng quá mạnh. Vì thế, ông buộc phải cho qua. Nhưng Meretskov đã tự nhủ rằng sẽ không bao giờ cho phép mình bị làm nhục nữa. Vì vậy, giờ đây, không gì quan trọng hơn là tìm kiếm và tiêu diệt hai gã đã cướp cả xe lẫn quân phục của tư lệnh và trợ lý.

Meretskov không thể bắt đầu cuộc săn tìm ngay lập tức vì không có quân phục tư lệnh. Tìm ra một thợ may trong khu lều trại này không dễ gì, ngay cả khi tìm được thì họ vẫn gặp rắc rối vì thiếu cả những thứ tầm thường như cây kim sợi chỉ. Tất cả các xưởng may ở Vladisvostok – cũng như phần còn lại của thành phố – đã không còn tồn tại.

Nhưng dù sao, ba ngày sau, quân phục của tư lệnh cũng được làm xong. Tất nhiên không có huy chương, vì tên tư lệnh dỏm đã cuỗm hết. Nhưng Meretskov không thể để điều đó chặn bước mình, như thế nghĩa là thừa nhận thất bại.

Dù khó khăn, Tư lệnh Meretskov vẫn kiếm được cho mình và trợ lý một chiếc POBEDA mới (hầu hết các xe quân sự đã bị cháy rụi) và bắt đầu đi về phía nam, vào lúc bình minh, năm ngày sau khi câu chuyện khó chịu kia xảy ra.

Tại biên giới Triều Tiên, nghi ngờ của ông đã được xác nhận. Một vị tư lệnh, giống như ông, đi xe POBEDA, hệt như ông, đã vượt qua biên giới, tiếp tục đi về phía Nam. Lính biên phòng chỉ biết đến thế.

Tư lệnh Meretskov cũng có kết luận như Allan năm ngày trước đó, tức là đi về phía trước là tự sát. Vì vậy, ông chuyển hướng sang Bình Nhưỡng, và vài giờ sau đã thấy mình quyết định đúng. Các lính canh tại tuyến phòng vệ bên ngoài nói với ông rằng Tư lệnh Meretskov và trợ lý đã yêu cầu gặp Thủ tướng Kim Il Sung, và được tiếp kiến cấp phó của thủ tướng. Sau đó hai lính gác bắt đầu tranh cãi. Nếu Tư lệnh Meretskov hiểu tiếng Triều Tiên, ông có thể nghe một chú lính nói với chú kia rằng mình nhận thấy hai người ấy có cái gì đó gian manh và chắc chắn họ đã đổi quần áo cho nhau, còn chú kia đáp lại nếu có hôm nào cậu còn tỉnh táo sau 10 giờ sáng thì có lẽ mọi người mới bắt đầu tin cậu được. Thế là hai chú lính bắt đầu mắng lẫn nhau ngu dốt, còn Tư lệnh Meretskov và trợ lý tiếp tục đi tới Bình Nhưỡng.

Tư lệnh Meretskov thật có thể được gặp cấp phó của cấp phó thủ tướng sau bữa trưa cùng ngày. Với tất cả quyền hạn cho phép của một tư lệnh Liên Xô, Tư lệnh Meretskov đã sớm thuyết phục cấp phó của cấp phó thủ tướng rằng cả thủ tướng và con trai đang gặp nguy hiểm đến tính mạng, và cấp phó của cấp phó thủ tướng phải ngay lập tức chỉ cho họ đường tới trụ sở chính của thủ tướng. Để không bị mất thời gian, việc di chuyển sẽ bằng chiếc Pobeda của tư lệnh vì nó nhanh gấp bốn lần so với xe bọc thép mà Kim Jong Il và hai tên tội phạm đã từng đi.

**

Nào, Kim Il Sung nói, ngạo mạn nhưng đầy quan tâm. Anh là ai, ai đã cử anh tới đây và mục đích của trò bịp bợm con con này là gì?

Allan chưa kịp trả lời thì cánh cửa bật mở và Tư lệnh Meretskov thật lao vào phòng, hét lên rằng một vụ ám sát sắp xảy ra và hai người đàn ông trong phòng là những tù nhân hình sự.

Trong giây lát, có hơi nhiều tư lệnh và trợ lý với hai người lính mang súng máy. Nhưng ngay sau khi Thủ tướng gián tiếp xác nhận rằng vị tư lệnh mới vào là thật thì hai người lính lại có thể ngắm vào kẻ giả mạo.

Bình tĩnh nào, Kirill Afanasievich thân mến, Kim Il Sung nói. Tình hình đã được kiểm soát.

Mày sẽ chết! Tư lệnh Meretskov tức giận nói khi thấy Allan đứng đó trong quân phục tư lệnh với tất cả huy chương trên ngực.

Phải, họ cũng nói thế, Allan đáp. Đầu tiên là cậu Kim đây, rồi Thủ tướng và bây giờ là ông, Tư lệnh ạ. Người duy nhất không đòi tôi phải chết là ông, Allan quay sang vị khách của thủ tướng. Tôi không biết ông là ai, nhưng chắc là vẫn có thể hy vọng ông có ý kiến khác về vấn đề này?

Tôi chắc chắn là không, vị khách mỉm cười đáp lại. Tôi là Mao Trạch Đông, lãnh đạo của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và tôi có thể nói với anh một điều, rằng tôi không có bất kỳ sự thông cảm nào với ai đó muốn làm hại đồng chí Kim Il Sung, không, tôi chắc chắn là không .

Mao Trạch Đông! Allan nói. Thật vinh dự. Cho dù tôi có sớm bị thanh toán thì ông cũng đừng quên chuyển lời chào của tôi đến phu nhân xinh đẹp của ông.

Anh biết vợ tôi? Mao Trạch Đông hỏi, kinh ngạc.

Vâng, trừ khi ông Mao mới đổi vợ khác. Trước đây ông đã có thói quen làm như vậy mà. Tôi đã gặp bà Giang Thanh ở tỉnh Tứ Xuyên cách đây vài năm. Chúng tôi đi bộ khá nhiều ở vùng núi cùng với một cậu trai trẻ, An Minh.

Anh là Allan Karlsson? Mao Trạch Đông nói, kinh ngạc. Cứu tinh của vợ tôi? Herbert Einstein không hiểu lắm, nhưng bây giờ thì ông hiểu rằng Allan bạn mình đã có chín cuộc đời và cái chết chắc chắn của họ lại đang được chuyển thành một cái gì đó khác, một lần nữa! Không thể như thế được! Herbert hành động trong hoảng loạn.

Tôi trốn đây, tôi đang chạy trốn, bắn tôi đi, bắn đi! ông hét lên, chạy xuyên qua căn phòng, mở nhầm cửa, nhảy vào cái tủ chứa đồ dọn dẹp và ngã bổ chửng trên một cái thùng và đống giẻ lau.

Bạn của anh…, ông Mao Trạch Đông nói. Anh ta không phải là Einstein đấy chứ …

Đừng nói thế, Allan đáp. Đừng nói thế.

**

Chẳng có gì lạ khi Mao Trạch Đông lại có mặt trong phòng đó, vì Kim Il Sung đã thiết lập trụ sở của mình ở Mãn Châu Trung Quốc, ngay bên ngoài Thẩm Dương ở tỉnh Liêu Ninh, cách Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) khoảng 500 km về phía tây bắc. Mao thích dành thời gian ở khu vực đó, nơi ông từng được ủng hộ mạnh mẽ nhất. Và ông thích đến với người bạn Bắc Triều Tiên của mình.

Dù sao cũng mất khá nhiều thời gian để dàn xếp mọi thứ cần thiết, và khiến những người muốn Allan phải chết đổi ý.

Tư lệnh Meretskov là người đầu tiên chìa bàn tay tha thứ. Sau cùng thì Allan Karlsson cũng gánh chịu cơn điên của tư lệnh Beria y như Meretskov (để an toàn, Allan bỏ qua chi tiết nhỏ về chuyện ông thiêu trụi cả Vladisvostok như thế nào). Và khi Allan đề xuất rằng mình và tư lệnh nên đổi quân phục cho nhau để tư lệnh lấy lại huy chương thì mọi tức giận của tư lệnh tan biến.

Kim Il Sung, về phần mình, cũng không tức giận gì mấy. Allan không bao giờ có ý định làm hại thủ tướng. Kim Il Sung chỉ lo lắng là con trai mình cảm thấy bị lừa.

Cậu Kim vẫn còn gào khóc và hét lên và tiếp tục đòi tử hình Allan ngay lập tức, theo cách bạo lực càng tốt. Cuối cùng, Kim Il Sung phải bợp mạnh vào tai cậu con và ra lệnh cậu phải im mồm ngay nếu không sẽ bị bợp tiếp.

Allan và Tư lệnh Meretskov được mời ngồi xuống chiếc sofa của Kim Il Sung, rồi đến Herbert ủ rũ sau khi chui ra khỏi các thứ trong chiếc tủ đựng đồ lau dọn.

Thân thế của Allan được khẳng định rõ ràng khi cậu đầu bếp 20 tuổi của Mao được gọi vào phòng. Allan và An Minh ôm chầm lấy nhau một lúc lâu, cho đến khi Mao ra lệnh An Minh quay vào bếp làm một ít mì ăn đêm.

Mao Trạch Đông biết ơn Allan vô hạn vì đã cứu mạng Giang Thanh. Ông giải thích rằng ông sẵn sàng giúp Allan và bạn đồng hành bất cứ điều gì họ muốn, và không có giới hạn. Kể cả ở lại Trung Quốc, nơi Mao Trạch Đông đảm bảo rằng Allan và bạn sẽ sống một đời thoải mái và được trọng vọng.

Nhưng Allan trả lời rằng đến giờ, xin ông Mao lượng thứ cho, mình đã nếm trải quá đủ với chủ nghĩa cộng sản, và mong muốn được thư giãn ở chỗ nào đó, nơi ông có thể làm một ly rượu mạnh mà không phải nghe kèm một bài giảng chính trị.

Mao đáp thực ra mình có thể tha thứ cho ông Karlsson về chuyện đó, nhưng Karlsson chớ nên hy vọng quá nhiều về việc tránh né nó trong tương lai, vì chủ nghĩa cộng sản đang thành công ở khắp mọi nơi và chẳng bao lâu sẽ chinh phục toàn bộ thế giới.

Đáp lại, Allan hỏi liệu có ai trong các quý ông ở đây có thể chỉ cho mình nơi nào họ nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ mất thời gian lâu nhất để thâm nhập, tốt nhất là nơi ấy lại có nắng trời, bãi biển cát trắng,và có thể uống cái gì đó khác hơn là rượu chuối xanh kiểu Indonesia.

– Tôi thực sự nghĩ mình cần được đi nghỉ, Allan nói. Vì tôi chưa bao giờ được nghỉ cả.

Mao Trạch Đông, Kim Il Sung và Tư lệnh Meretskov bắt đầu bàn bạc với nhau. Đảo Caribê như Cuba là một khả năng, họ kết luận rằng khó có thể tưởng tượng một nơi nào đó tư bản hơn. Allan cảm ơn họ về lời khuyên, nhưng nói rằng vùng Caribê xa đây khủng khiếp, thêm nữa, ông nhận ra mình chẳng có tiền, cũng không hộ chiếu, vì thế, ông phải hạ thấp tham vọng phần nào.

Tiền và hộ chiếu, ông Karlsson không phải lo. Mao Trạch Đông hứa sẽ cung cấp cho Allan và bạn giấy tờ giả để họ có thể đi bất cứ nơi nào họ muốn. Ông cũng sẽ tặng họ một đống đô la, mà ông đang thừa thãi – đó là tiền mà Tổng thống Truman ở Mỹ đã gửi đến Quốc Dân Đảng và Quốc dân đảng đã bỏ quên trong lúc vội vã bay đi Đài Loan. Tuy nhiên, vùng Caribê quả là ở đầu kia của quả đất, do đó, cũng nên nghĩ đến các giải pháp khác.

Trong lúc ba ông trùm cộng sản tiếp tục bàn bạc xem nên cho người dị ứng với hệ tư tưởng của họ đi nghỉ ở đâu thì Allan thầm cám ơn Harry Truman vì số tiền.

Philippines nổi lên như một gợi ý, nhưng nó lại bị chê là mất ổn định về chính trị. Cuối cùng, Mao Trạch Đông đề nghị là Bali. Tất nhiên Allan đã phàn nàn về rượu chuối Indonesia và khiến Mao nghĩ đến Indonesia. Nơi đấy không thuộc cộng sản, mặc dù cộng sản vẫn lấp ló trong bụi, như ở khắp mọi nơi, trừ Cuba. Mà tại Bali có nhiều thứ khác chứ không chỉ mỗi rượu chuối, Chủ tịch Mao đã chắc chắn thế.

– OK, thế thì là Bali, Allan nói. Anh cùng đi chứ, Herbert?

Herbert Einstein đã dần dần quen với thực tế rằng mình sẽ sống lâu hơn một chút, và ông gật đầu chán nản với Allan. Phải, ông sẽ đi theo, chứ còn làm gì khác được nữa?

1953
Trong năm năm và ba tuần, tất nhiên Allan đã học tiếng Nga khá chuẩn nhưng lại quên sạch chỗ tiếng Trung Quốc. Bến cảng là một nơi thực sự sống động, và Allan đánh bạn với những thủy thủ trở về, người có thể cập nhật cho ông về những gì đã xảy ra trên thế giới.

Một trong những điều đã xảy ra là Liên Xô đã nổ quả bom nguyên tử của mình một năm rưỡi sau cuộc gặp của Allan với Stalin, Beria và Yury Borisovich tốt bụng. Phương Tây nghi ngờ họ hoạt động gián điệp, bởi vì quả bom dường như được xây dựng theo nguyên tắc y hệt như kiểu Mỹ. Nhưng Allan thì nhớ lại hồi ở trên tàu ngầm, trong khi tu vodka thẳng từ chai, Yury thực sự đã có bao nhiêu gợi ý.

Tôi ngờ rằng, Yury Borisovich đáng mến là một tổ sư về nghệ thuật vừa uống rượu vừa nghe chuyện cùng lúc, ông nói.

Allan còn biết thêm là Mỹ, Pháp và Anh đã hợp nhất khu vực chiếm đóng của họ và thành lập nước cộng hòa liên bang Đức. Stalin nổi giận, ngay lập tức trả đũa bằng cách lập ra một nước Đức của mình, Tây Âu và Đông Âu mỗi bên đều có một nước Đức. Allan thấy nó nghe có vẻ thực tế.

Và vua Thụy Điển đã chết, theo như Allan đọc được trong một bài báo Anh, chẳng biết vì sao lại có trong tay một thủy thủ Trung Quốc, người nhớ ra mình đã từng trò chuyện với gã tù nhân Thụy Điển ở Vladisvostok nên đã mang nó theo. Khi tin đến với Allan thì nhà vua đã chết gần một năm rồi, nhưng cũng chẳng quan trọng. Và một vị vua mới ngay lập tức đã kế vị, do đó, mọi thứ ở cố hương đều OK.

Nhưng các thủy thủ ở cảng chủ yếu nói về cuộc chiến tranh Triều Tiên. Và cũng chẳng đáng ngạc nhiên lắm. Rốt cuộc thì Triều Tiên chỉ cách đấy khoảng 200 km.

Theo như Allan hiểu thì tình hình là:

Bán đảo Triều Tiên gần như bị bỏ rơi khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Stalin và Truman mỗi bên chiếm một phần trong thỏa thuận anh em, quyết định rằng vĩ tuyến 38 sẽ phân chia ở từ bắc xuống nam. Điều đó kéo theo các cuộc đàm phán bất tận xem có nên để Triều Tiên tự trị hay không, nhưng vì Stalin và Truman bất đồng chính kiến (trên thực tế không phải về tất cả), mọi sự đã kết thúc như ở Đức. Đầu tiên, Mỹ thành lập ra Nam Triều Tiên, Liên Xô trả đũa bằng Bắc Triều Tiên. Rồi sau, cả Mỹ Liên Xô cùng buông tay, để Triều Tiên tự lo với hai miền của nó.

Nhưng chuyện không suôn sẻ lắm. Kim Il Sung ở miền Bắc và Syngman Rhee ở miền Nam, cả hai đều nghĩ rằng mình xứng đáng nhất để lãnh đạo toàn bộ bán đảo. Và họ bắt đầu gây chiến vì chuyện đó.

Nhưng sau ba năm với khoảng 4 triệu người chết, chẳng có gì thay đổi (trừ tất cả những người đã chết). Miền Bắc vẫn là miền Bắc và miền Nam là miền Nam. Và vĩ tuyến 38 vẫn chia cắt họ.

Về đồ uống, tức là lý do chính để trốn khỏi trại Gulag, cách tự nhiên nhất đương nhiên là lẻn vào một trong những con tàu bỏ neo ở cảng Vladivostok rồi đi. Nhưng ít nhất bảy người bạn của Allan trong trại đã từng nghĩ thế trong những năm qua, và cả bảy đã bị phát giác và xử tử. Mỗi khi chuyện đó xảy ra, những người khác trong lều đều khóc. Hầu hết, dường như cả Herbert Einstein. Chỉ có Allan để ý thấy Herbert ngồi phàn nàn rằng lần này lại cũng không phải là mình.

Một trong những khó khăn để lẻn vào tàu là thực tế đơn giản rằng mọi tù nhân đều mặc quần áo tù đen trắng. Bằng cách nào họ cũng không thể trà trộn vào đám đông. Bên cạnh đó, lối đi hẹp để lên tàu luôn được canh gác, và có chó nghiệp vụ đánh hơi tất cả các khối hàng được nâng lên tàu bằng cần trục.

Thêm vào đó, chẳng dễ dàng gì để tìm ra các tàu chịu nhận Allan như một hành khách lậu vé như thế. Rất nhiều tàu đi vào đại lục Trung Quốc, những tàu khác đến Wonsan trên bờ biển phía đông của Bắc Triều Tiên. Có lý do để tin rằng thuyền trưởng Trung Quốc hay Bắc Triều Tiên khi thấy một tù nhân Gulag trên tàu mình thì sẽ đuổi anh ta trở lại hoặc ném xuống biển (kết quả cuối cùng như nhau, nhưng ít thủ tục hành chính hơn).

Không, đi bằng đường biển khó mà thoát, mà ông thì rất muốn trốn. Đường bộ cũng có vẻ không dễ dàng hơn. Về phía bắc đi sâu vào Siberia lạnh giá đương nhiên là không được. Cũng không thể đi về phía Tây vào Trung Quốc.

Chỉ còn phía nam, Nam Triều Tiên, nơi họ chắc chắn sẽ được chăm sóc như người tị nạn Gulag, kẻ thù của cộng sản. Điều đáng tiếc duy nhất là Bắc Triều Tiên chắn ở giữa đường.

Chắc chắn sẽ có một số trở ngại trên đường đi, Allan ý thức về điều đó trước cả khi ông có thời gian vạch kế hoạch chạy trốn bằng đường bộ về phía nam. Nhưng việc gì phải lo lắng đến chết vì chuyện đó, vì ở đó chắc chắn sẽ chẳng có vodka.

Ông nên cố gắng trốn một mình hay cùng với ai đó? Trong trường hợp đó, nó sẽ là Herbert, dù ông ta thật thảm hại. Allan thực sự nghĩ rằng mình có thể dùng Herbert trong việc chuẩn bị. Thêm nữa đi hai người chắc chắn sẽ vui hơn chỉ một mình.

Trốn ư? Herbert Einstein hỏi. Bằng đường bộ? Đến Nam Triều Tiên? Qua Bắc Triều Tiên?

Đại loại thế, Allan đáp. Ít nhất đấy là một giả thuyết xem sao.

Cơ hội để chúng ta sống sót chắc phải soi bằng kính hiển vi, Herbert bảo.

Cực kỳ nhỏ, Allan đáp.

Tôi đi với ông! Herbert nói.

Sau năm năm, tất cả mọi người trong trại đều biết tù nhân số 133 – Herbert chẳng mấy khi nghĩ gì trong đầu, và nếu có ý nghĩ hiếm hoi nào thì chúng lại mâu thuẫn lẫn nhau.

Điều này khiến cho các lính canh tù khá khoan dung với Herbert Einstein. Nếu bất kỳ tù nhân nào khác không đứng theo qui định lúc xếp hàng lấy đồ ăn thì may mắn nhất là anh ta sẽ bị quát vào mặt, thứ hai, vẫn còn may, là bị thúc báng súng trường vào bụng, còn trong trường hợp xấu nhất, nó sẽ là vĩnh biệt.

Tuy nhiên, sau năm năm trong doanh trại Herbert vẫn bị lạc đường. Tất cả cùng màu nâu, cùng kích thước khiến anh ta không biết đằng nào mà lần. Thức ăn luôn được dọn ra giữa trại 13 và 14, nhưng tù nhân số 133 có thể được tìm thấy lang thang cạnh trại số 7. Hoặc 19. Hoặc 25.

Đồ chết tiệt, Einstein, lính canh tù mắng. Xếp hàng ăn chỗ kia kìa. Không, không phải ở đấy, kia kìa! Nó vẫn ở đấy từ đời tám hoánh nào!

Allan nghĩ rằng mình và Herbert có thể lợi dụng điều này. Tất nhiên họ có thể mặc quần áo tù trốn đi, nhưng với bộ vó đó thì sống quá một, hai phút cũng còn khó. Allan và Herbert cần phải có đồng phục lính. Và tù nhân duy nhất có thể đến gần kho quân trang mà không bị bắn ngay lập tức khi phát hiện là số 133 Einstein.

Vì vậy, Allan hướng dẫn bạn mình phải làm gì. Chỉ việc “đi nhầm đường” vào giờ ăn trưa vì lúc đó các nhân viên tại kho quân trang cũng đi ăn trưa. Trong nửa tiếng đó, kho hàng chỉ được một người lính có súng máy ở tháp canh 4 trông chừng. Cũng như các lính canh khác, hắn ta biết cái tật lạ lùng của tù nhân số 133, nên nếu nhìn thấy Herbert, có lẽ hắn chỉ la mắng chứ không xả súng bắn ông ta. Và nếu Allan tính sai, thì cũng không quá tệ vì Herbert vẫn khao khát được chết từ lâu rồi.

Herbert nghĩ kế hoạch của Allan khá ổn. Nhưng đấy là những gì mà ông định làm, có thể nói như thế.

Và tất nhiên là hỏng việc. Herbert thực sự cố tình đi nhầm đường và lần đầu tiên sau bao nhiêu năm tìm đúng đến nơi xếp hàng lấy đồ ăn. Allan đã đứng ở đó, với một tiếng thở dài, ông đẩy nhẹ Herbert về phía kho quân trang. Nhưng vô ích, Herbert lạc một lần nữa và thấy mình ngơ ngẩn trong phòng giặt ủi. Và ông ta tìm thấy gì ở đó, nếu không phải là một đống đồng phục mới được giặt sạch và ủi!

Ông lấy hai đồng phục, giấu bên trong áo khoác của mình rồi quay lại khu trại lần nữa. Người lính trong tháp canh số bốn nhìn thấy nhưng thậm chí không buồn la mắng ông ta. Hắn chắc mẩm là thằng ngu này đang tìm đường về trại của mình thôi.

Một tin giật gân đây, ông lẩm bẩm một mình rồi quay lại như cũ, mơ màng về một cõi xa xôi nào đó.

Giờ thì Allan và Herbert đã có đồng phục lính trông như những tân binh kiêu hãnh của Hồng Quân. Bây giờ phải làm phần còn lại.

Thời gian gần đây, Allan nhận thấy số lượng tàu đi Wonsan Bắc Triều Tiên gia tăng đáng kể. Tất nhiên là Liên Xô không chính thức về phe Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến tranh, nhưng rất, rất nhiều vật liệu chiến tranh đã được chở đến bằng xe lửa ở Vladivostok, rồi đưa lên các con tàu đến cùng một điểm. Tàu không ghi nơi đến, nhưng các thủy thủ có miệng thì nói, và Allan thì có ý hỏi họ. Đôi khi còn thể nhìn thấy hàng chở gì, ví dụ xe địa hình hoặc thậm chí cả xe tăng, trong khi vào những dịp khác chỉ chứa các container gỗ bình thường.

Allan nghĩ tới chuyện nghi binh như hồi ở Teheran sáu năm trước đó. Theo câu châm ngôn La Mã cũ, cứ làm những gì bạn làm tốt nhất, Allan nghĩ rằng có lẽ cần một ít pháo hoa. Và thế là các container đi Wonsan Bắc Triều Tiên lọt vào tầm ngắm. Allan không thể biết nhưng đoán rằng vài thùng trong số đó có chứa chất nổ và nếu một container như thế bắt lửa trong khu vực bến tàu, nếu nó bùng nổ không kiểm soát ở những chỗ khác nhau… thì chà, Allan và Herbert sẽ có cơ hội lẻn vào một góc, thay đồng phục của Liên Xô… và… chà, sau đó họ có thể lấy một chiếc xe hơi… có sẵn chìa khóa cắm ở ổ khởi động, đầy bình xăng, và chủ xe không phản đối. Rồi các cửa được canh gác phải được mở theo lệnh của Allan và Herbert, và một khi họ đã ra khỏi bến cảng và Gulag, không một ai nhận ra bất cứ điều gì kỳ lạ cả, không ai thấy mất chiếc xe bị đánh cắp và không ai đuổi theo họ. Và tất cả những rắc rối này chưa thấm vào đâu so với vấn đề làm thế nào họ vào được Bắc Triều Tiên và nhất là – làm thế nào để đi được từ miền Bắc xuống miền Nam.

Có thể là tôi nghĩ hơi ngu, Herbert nói. Nhưng có vẻ như kế hoạch của ông chưa sẵn sàng lắm.

Ông không ngu đâu, Allan phản đối. Chà, có lẽ một chút thôi, nhưng về chuyện này, ông hoàn toàn đúng. Càng nghĩ về nó, tôi càng thấy chúng ta chỉ nên để thế đã, rồi ông sẽ thấy chuyện gì đến sẽ đến, vì nó thường xảy ra như vậy. Trên thực tế là gần như thường xuyên.

Phần đầu tiên (và duy nhất) của kế hoạch chạy trốn là bí mật châm lửa đốt một container phù hợp. Để đạt mục đích đó, họ cần 1) một container phù hợp, và 2) một cái gì đó để gây cháy. Trong khi chờ đợi con tàu chở cái thứ nhất đến, một lần nữa Allan lại cử Herbert Einstein nổi tiếng ngu đi làm một nhiệm vụ. Và Herbert đã hoàn thành một việc kỳ diệu là ăn cắp một quả pháo sáng và giấu nó trong quần mình trước khi lính gác Liên Xô phát hiện ra Herbert ở một nơi bị cấm đến. Nhưng thay vì bắn chết hoặc ít nhất là tóm lấy gã tù, lính gác chỉ quát tù nhân số 133 sau năm năm phải biết cách đừng đi lạc nữa. Herbert xin lỗi, và rón rén bỏ đi. Thế quái nào, ông lại lạc hướng nữa.

Doanh trại ở bên trái, Einstein, tên lính gác hét lên sau lưng ông. Sao mà ngu thế?

Allan khen ngợi Herbert đã làm tốt và giả vờ tốt. Herbert đỏ mặt vì lời khen, nhưng bác bỏ nó, nói rằng làm ra vẻ ngu ngốc chẳng khó gì nếu mình ngu ngốc thật. Allan đáp ông không biết nó khó thế nào, vì những kẻ ngu mà Allan từng gặp trong đời thường cố gắng làm ngược lại.

Rồi cũng đến cái ngày thích hợp. Đó là một buổi sáng lạnh, ngày 1 tháng Ba năm 1953, khi một chuyến tàu đến có nhiều toa xe tới mức Allan, hoặc ít nhất là Herbert, không thể đếm hết. Cái tàu rõ ràng là của quân đội, và mọi thứ sẽ được chất lên ít nhất là ba chiếc tàu, tất cả đều đến Bắc Triều Tiên. Tám chiếc xe tăng T34 chứa trong đó thì không giấu đi đâu được, nhưng mọi thứ khác đều được đóng kín trong các container gỗ khổng lồ không hề có nhãn hiệu gì. Tuy nhiên, khe hở giữa các tấm ván vừa đủ để có thể bắn một quả pháo hiệu vào một trong các thùng chứa. Và Allan đã làm đúng như thế sau một ngày rưỡi kể từ hôm bốc hàng, khi vừa có cơ hội.

Tất nhiên, chẳng bao lâu khói bốc lên từ container, nhưng nó phải mất vài giây trước khi khối hàng cháy, nên Allan có thể chuồn ngay và không bị nghi ngờ ngay lập tức là có liên quan. Ngay sau đó, cả chiếc container bốc cháy, bất chấp trời đang âm độ.

Kế hoạch là nó sẽ phát nổ sau khi ngọn lửa lan đến một quả lựu đạn hoặc cái gì đó tương tự trong khối hàng. Điều đó sẽ làm cho lính canh phản ứng giống như lũ gà mái điên, và Allan và Herbert có thể về trại của mình để nhanh chóng thay quần áo.

Vấn đề là nó không hề phát nổ. Tuy nhiên khói thì kinh khủng, và thậm chí còn tồi tệ hơn khi bọn lính canh không muốn đến gần lửa nên đã ra lệnh cho các tù nhân dội nước vào chiếc container đang cháy.

Điều này khiến ba trong số các tù nhân đã lợi dụng khói che phủ để leo qua hàng rào cao 2 mét đến phía bến cảng để ngỏ. Nhưng tên lính trong tháp canh nhìn thấy những gì đã xảy ra. Hắn đang ngồi sẵn đằng sau khẩu súng máy và xả súng hết băng này đến băng khác xuyên qua đám khói vào ba tù nhân. Vì sử dụng đạn gắn hỏa tiễn, hắn bắn hạ cả ba người với một số đạn lớn và họ rơi xuống đất chết tươi. Nếu chưa chết thì sau đó một giây họ chắc chắn cũng chết, bởi vì tên lính trong tháp canh đã lia súng máy bắn thủng không chỉ các tù nhân mà còn cả chiếc container không bị hư hại gì nằm bên trái của chiếc mà Allan Karlsson đã đốt cháy. Chiếc công-ten-nơ của Allan chứa 1.500 cái chăn quân sự. Cái container bên cạnh chứa 1.500 quả lựu đạn. Đạn hỏa tiễn chứa phốtpho và khi viên đạn đầu tiên trúng vào quả lựu đạn đầu tiên, nó phát nổ, và một phần mười giây sau nổ nốt 1499 quả khác. Vụ nổ mạnh đến nỗi bốn chiếc container kề đó bay xa từ 30 đến 80 mét vào doanh trại.

Chiếc container số năm chứa 700 quả mìn chẳng bao lâu cũng phát nổ mạnh mẽ như chiếc đầu tiên, khiến thứ chứa trong 4 chiếc container xa hơn lần lượt bắn tung về mọi hướng.

Allan và Herbert muốn hỗn loạn thì đã có hỗn loạn. Mà mới chỉ là khúc dạo đầu. Vì bây giờ đám cháy lan từ container này đến container khác. Một trong số đó chứa đầy dầu diesel và xăng, đúng là lửa cháy đổ thêm dầu. Một cái khác chứa đầy đạn dược cũng đi đời nhà ma. Hai trong số lính gác tháp canh và tám doanh trại bốc cháy hoàn toàn trước khi chỗ đạn bắn xe bọc sắt bắt lửa. Chỗ đạn đầu tiên đánh sập tháp canh thứ ba, cái thứ hai đã bắn thẳng vào tòa nhà ở cổng vào của trại và kéo sập cả hàng rào lẫn trạm gác.

Bốn chiếc tàu đang neo sẵn để chở hàng và loạt đạn bắn xe bọc thép tiếp theo khiến cả bốn bốc cháy.

Sau đó, một chiếc chứa lựu đạn phát nổ và bắt đầu phản ứng dây chuyền đến cái container cuối cùng ở cuối hàng. Chẳng may nó lại là chiếc chứa đạn bắn xe bọc thép và bắn theo hướng khác, về phía bến cảng để ngỏ, nơi một tàu chở 65.000 tấn dầu đã về neo đậu. Một cú bắn trực tiếp vào cầu khiến tàu chở dầu trôi dạt, và 3 cú bắn tiếp theo vào bên hông thân tàu chở dầu làm bùng lên một đám cháy lớn nhất.

Chiếc tàu chở dầu cháy dữ dội trôi dạt dọc theo bờ kè về phía trung tâm của thành phố. Trong cuộc hành trình cuối cùng này, nó đốt cháy tất cả những ngôi nhà dọc theo tuyến đường khoảng 2,2km. Thêm vào đó, hôm ấy có gió đông nam. Vì vậy, khoảng 25 phút sau, toàn bộ – theo nghĩa đen – Vladivostok bốc cháy.

Đồng chí Stalin vừa dùng xong bữa tối ngon lành với các thuộc hạ Beria, Malenkov, Bulganin và Khrushchev thì nghe tin Vladivostok gần như bị xóa sổ bởi một container đựng chăn bốc cháy và ngọn lửa bùng lên không kiểm soát nổi.

Tin này làm Stalin rất khó chịu.

Nikita Sergeyevich Khrushchev, người mới được Stalin sủng ái, vốn tính năng động bèn hỏi liệu mình có thể được phép đưa ra một lời khuyên hữu ích về vấn đề này không và Stalin ậm ừ rằng được.

Đồng chí Stalin yêu quý, Khrushchev nói, tôi giả định là chuyện này chưa từng xảy ra. Giả sử ta đóng cửa hẳn Vladisvostok với thế giới rồi từ từ xây lại thành phố, biến nó thành căn cứ Thái Bình Dương đúng như đồng chí đã dự định trước đấy. Nhưng trên hết, chuyện này không xảy ra là vì nó cho thế lực thù nghịch thấy điểm yếu mà chúng ta không nên để lộ. Đồng chí Stalin hiểu ý tôi chứ ạ? Đồng chí có đồng không?

Stalin vẫn khó chịu. Và còn đang say nữa. Nhưng đồng chí gật đầu tỏ ý rằng Stalin muốn Khrushchev nhận trách nhiệm dập vụ này đi như nó chưa từng xảy ra. Rồi Stalin cáo từ vì cảm thấy không được khỏe.

Vladisvostok, Tư lệnh Beria nghĩ. Chẳng phải là nơi mình đã giam giữ tay chuyên gia Thụy Điển phát xít để phòng khi Nga không thể tự chế tạo bom? Mình đã quên béng mất hắn, lẽ ra phải thanh toán tên quỷ này khi Yury Borisovich Popov đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ. Dù sao, có lẽ bây giờ hắn đã bị thiêu cháy. Mặc dù hắn không cần phải làm cả một thành phố cháy theo như thế.

Cửa phòng ngủ, Stalin bảo nhân viên tuyệt đối không được quấy rầy mình. Rồi ông đóng cửa lại, ngồi trên mép giường, vừa cởi nút áo sơ vừa ngẫm nghĩ.

Vladivostok… thành phố mà Stalin đã định biến thành căn cứ của Hạm đội Xô Viết Thái Bình Dương! Vladivostok… thành phố đóng một vai trò quan trọng đến thế để chuẩn bị tấn công trong chiến tranh Triều Tiên! Vladivostok…

Đã không còn tồn tại nữa!

Stalin vẫn còn thời gian để tự hỏi làm thế quái nào một container đựng chăn có thể bốc cháy dưới nhiệt độ âm 20 độ C. Ai đó phải chịu trách nhiệm… và tên khốn đó… sẽ… sẽ…

Đến đó thì Stalin ngã chúi đầu xuống sàn. Và cứ nằm nguyên thế trong 24 tiếng do đột quỵ, bởi một khi đồng chí Stalin đã nói không muốn bị quấy rầy thì chẳng ai dám làm phiền.

Doanh trại của Allan và Herbert là một trong những cái bắt lửa đầu tiên, mọi người ngay lập tức hủy bỏ kế hoạch lẩn trốn và mặc đồng phục vào.

Tuy nhiên, hàng rào quanh trại đã đổ xuống và nếu còn tháp canh nào chưa đổ thì cũng chẳng có ai bảo vệ. Vì vậy, ra khỏi trại không khó. Vấn đề ở chỗ sau đó thì sao. Họ không thể đánh cắp xe tải quân sự vì chúng đều bốc cháy. Và đi vào thành phố để kiếm một chiếc xe cũng không được. Chẳng biết sao nhưng toàn bộ Vladivostok đều đang cháy.

Hầu hết các tù nhân trong trại thoát chết khỏi đám cháy nổ tụ tập thành một nhóm trên con đường bên ngoài trại, ở một khoảng cách an toàn tránh lựu đạn, đạn bắn xe bọc thép và mọi thứ khác đang bay lượn trong không khí. Một vài phương án mạo hiểm được đặt ra, tất cả đều hướng về phía tây bắc, bởi vì đó là hướng hợp lý duy nhất để người Nga chạy trốn. Phía đông là biển nước, phía nam là Chiến tranh Triều Tiên, còn thẳng phía bắc là thành phố đang bốc cháy hừng hực. Lựa chọn duy nhất còn lại là đi thẳng vào Siberia cực kỳ lạnh giá. Nhưng bọn lính cũng nghĩ thế, và trước khi trời tối đã bắt hết đám người bỏ trốn, đưa họ đến cõi vĩnh hằng, không sót một ai.

Chỉ trừ có Allan và Herbert. Cả hai đã mò tới được một ngọn đồi phía tây nam Vladivostok. Họ ngồi nghỉ ở đó một lát, ngắm cảnh tàn phá bên dưới.

-Quả pháo sáng cháy sáng thật đấy, Herbert nói.

-Bom nguyên tử cũng chẳng làm được hơn thế, Allan đáp.

– Thế chúng ta làm gì bây giờ? Herbert tự hỏi, lạnh cóng đến nỗi đâm thèm được quay lại cái trại đã không còn đó nữa.

– Giờ ta sẽ đến Bắc Triều Tiên, anh bạn ạ, Allan đáp. Và vì quanh đây chẳng có xe cộ gì, ta sẽ phải đi bộ. Thế cho ấm người.

Kirill Afanasievich Meretskov là một trong những sĩ quan Hồng quân giỏi giang, được gắn huân chương nhiều nhất. Ông là một anh hùng Liên Xô được thưởng Huân chương Lenin ít nhất bảy lần.

Là chỉ huy của quân đoàn Bốn, ông đã chiến đấu ngoan cường chống quân Đức quanh tuyến Leningrad, và sau 900 ngày đáng sợ đã phá vỡ cuộc bao vây. Không có gì ngạc nhiên khi Meretskov được phong làm tư lệnh Liên Xô, cùng với tất cả huân huy chương và các danh hiệu.

Sau khi đẩy lùi được Hitler vĩnh viễn, Meretskov tiến về phía đông 9.600km bằng xe lửa. Ông được điều động chỉ huy Mặt trận Viễn Đông, để đuổi Nhật ra khỏi Mãn Châu. Và không ai ngạc nhiên khi ông lại thành công.

Và rồi chiến tranh thế giới kết thúc, Meretskov thấy mệt mỏi. Chẳng ai chờ đợi ông trở lại Moskva, ông vẫn ở phía đông. Ngồi chơi xơi nước sau cái bàn quân sự ở Vladisvostok. Một cái bàn rất đẹp. Bằng gỗ tếch xịn.

Vào mùa đông năm 1953, ông đã 56 tuổi, vẫn ở yên sau cái bàn làm việc của mình. Từ chỗ đó, ông quản lý sự vắng mặt của Liên Xô trong chiến tranh Triều Tiên. Tư lệnh Meretskov và đồng chí Stalin coi việc Liên Xô tạm thời không tham chiến trực tiếp với quân Mỹ là một chiến lược quan trọng. Tất nhiên cả hai bên đều có thứ Bom kia, nhưng Hoa Kỳ đi trước. Cái gì cũng cần có thời gian, và đây không phải là lúc để khiêu chiến – như thế Nga sẽ không tránh khỏi nhúng tay vào Triều Tiên: chiến tranh Triều Tiên có thể thắng lợi, và thực sự là nó phải thắng.

Giờ đã là một tư lệnh, Meretskov cho phép bản thân thỉnh thoảng xả hơi một chút. Ví dụ, ông có một ngôi nhà đi săn ngoài Kraskino, đi vài tiếng về phía nam Vladisvostok. Ông thu xếp đến đó khá thường xuyên, nhất là vào mùa đông. Nếu có thể thì đi một mình. Tất nhiên chưa kể trợ lý của ông, tư lệnh mà tự lái xe cho mình thì mọi người sẽ nghĩ sao?

Tư lệnh Meretskov và viên trợ lý lái xe được gần một tiếng từ Kraskino đến Vladisvostok thì lần đầu tiên thấy một luồng khói đen bốc lên từ đường ven biển quanh co. Chuyện gì thế? Cái gì đang bị cháy?

Khoảng cách quá xa, nếu có lấy ống nhòm trong xe ra cũng chẳng ăn thua gì. Tư lệnh

Meretskov ra lệnh phóng nhanh về phía trước, bắt viên trợ lý trong vòng hai mươi phút phải tìm được một chỗ đậu xe có thể nhìn rõ xuống vịnh. Điều gì có thể xảy ra nhỉ? Chắc chắn có cái gì bị cháy…

Allan và Herbert đã đi bộ khá xa dọc con đường chính khi chiếc POBEDA quân sự màu xanh lá cây phóng đến từ phía nam. Hai kẻ đào tẩu vội giấu mình sau một ụ tuyết. Nhưng ngay sau đó, chiếc xe chạy chậm lại và đỗ cách họ chừng năm mươi mét. Một viên sĩ quan huân chương đầy ngực bước ra cùng trợ lý. Người trợ lý lấy chiếc ống nhòm của viên sĩ quan đeo huân chương ra khỏi cốp xe, rồi họ rời xe tìm một nơi có thể quan sát rõ bờ vịnh bên kia, phía Vladisvostok.

Thế là Allan và Herbert lẻn vào xe dễ như ăn kẹo, tóm lấy khẩu súng lục của viên sĩ quan và súng tự động của người trợ lý, khiến cả hai rơi tõm vào một tình cảnh hết sức trớ trêu. Như Allan nói:

– Thưa quý vị, xin cho phép tôi tước quần áo của quý vị.

Tư lệnh Meretskov tức điên lên. Không ai dám đối xử với một tư lệnh của Liên Xô theo cách đó, huống chi lại là một gã tù nhân. Các vị định nói là ông – Tư lệnh KA Meretskov nên đi bộ đến Vladivostok mặc mỗi cái quần lót? Allan đáp, đến Vladivostok khó lắm vì cả thành phố đang cháy thành tro, nhưng ông và anh bạn Herbert đây có ý gần gần như thế. Đương nhiên, đổi lại, quí vị sẽ được cung cấp hai bộ quần áo đen và trắng của tù nhân, càng đến gần Vladisvostok thì càng ấm – nếu có thể gọi đám mây khói và đống đổ nát ấy là Vladisvostok.

Vừa nói Allan và Herbert vừa mặc bộ quân phục thó được và để lại quần áo tù cũ của mình thành đống dưới đất. Allan nghĩ mình lái xe thì an toàn hơn nên Herbert phải làm tư lệnh, Allan là trợ lý. Herbert ngồi ở ghế hành khách, còn Allan ngồi sau tay lái. Allan tạm biệt vị tư lệnh, khuyên ngài đừng tức giận làm gì vô ích. Thêm nữa, trời sắp sang xuân rồi, mà mùa xuân ở Vladivostok thì… ờ, có lẽ cũng không đến nỗi quá… Dù sao, Allan cũng khuyến khích tư lệnh hãy suy nghĩ lạc quan, nhưng nói thêm rằng tất nhiên tùy ngài thôi. Nếu ngài vẫn thích đi bộ suốt dọc đường chỉ mặc mỗi quần lót và nghĩ ngợi bi quan về cuộc sống thì cứ việc.

– Tạm biệt ngài tư lệnh. Và anh bạn nữa, Allan nói thêm với viên trợ lý.

Tư lệnh không trả lời, chỉ tiếp tục nhìn họ nảy lửa, trong khi Allan quay vòng chiếc POBEDA. Rồi ông và Herbert đi về phía Nam.

Trạm tiếp theo là Bắc Triều Tiên.

*

Biên giới giữa Liên Xô và Bắc Triều Tiên ra vào rất dễ và nhanh chóng. Đầu tiên, lính biên phòng Liên Xô đứng thẳng chào, sau đó Bắc Triều Tiên cũng làm tương tự. Chẳng phải nói tiếng nào, thanh chắn được nâng lên cho tư lệnh Liên Xô (Herbert) và trợ lý của ông (Allan). Một trong hai chú lính biên phòng tận tụy của Bắc Triều Tiên còn rưng rưng nước mắt nghĩ rằng cú lách qua biên giới này là một cam kết cá nhân. Triều Tiên chắc chắn không thể có người bạn nào tốt hơn Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Ngài tư lệnh chắc đang trên đường đến Wonsan để đảm bảo nguồn tiếp viện từ Vladisvostok đến đúng lúc đúng chỗ khi cần.

Nhưng thật ra không phải thế. Riêng vị tư lệnh này chẳng nghĩ gì ráo về hạnh phúc của Bắc Triều Tiên. Ông thậm chí còn chẳng rõ là mình đang ở nước nào. Ông chỉ đang chăm chăm tìm cách mở cái hộp đựng đồ lặt vặt trong xe.

Allan đã moi tin từ các thủy thủ cảng Vladisvostok rằng chiến tranh Triều Tiên đã đi vào bế tắc, hai bên trở lại phía của mình ở vĩ tuyến 38. Ông cũng truyền đạt lại với Herbert, người hình dung ra tất cả những gì họ phải làm để đi từ Bắc sang Nam Triều Tiên là chạy thật nhanh và nhảy qua biên giới (miễn là giới tuyến đừng rộng quá). Tất nhiên có nguy cơ là họ sẽ bị bắn khi nhảy qua, nhưng chắc cũng không sao.

Nhưng hóa ra – dù vẫn còn lâu mới tới biên giới – cuộc chiến tranh quy mô đã lan đến chỗ họ. Máy bay Mỹ lượn vòng trên không trung và ném bom gần như mọi thứ họ thấy. Allan nhận ra rằng chiếc xe quân sự màu xanh lá cây của Nga có lẽ sẽ được coi là một mục tiêu tuyệt vời, do đó, ông rời đường chính phía nam (mà không xin phép tư lệnh của mình) và lái vào nội địa, trên những con đường nhỏ hơn, dễ kiếm chỗ trú ẩn khi nghe tiếng máy bay gầm rú trên đầu.

Allan tiếp tục đi theo hướng đông nam, trong khi Herbert giải khuây bằng cách săm soi ví tiền của vị tư lệnh mà mình tìm thấy trong túi bộ quân phục. Nó chứa một ít tiền rúp, ngoài ra là những thông tin về vị tư lệnh và một số thư từ mà từ đó có thể suy ra ông đã làm những gì ở Vladisvostok hồi thành phố vẫn còn tồn tại.

Biết đâu ông ta lại chẳng phải là sếp của vận tải đường sắt nữa, Herbert nói. Allan khen ngợi Herbert vì liên tưởng đó, nó có vẻ khôn ngoan, và Herbert lại đỏ mặt. Nhận xét cái gì đó không tồi hóa ra cũng hay.

Nhân tiện, anh có thể nhớ tên của tư lệnh Kirill Afanasievich Meretskov không? Allan nói. Có thể nó sẽ tiện dụng đấy.

Được, chắc là tôi nhớ được, Herbert đáp.

Trời vừa sụp tối thì Allan và Herbert rẽ vào sân một trang trại trông có vẻ khá giả. Người chủ trại cùng vợ và hai con nhanh nhẩu ra xem hai vị khách đặc biệt với chiếc xe lạ mắt. Trợ lý (Allan) xin lỗi bằng cả tiếng Nga lẫn tiếng Tàu vì mình và ngài tư lệnh đã đến mà không báo trước, nhưng liệu nhà có gì để ăn không? Tất nhiên họ sẽ trả tiền nhưng bằng rúp vì không có gì khác.

Vợ chồng nhà bác nông dân chả hiểu Allan nói gì. May có cậu cả 12 tuổi có học tí tiếng Nga ở trường đứng ra dịch cho bố. Vài giây sau, trợ lý Allan và tư lệnh Herbert đã được mời vào trong nhà. Sau bữa tối, cả hai lại được xếp chỗ ngủ. Tư lệnh Herbert chiếm phòng ngủ lớn trong khi ông bà chủ nhà xuống ngủ với trẻ con. Trợ lý Allan thì nằm ở sàn bếp.

Sáng hôm sau, bữa sáng dọn ra với rau củ hấp, hoa quả khô và trà, trước đó bác nông dân còn lấy thùng trong nhà kho đổ đầy xăng cho xe của tư lệnh. Cuối cùng, bác cứ từ chối nhận nắm tiền rúp mà vị tư lệnh đưa cho, đến khi tư lệnh phải gầm lên bằng tiếng Đức:

– Cầm tiền đi, đồ nhà quê!

Bác nông dân khiếp quá vội làm theo, dù chẳng hiểu Herbert nói mô tê gì.

Họ thân ái vẫy chào từ biệt và cuộc hành trình tiếp tục về hướng tây nam, suốt con đường lộng gió không có lấy một bóng xe qua, chỉ có tiếng gầm rú đe dọa của máy bay thả bom trên đầu.

Khi xe đến Bình Nhưỡng, Allan thấy đến lúc phải lên kế hoạch mới. Cái cũ giờ có vẻ không phù hợp nữa. Cố gắng đến Hàn Quốc từ chỗ hai người đang ở là chuyện không tưởng. Thay vì đó, kế hoạch chuyển thành phải sắp xếp một cuộc gặp mặt với Thủ tướng Kim Il Sung. Herbert là một tư lệnh Liên Xô kia mà, tất phải được.

Herbert xin lỗi vì đã chen ngang nhưng thắc mắc gặp Kim Il Sung để làm gì.

Allan đáp mình chưa biết, nhưng hứa sẽ suy nghĩ về chuyện đó. Lý do trước mắt ông giải thích với Herbert là càng đến được gần sếp to thì càng được chén ngon hơn. Và có cả vodka nữa.

Allan nhận ra, chẳng sớm thì muộn, ông và Herbert sẽ bị chặn đường và kiểm tra kỹ càng. Kể cả một vị tư lệnh thì cũng không thể phăm phăm tiến vào thủ đô một đất nước đang chiến tranh mà không bị xét hỏi câu nào. Do đó, Allan dành ra vài giờ để hướng dẫn Herbert nên nói gì – chỉ một câu thôi nhưng rất quan trọng: “Tôi là tư lệnh Meretskov của Liên Xô, đưa tôi đến gặp lãnh đạo của anh!”

Lúc này, Bình Nhưỡng được bảo vệ bởi một vành đai quân sự bên ngoài và bên trong. Vòng ngoài cách thành phố hai mươi cây số, gồm súng chống máy bay và các trạm kiểm soát kép trên đường, còn vòng trong là những chướng ngại vật xếp thành chiến tuyến để phòng thủ nếu bị tấn công đường bộ. Allan và Herbert bị giữ lần đầu tiên tại một trong các trạm kiểm soát vòng ngoài và gặp một chú lính Bắc Triều Tiên đang say khướt, với khẩu súng máy Cocked trước ngực. Tư lệnh Herbert tập đi tập lại câu nói duy nhất của mình, và cất lời:

Tôi là lãnh đạo của anh, đưa tôi đến… Liên Xô.

May sao chú lính không biết tiếng Nga, nhưng lại hiểu tiếng Trung Quốc. Vì thế, trợ lý (Allan) dịch cho ngài tư lệnh của mình và nói ra đúng câu cần nói.

Nhưng chú lính đã nốc rượu say đến mức không biết phải làm gì. Thế là chú ta mời Allan và Herbert vào trạm kiểm soát và gọi điện cho đồng nghiệp cách đấy 200m. Rồi chú ngồi phịch xuống chiếc ghế bành tồi tàn, lôi chai rượu gạo (thứ ba trong ngày) ra khỏi túi, tợp một ngụm và bắt đầu ư ử ngâm nga một mình, vừa nhìn xuyên qua các vị khách Liên Xô bằng đôi mắt long lanh, hướng vào cõi xa xăm vô định.

Allan lo lắng trước ứng xử của Herbert với tay lính gác, và nhận ra nếu Herbert cứ đóng vai tư lệnh với Kim Il Sung thì chỉ cần vài phút là cả tư lệnh lẫn trợ lý sẽ bị tống giam ngay. Qua cửa sổ, Allan thấy người lính khác đang tới.

Họ phải nhanh lên mới kịp.

Herbert, mình đổi quần áo đi, Allan nói.

Sao thế? Herbert thắc mắc.

Cứ làm đi, Allan đáp.

Và thế là, nhanh như chớp, tư lệnh biến thành trợ lý, còn trợ lý thành tư lệnh. Chú lính say khướt đảo cặp mắt trống rỗng trong lúc vẫn âm ư cái gì đó bằng tiếng Triều Tiên.

Vài giây sau, người lính thứ hai bước trạm gác và lập tức đứng chào khi thấy vị khách nổi bật. Anh ta cũng biết tiếng Trung Quốc, và Allan (trong vai tư lệnh) lại bày tỏ mong muốn gặp chủ tịch Kim Il Sung. Trước khi người lính thứ hai kịp trả lời, chú lính thứ nhất chợt ngừng âm ư giai điệu của mình.

Anh ta nói gì vậy? Tư lệnh Allan hỏi.

Anh ta nói rằng ông cởi hết quần áo ra rồi mặc lại lần nữa, anh lính số 2 thật thà đáp.

Đúng là rượu nói! Allan nói và lắc đầu.

Anh lính thứ 2 vội xin lỗi vì cư xử của đồng đội và khi chú thứ nhất cứ khăng khăng là Allan và Herbert đã cởi quần áo rồi mặc lẫn của nhau, chú ta bị thụi một quả vào mũi để im miệng, trừ phi muốn bị báo cáo là say rượu.

Chú lính thứ nhất đành im bặt (và tợp một ngụm nữa) trong khi chú số 2 gọi vài cú điện thoại trước khi điền vào một tờ giấy thông hành bằng tiếng Triều Tiên, ký tên, đóng dấu ở hai chỗ, rồi giao cho Tư lệnh Allan và dặn:

Đồng chí Tư lệnh, đồng chí sẽ xuất trình cái này tại trạm kiểm soát tới. Rồi đồng chí sẽ được hướng dẫn tới đồng chí cấp phó của cấp phó thủ tướng.

Allan cảm ơn anh ta, chào và trở lại xe, đẩy Herbert ra ngồi phía trước.

Vì anh đã thành trợ lý của tôi, từ giờ anh phải lái xe, Allan nói.

Hay đấy, Herbert đáp. Tôi đã không lái xe hơi từ khi cảnh sát Thụy Sĩ cấm tôi vĩnh viễn không được lái.

Tốt nhất là anh đừng kể nữa, Allan bảo.

Tôi thấy nó khó quá, sang trái và phải, Herbert nói.

Phải, phải, tôi nói rồi đấy, anh đừng nói gì nữa cho lành, Allan đáp.

Cuộc hành trình tiếp tục với Herbert sau tay lái, hóa ra nó trôi chảy hơn nhiều so với Allan tưởng. Với tấm giấy thông hành, họ không gặp khó khăn gì khi băng qua các con đường vào thành phố và thẳng đến phủ thủ tướng.

đó, cấp phó của cấp phó thủ tướng tiếp họ và cho biết trong ba ngày tới, cấp phó thủ tướng không tiếp kiến họ được. Trong thời gian ấy, quí vị sẽ ở tại phòng khách trong phủ thủ tướng. Và bữa tối sẽ được phục vụ vào lúc 8 giờ, nếu quí vị thấy phù hợp.

– Anh thấy tôi nói đúng không? Allan bảo Herbert.

***

Kim Il Sung sinh tháng Tư năm 1912, trong một gia đình Kitô giáo ở ngoại ô Bình Nhưỡng. Gia đình ông, cũng như tất cả các gia đình Triều Tiên bấy giờ, bị Nhật Bản cai trị. Trong nhiều năm, người Nhật hầu như muốn gì làm nấy với dân thuộc địa. Hàng trăm hàng ngàn cô gái và phụ nữ Triều Tiên đã bị bắt giữ và sử dụng như nô lệ tình dục khi quân đội Nhật hoàng cần. Đàn ông Triều Tiên bị bắt đi lính, chiến đấu cho vị hoàng đế đã buộc họ phải đổi tên Nhật Bản và làm đủ cách để diệt trừ ngôn ngữ, văn hóa Triều Tiên.

Cha của Kim Il Sung là một nhà bào chế thuốc ít nói, nhưng những lời chỉ trích

Nhật Bản của ông lại hết sức sắc bén, gây khó chịu cho người Nhật đến mức một ngày kia, gia đình ông thấy tốt nhất nên chuyển lên phía bắc, vùng Mông Cổ, Trung Quốc. Nhưng đến năm 1931, sự bình yên ở đó cũng bị phá vỡ khi quân đội Nhật lại tràn đến. Lúc đó, cha của Kim Il Sung đã mất, nhưng mẹ khuyến khích ông tham gia du kích Trung Quốc, với tham vọng đánh bật Nhật Bản ra khỏi Mãn Châu – và cuối cùng là Triều Tiên.

Kim Il Sung đã làm nên sự nghiệp khi tham gia du kích cộng sản Trung Quốc. Ông nổi tiếng là một người ưa hành động và dũng cảm. Ông được bổ nhiệm làm sĩ quan chỉ huy toàn sư đoàn và đã chiến đấu chống Nhật quyết liệt đến khi chỉ còn ông và vài người trong sư đoàn còn sống sót. Đó là vào năm 1941, giữa chiến tranh Thế giới, và Kim Il Sung buộc phải trốn qua biên giới sang Liên Xô.

Đó ông cũng khá thành công. Chẳng bao lâu, ông được phong đại úy Hồng quân và chiến đấu đến năm 1945.

Kết thúc chiến tranh, Nhật Bản phải bàn giao lại Triều Tiên. Kim Il Sung từ nơi lưu vong trở về như một anh hùng dân tộc. Vấn đề còn lại là chính thức xây dựng lên một nhà nước, và thực tế hiển nhiên là mọi người muốn bầu Kim Il Sung làm Lãnh tụ Vĩ đại.

Tuy nhiên, phe thắng trận, Liên Xô và Mỹ, lại phân chia Triều Tiên thành vùng lãnh thổ theo lợi ích của mỗi bên. Mỹ không chấp nhận một người cộng sản đứng đầu toàn bộ bán đảo. Vì vậy, họ đã đưa về một người Triều Tiên lưu vong làm người đứng đầu nhà nước khác của riêng mình, và đưa xuống phía nam. Kim Il Sung phải yên vị
phần phía bắc, nhưng ông nhất quyết không chịu. Thay vào đó, ông bắt đầu cuộc chiến tranh Triều Tiên. Nếu ông đã đuổi được Nhật thì cũng có thể đuổi được Mỹ và quân Liên Hợp Quốc theo sau.

Kim Il Sung đã từng phục vụ trong quân đội ở cả Trung Quốc và Liên Xô. Và bây giờ ông đã chiến đấu vì chính mình. Trong cuộc hành trình đầy kịch tính, một trong những điều ông học được là không lệ thuộc vào bất cứ ai khác ngoài bản thân mình.

Ông chỉ có một ngoại lệ cho quy tắc đó. Và ngoại lệ ấy vừa được bổ nhiệm làm cấp phó cho ông. Bất cứ ai muốn tiếp xúc với Thủ tướng Kim Il Sung trước tiên phải tìm cách gặp được con trai ông.

Kim Jong Il.

– Con phải để cho khách chờ đợi ít nhất 72 tiếng trước khi tiếp họ. Điều đó duy trì quyền lực của con, con trai ạ, Kim Il Sung dạy con trai.

– Con hiểu, thưa cha, Kim Jong Il nói dối, rồi lén tìm một cuốn từ điển, tra cái từ mình không hiểu.

***

Ba ngày chờ đợi chẳng khiến Allan và Herbert khó chịu chút nào, vì trong phủ thủ tướng, đồ ăn rất ngon, giường rất êm. Thêm nữa, hiếm khi máy bay thả bom của Mỹ đến gần Bình Nhưỡng vì có những mục tiêu tấn công đơn giản hơn.

Tuy nhiên, rồi cũng đến lúc. Cấp phó của cấp phó thủ tướng đến tìm Allan, đưa đi dọc hành lang đến văn phòng của cấp phó thủ tướng. Allan đã được biết trước là cấp phó thủ tướng mới chỉ nhỉnh hơn một cậu bé một chút.

Tôi là con trai của thủ tướng, Kim Jong Il, Kim Jong Il nói. Và tôi là cấp phó của cha tôi.

Kim Jong Il giơ tay về phía vị tư lệnh và bắt chặt, dù bàn tay cậu ta lọt thỏm trong nắm tay khổng lồ của Allan.

Còn tôi là Tư lệnh Kirill Afanasievich Meretskov, Allan nói. Xin cám ơn cậu Kim đã tiếp đón tôi. Xin phép cậu Kim cho tôi được trình bày sứ mệnh của mình?
Kim Jong Il đồng ý, thế là Allan tiếp tục nói láo: như cậu Kim biết đấy, tư lệnh có mang theo một thông điệp trực tiếp từ đồng chí Stalin ở Moskva gửi Thủ tướng. Vì có những nghi ngờ rằng Hoa Kỳ – đồ chó tư bản – đã thâm nhập vào hệ thống thông tin liên lạc của Liên Xô (Tư lệnh không muốn đi vào chi tiết hơn, hy vọng cậu Kim hiểu), đồng chí Stalin đã quyết định rằng thông điệp nên được chuyển tải trực tiếp theo cách này. Và sứ mệnh này vinh dự được đặt trên vai của tư lệnh và trợ lý của ông (vì lí do an toàn, tư lệnh đã để trợ lý ở lại phòng).

Kim Jong Il nhìn Tư lệnh Allan một cách ngờ vực và nói như đọc bài rằng việc của mình là bảo vệ cha bằng mọi giá. Và một phần của việc này là không tin tưởng bất kỳ ai, cha đã dạy như thế, cậu ta giải thích. Vì vậy, Kim Jong Il không thể cho phép Tư lệnh đến gặp cha mình, Thủ tướng, cho đến khi chuyện này được kiểm tra với Liên Xô. Kim Jong Il có ý định khá đơn giản là gọi điện cho Moskva và hỏi liệu có đúng là Stalin đã cử tư lệnh đến đây hay không.

Đương nhiên một tư lệnh lại ngồi đây và phản đối cậu thì thật không thích hợp, nhưng dù sao, tôi vẫn cho phép mình phản ánh rằng có lẽ ta không nên dùng điện thoại để kiểm tra, nếu thật sự là không nên sử dụng điện thoại.

Cậu Kim nghe những gì Allan nói. Nhưng những lời của ông bố vẫn vang vọng trong đầu: “Đừng tin tưởng bất cứ ai, con trai ạ!” Cuối cùng, cậu nghĩ đến một giải pháp. Cậu vẫn gọi điện cho bác Stalin, nhưng sẽ nói chuyện kiểu mật mã. Cậu Kim đã gặp bác Stalin nhiều lần và bác Stalin thường gọi cậu là ‘nhà cách mạng nhỏ’.

Thế thì, tôi sẽ gọi điện cho bác Stalin, giới thiệu bản mình là ‘nhà cách mạng nhỏ’ rồi hỏi liệu bác Stalin có cử ai đến thăm cha. Như thế tôi không nghĩ rằng chúng ta nói quá nhiều, ngay cả nếu người Mỹ nghe được. Ông có nghĩ thế không, Tư lệnh?

Tư lệnh nghĩ cậu nhỏ này là một con quỷ ranh ma. Cậu ta bao nhiêu tuổi? Mười tuổi ư? Bản thân Allan đã người lớn trước tuổi. Bằng tuổi Kim Jong Il, ông đã ráng sức mang thuốc nổ ở nhà máy Nitroglycerin tại Flen. Hơn nữa, Allan e rằng chuyện này có thể dẫn đến một kết cục tệ hại, ai mà biết được. Dù sao, mọi chuyện vẫn đang tiếp diễn.

Tôi tin rằng cậu Kim rất khôn ngoan và sẽ tiến xa, Allan nói, còn lại phó mặc cho số phận.
Vâng, tư lệnh nói đúng, dự kiến là tôi sẽ kế thừa công việc của cha tôi. Mời ông dùng trà trong khi tôi gọi điện thoại cho bác Stalin.

Cậu Kim băng qua chiếc bàn màu nâu ở góc phòng, trong khi Allan rót trà và nghĩ xem mình có nên thử nhảy ra ngoài cửa sổ. Nhưng ông lập tức bỏ ý định này. Trước hết, ông đang ở tầng thứ tư của phủ thủ tướng, và Allan cũng không thể bỏ mặc đồng chí của mình. Herbert có lẽ cũng muốn nhảy lắm (nếu anh ta dám) nhưng anh ta lại không ở đây ngay lúc này.

Đột nhiên, ý nghĩ của Allan bị gián đoạn bởi cậu Kim òa lên khóc. Cậu ta đặt điện thoại xuống, chạy lao đến chỗ Allan, vừa khóc vừa kêu to:

Bác Stalin mất rồi! Bác Stalin mất rồi!

Nào, nào, cậu Kim. Cậu lại đây để chú Tư lệnh ôm cậu Kim một cái nào. Nào, nào…
Khi được an ủi ít nhiều, cậu Kim không còn nghi ngờ lắm nữa. Có vẻ như cậu không cố làm người lớn thêm được nữa. Sụt sịt, cậu gắng kể rằng mấy hôm trước Stalin đã bị đột quỵ và theo bác gái Stalin (cậu gọi bà ta như vậy) bác đã mất vừa đúng trước khi cậu Kim gọi điện.

Vừa để cậu Kim ngồi trên đầu gối, Allan vừa kể đầy cảm xúc về kỷ niệm tươi sáng khi mình được gặp đồng chí Stalin lần cuối. Họ đã ăn tiệc với nhau, đã rất vui như những người bạn thật sự. Đồng chí Stalin còn nhảy và hát nữa. Allan vô tình ngân nga bài hát dân gian Gruzia mà Stalin đã hát lúc đó, và cậu Kim nhận ra bài hát! Bác Stalin cũng từng hát bài hát đó cho cậu. Thế là bao nhiêu nghi ngờ tan biến. Chú Tư lệnh hẳn là nói thật rồi. Cậu Kim sẽ đảm bảo để bố mình, thủ tướng, tiếp chú ấy ngày hôm sau. Còn bây giờ cậu muốn được ôm cái nữa…

* * *

Thủ tướng không ngồi điều hành nửa đất nước của mình ở ngay văn phòng bên cạnh. Như thế với ông là quá mạo hiểm. Không, ai đến gặp Kim Il Sung cũng phải trải qua một hành trình dài bằng xe thùng trang bị súng SU-122 bộ binh, vì lý do an ninh bởi đích thân cậu quý tử, cánh tay phải của thủ tướng cũng sẽ đi cùng.

Chuyến đi không được thoải mái lắm, mà đương nhiên xe trang bị súng bộ binh không phải là để tiện nghi. Suốt hành trình, Allan có vô khối thời gian để ngẫm nghĩ về hai chuyện khá quan trọng. Trước hết là ông nên nói gì với Kim Il Sung, và thứ hai là ông muốn đi đến đâu.

Trước mặt cánh tay phải (và con trai) của Thủ tướng, tất nhiên Allan đã tuyên bố rằng mình đến mang theo một thông điệp quan trọng của đồng chí Stalin, thật cám ơn cơn đột quỵ may mắn vô cùng, nên chuyện này đâm ra dễ đối phó. Tư lệnh dỏm bây giờ muốn nói gì chẳng được, Stalin chết rồi nên không thể phản đối. Thế là, Allan quyết rằng thông điệp cho Kim Il Sung sẽ là Stalin quyết định tặng Kim Il Sung 200 chiếc xe tăng cho cuộc chiến cộng sản ở Triều Tiên. Hay là 300. Con số càng cao thì tất nhiên hơn thủ tướng càng vui.

Vấn đề kia khó xử hơn. Allan chẳng muốn trở lại Liên Xô sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình với Kim Il Sung. Nhưng để khiến những nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên giúp Allan và Herbert sang Hàn Quốc thì thật không dễ dàng. Và ở nơi gần Kim Il Sung cũng chẳng hay ho gì nếu mỗi ngày qua xe tăng vẫn chẳng thấy đâu.

Hay là đi Trung Quốc nhỉ? Nếu Allan và Herbert vẫn còn mặc áo tù sọc trắng đen thì không được, nhưng bây giờ đã khác. Ông hàng xóm khổng lồ của Triều Tiên có thể không còn là mối đe dọa mà thành ra hứa hẹn, một khi Allan đã thành Tư lệnh của Liên Xô. Đặc biệt là nếu Allan có thể lừa Kim Il Sung cấp cho họ một thư giới thiệu tốt đẹp.

Thế thì, điểm đến tới là Trung Quốc? Sau đó thì mọi thứ sẽ giống như họ đã làm.

Nếu không có ý tưởng nào hay hơn nảy ra dọc đường thì họ có thể đi lang thang trên

Hy Mã Lạp Sơn lần nữa.

Đến đó, Allan thấy nghĩ thế đủ rồi. Trước hết, Kim Il Sung sẽ nhận được 300 chiếc xe tăng, hay thậm chí 400 – chẳng việc gì phải keo kiệt về chuyện đó. Sau đó, Tư lệnh dỏm sẽ khiêm tốn nhờ Thủ tướng giúp mình phương tiện và thị thực cho chuyến đi đến Trung Quốc, vì Tư lệnh cũng có việc với Mao Trạch Đông. Allan hài lòng với kế hoạch chu đáo của mình. Gần tối, đoàn xe bọc thép với hành khách là Allan, Herbert và cậu Kim Jong Il tới một nơi mà Allan đoán có vẻ là một doanh trại quân đội hay gì đó.

Hay là tụi mình được đưa đến Nam Triều Tiên nhỉ? Herbert hỏi đầy hy vọng.

Nếu có bất cứ nơi nào trên thế giới mà Kim Il Sung sẽ KHÔNG ngồi và giữ mình cẩn thận, thì đó là Nam Triều Tiên, Allan đáp.

Không, tôi tưởng… Tôi chỉ nghĩ… không, mà thực ra tôi cũng chẳng nghĩ gì…

Herbert nói.

Rồi chiếc xe bọc thép mười bánh dừng lại đột ngột. Ba hành khách chui ra, đặt chân xuống nền đất cứng. Họ đã đến một sân bay quân sự, và đang đứng bên ngoài một cái gì như là trung tâm chỉ huy.

Cậu Kim giữ cửa cho Allan và Herbert, rồi lại nhã nhặn đi vượt lên hai quý khách và mở cánh cửa tiếp theo. Cứ thế, bộ ba đi đến tận chốn linh thiêng nhất. Bên trong là một bàn viết rộng rải đầy giấy tờ, đằng sau là một bức tường với bản đồ Triều Tiên và bên phải là hai chiếc sofa. Thủ tướng Kim Il Sung ngồi trên một sofa, còn khách của ông ngồi chiếc kia. Sát tường đầu kia căn phòng, hai lính gác trang bị súng máy đứng nghiêm.

Xin chào ngài Thủ tướng, Allan nói. Tôi là Tư lệnh Kirill Afanaseivich

Meretskov của Liên Xô.

Chắc chắn ông không phải là Tư lệnh, Kim Il Sung bình tĩnh nói. Tôi biết Tư lệnh Meretskov rất rõ.

Ôi trời, Allan nói.

Hai người lính lập tức thôi đứng nghiêm và hướng mũi súng của họ vào Tư lệnh dỏm và trợ lý có lẽ cũng dỏm như thế. Kim Il Sung vẫn bình tĩnh, nhưng con trai ông tức quá òa lên khóc. Có lẽ đúng lúc này, các mảnh vụn tuổi thơ cuối cùng của cậu đã biến mất. Không bao giờ tin bất kỳ ai! Thế mà trước đó, cậu đã ngồi trên đùi Tư lệnh dỏm! Không bao giờ tin bất kỳ ai! Cậu sẽ không bao giờ, không bao giờ tin tưởng một người nào nữa.

Mày sẽ chết! Cậu hét lên với Allan trong nước mắt. Và mày nữa! Cậu nói với Herbert.

Phải, chắc chắn các anh sẽ chết, Kim Il Sung vẫn bình tĩnh theo cách của mình. Nhưng trước tiên chúng tôi muốn tìm ra ai đã cử các anh tới.

Không xong rồi, Allan nghĩ. Có vẻ hay đây, Herbert nghĩ.

**

Tư lệnh Kirill Afanasievich Meretskov thật và trợ lý của ông chẳng còn cách nào khác ngoài lóc cóc đi bộ tới phần còn sót lại của Vladisvostok.

Vài giờ sau, họ đến một doanh trại được Hồng quân lập bên ngoài thành phố bị phá hủy. Ở đó, Tư lệnh còn nhục nhã hơn vì bị nghi ngờ là một tù nhân đào tẩu giờ hối hận vì đã bỏ trốn. Nhưng chẳng bao lâu, ông cũng được nhận ra và được phục vụ đúng với địa vị của mình.

Trong đời mình, chỉ có một lần Tư lệnh Meretskov chịu bất công, đó là khi Beria, cấp phó của Stalin, đã vô cớ bắt, tra tấn, và chắc chắn sẽ để ông chết nếu đích thân Stalin không đến cứu. Lẽ ra sau đó Meretskov phải đánh lại Beria nhưng ông đã giành chiến thắng trong chiến tranh thế giới và dù sao Beria cũng quá mạnh. Vì thế, ông buộc phải cho qua. Nhưng Meretskov đã tự nhủ rằng sẽ không bao giờ cho phép mình bị làm nhục nữa. Vì vậy, giờ đây, không gì quan trọng hơn là tìm kiếm và tiêu diệt hai gã đã cướp cả xe lẫn quân phục của tư lệnh và trợ lý.

Meretskov không thể bắt đầu cuộc săn tìm ngay lập tức vì không có quân phục tư lệnh. Tìm ra một thợ may trong khu lều trại này không dễ gì, ngay cả khi tìm được thì họ vẫn gặp rắc rối vì thiếu cả những thứ tầm thường như cây kim sợi chỉ. Tất cả các xưởng may ở Vladisvostok – cũng như phần còn lại của thành phố – đã không còn tồn tại.

Nhưng dù sao, ba ngày sau, quân phục của tư lệnh cũng được làm xong. Tất nhiên không có huy chương, vì tên tư lệnh dỏm đã cuỗm hết. Nhưng Meretskov không thể để điều đó chặn bước mình, như thế nghĩa là thừa nhận thất bại.

Dù khó khăn, Tư lệnh Meretskov vẫn kiếm được cho mình và trợ lý một chiếc POBEDA mới (hầu hết các xe quân sự đã bị cháy rụi) và bắt đầu đi về phía nam, vào lúc bình minh, năm ngày sau khi câu chuyện khó chịu kia xảy ra.

Tại biên giới Triều Tiên, nghi ngờ của ông đã được xác nhận. Một vị tư lệnh, giống như ông, đi xe POBEDA, hệt như ông, đã vượt qua biên giới, tiếp tục đi về phía Nam. Lính biên phòng chỉ biết đến thế.

Tư lệnh Meretskov cũng có kết luận như Allan năm ngày trước đó, tức là đi về phía trước là tự sát. Vì vậy, ông chuyển hướng sang Bình Nhưỡng, và vài giờ sau đã thấy mình quyết định đúng. Các lính canh tại tuyến phòng vệ bên ngoài nói với ông rằng Tư lệnh Meretskov và trợ lý đã yêu cầu gặp Thủ tướng Kim Il Sung, và được tiếp kiến cấp phó của thủ tướng. Sau đó hai lính gác bắt đầu tranh cãi. Nếu Tư lệnh Meretskov hiểu tiếng Triều Tiên, ông có thể nghe một chú lính nói với chú kia rằng mình nhận thấy hai người ấy có cái gì đó gian manh và chắc chắn họ đã đổi quần áo cho nhau, còn chú kia đáp lại nếu có hôm nào cậu còn tỉnh táo sau 10 giờ sáng thì có lẽ mọi người mới bắt đầu tin cậu được. Thế là hai chú lính bắt đầu mắng lẫn nhau ngu dốt, còn Tư lệnh Meretskov và trợ lý tiếp tục đi tới Bình Nhưỡng.

Tư lệnh Meretskov thật có thể được gặp cấp phó của cấp phó thủ tướng sau bữa trưa cùng ngày. Với tất cả quyền hạn cho phép của một tư lệnh Liên Xô, Tư lệnh Meretskov đã sớm thuyết phục cấp phó của cấp phó thủ tướng rằng cả thủ tướng và con trai đang gặp nguy hiểm đến tính mạng, và cấp phó của cấp phó thủ tướng phải ngay lập tức chỉ cho họ đường tới trụ sở chính của thủ tướng. Để không bị mất thời gian, việc di chuyển sẽ bằng chiếc Pobeda của tư lệnh vì nó nhanh gấp bốn lần so với xe bọc thép mà Kim Jong Il và hai tên tội phạm đã từng đi.

**

Nào, Kim Il Sung nói, ngạo mạn nhưng đầy quan tâm. Anh là ai, ai đã cử anh tới đây và mục đích của trò bịp bợm con con này là gì?

Allan chưa kịp trả lời thì cánh cửa bật mở và Tư lệnh Meretskov thật lao vào phòng, hét lên rằng một vụ ám sát sắp xảy ra và hai người đàn ông trong phòng là những tù nhân hình sự.

Trong giây lát, có hơi nhiều tư lệnh và trợ lý với hai người lính mang súng máy. Nhưng ngay sau khi Thủ tướng gián tiếp xác nhận rằng vị tư lệnh mới vào là thật thì hai người lính lại có thể ngắm vào kẻ giả mạo.

Bình tĩnh nào, Kirill Afanasievich thân mến, Kim Il Sung nói. Tình hình đã được kiểm soát.

Mày sẽ chết! Tư lệnh Meretskov tức giận nói khi thấy Allan đứng đó trong quân phục tư lệnh với tất cả huy chương trên ngực.

Phải, họ cũng nói thế, Allan đáp. Đầu tiên là cậu Kim đây, rồi Thủ tướng và bây giờ là ông, Tư lệnh ạ. Người duy nhất không đòi tôi phải chết là ông, Allan quay sang vị khách của thủ tướng. Tôi không biết ông là ai, nhưng chắc là vẫn có thể hy vọng ông có ý kiến khác về vấn đề này?

Tôi chắc chắn là không, vị khách mỉm cười đáp lại. Tôi là Mao Trạch Đông, lãnh đạo của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và tôi có thể nói với anh một điều, rằng tôi không có bất kỳ sự thông cảm nào với ai đó muốn làm hại đồng chí Kim Il Sung, không, tôi chắc chắn là không .

Mao Trạch Đông! Allan nói. Thật vinh dự. Cho dù tôi có sớm bị thanh toán thì ông cũng đừng quên chuyển lời chào của tôi đến phu nhân xinh đẹp của ông.

Anh biết vợ tôi? Mao Trạch Đông hỏi, kinh ngạc.

Vâng, trừ khi ông Mao mới đổi vợ khác. Trước đây ông đã có thói quen làm như vậy mà. Tôi đã gặp bà Giang Thanh ở tỉnh Tứ Xuyên cách đây vài năm. Chúng tôi đi bộ khá nhiều ở vùng núi cùng với một cậu trai trẻ, An Minh.

Anh là Allan Karlsson? Mao Trạch Đông nói, kinh ngạc. Cứu tinh của vợ tôi? Herbert Einstein không hiểu lắm, nhưng bây giờ thì ông hiểu rằng Allan bạn mình đã có chín cuộc đời và cái chết chắc chắn của họ lại đang được chuyển thành một cái gì đó khác, một lần nữa! Không thể như thế được! Herbert hành động trong hoảng loạn.

Tôi trốn đây, tôi đang chạy trốn, bắn tôi đi, bắn đi! ông hét lên, chạy xuyên qua căn phòng, mở nhầm cửa, nhảy vào cái tủ chứa đồ dọn dẹp và ngã bổ chửng trên một cái thùng và đống giẻ lau.

Bạn của anh…, ông Mao Trạch Đông nói. Anh ta không phải là Einstein đấy chứ …

Đừng nói thế, Allan đáp. Đừng nói thế.

**

Chẳng có gì lạ khi Mao Trạch Đông lại có mặt trong phòng đó, vì Kim Il Sung đã thiết lập trụ sở của mình ở Mãn Châu Trung Quốc, ngay bên ngoài Thẩm Dương ở tỉnh Liêu Ninh, cách Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) khoảng 500 km về phía tây bắc. Mao thích dành thời gian ở khu vực đó, nơi ông từng được ủng hộ mạnh mẽ nhất. Và ông thích đến với người bạn Bắc Triều Tiên của mình.

Dù sao cũng mất khá nhiều thời gian để dàn xếp mọi thứ cần thiết, và khiến những người muốn Allan phải chết đổi ý.

Tư lệnh Meretskov là người đầu tiên chìa bàn tay tha thứ. Sau cùng thì Allan Karlsson cũng gánh chịu cơn điên của tư lệnh Beria y như Meretskov (để an toàn, Allan bỏ qua chi tiết nhỏ về chuyện ông thiêu trụi cả Vladisvostok như thế nào). Và khi Allan đề xuất rằng mình và tư lệnh nên đổi quân phục cho nhau để tư lệnh lấy lại huy chương thì mọi tức giận của tư lệnh tan biến.

Kim Il Sung, về phần mình, cũng không tức giận gì mấy. Allan không bao giờ có ý định làm hại thủ tướng. Kim Il Sung chỉ lo lắng là con trai mình cảm thấy bị lừa.

Cậu Kim vẫn còn gào khóc và hét lên và tiếp tục đòi tử hình Allan ngay lập tức, theo cách bạo lực càng tốt. Cuối cùng, Kim Il Sung phải bợp mạnh vào tai cậu con và ra lệnh cậu phải im mồm ngay nếu không sẽ bị bợp tiếp.

Allan và Tư lệnh Meretskov được mời ngồi xuống chiếc sofa của Kim Il Sung, rồi đến Herbert ủ rũ sau khi chui ra khỏi các thứ trong chiếc tủ đựng đồ lau dọn.

Thân thế của Allan được khẳng định rõ ràng khi cậu đầu bếp 20 tuổi của Mao được gọi vào phòng. Allan và An Minh ôm chầm lấy nhau một lúc lâu, cho đến khi Mao ra lệnh An Minh quay vào bếp làm một ít mì ăn đêm.

Mao Trạch Đông biết ơn Allan vô hạn vì đã cứu mạng Giang Thanh. Ông giải thích rằng ông sẵn sàng giúp Allan và bạn đồng hành bất cứ điều gì họ muốn, và không có giới hạn. Kể cả ở lại Trung Quốc, nơi Mao Trạch Đông đảm bảo rằng Allan và bạn sẽ sống một đời thoải mái và được trọng vọng.

Nhưng Allan trả lời rằng đến giờ, xin ông Mao lượng thứ cho, mình đã nếm trải quá đủ với chủ nghĩa cộng sản, và mong muốn được thư giãn ở chỗ nào đó, nơi ông có thể làm một ly rượu mạnh mà không phải nghe kèm một bài giảng chính trị.

Mao đáp thực ra mình có thể tha thứ cho ông Karlsson về chuyện đó, nhưng Karlsson chớ nên hy vọng quá nhiều về việc tránh né nó trong tương lai, vì chủ nghĩa cộng sản đang thành công ở khắp mọi nơi và chẳng bao lâu sẽ chinh phục toàn bộ thế giới.

Đáp lại, Allan hỏi liệu có ai trong các quý ông ở đây có thể chỉ cho mình nơi nào họ nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ mất thời gian lâu nhất để thâm nhập, tốt nhất là nơi ấy lại có nắng trời, bãi biển cát trắng,và có thể uống cái gì đó khác hơn là rượu chuối xanh kiểu Indonesia.

– Tôi thực sự nghĩ mình cần được đi nghỉ, Allan nói. Vì tôi chưa bao giờ được nghỉ cả.

Mao Trạch Đông, Kim Il Sung và Tư lệnh Meretskov bắt đầu bàn bạc với nhau. Đảo Caribê như Cuba là một khả năng, họ kết luận rằng khó có thể tưởng tượng một nơi nào đó tư bản hơn. Allan cảm ơn họ về lời khuyên, nhưng nói rằng vùng Caribê xa đây khủng khiếp, thêm nữa, ông nhận ra mình chẳng có tiền, cũng không hộ chiếu, vì thế, ông phải hạ thấp tham vọng phần nào.

Tiền và hộ chiếu, ông Karlsson không phải lo. Mao Trạch Đông hứa sẽ cung cấp cho Allan và bạn giấy tờ giả để họ có thể đi bất cứ nơi nào họ muốn. Ông cũng sẽ tặng họ một đống đô la, mà ông đang thừa thãi – đó là tiền mà Tổng thống Truman ở Mỹ đã gửi đến Quốc Dân Đảng và Quốc dân đảng đã bỏ quên trong lúc vội vã bay đi Đài Loan. Tuy nhiên, vùng Caribê quả là ở đầu kia của quả đất, do đó, cũng nên nghĩ đến các giải pháp khác.

Trong lúc ba ông trùm cộng sản tiếp tục bàn bạc xem nên cho người dị ứng với hệ tư tưởng của họ đi nghỉ ở đâu thì Allan thầm cám ơn Harry Truman vì số tiền.

Philippines nổi lên như một gợi ý, nhưng nó lại bị chê là mất ổn định về chính trị. Cuối cùng, Mao Trạch Đông đề nghị là Bali. Tất nhiên Allan đã phàn nàn về rượu chuối Indonesia và khiến Mao nghĩ đến Indonesia. Nơi đấy không thuộc cộng sản, mặc dù cộng sản vẫn lấp ló trong bụi, như ở khắp mọi nơi, trừ Cuba. Mà tại Bali có nhiều thứ khác chứ không chỉ mỗi rượu chuối, Chủ tịch Mao đã chắc chắn thế.

– OK, thế thì là Bali, Allan nói. Anh cùng đi chứ, Herbert?

Herbert Einstein đã dần dần quen với thực tế rằng mình sẽ sống lâu hơn một chút, và ông gật đầu chán nản với Allan. Phải, ông sẽ đi theo, chứ còn làm gì khác được nữa?

Bình luận