1947-1948
Allan đã trải qua những đêm chẳng dễ chịu gì khi nằm úp sấp trên thùng xe tải trên đường tới Teheran. Trời thì lạnh quá mà chẳng có sữa dê đặc biệt để sưởi ấm. Thêm nữa, hai tay ông còn bị trói sau lưng.
Cũng dễ hiểu vì sao Allan mừng khi cuộc hành trình kết thúc. Đó là vào cuối buổi chiều khi chiếc xe tải dừng lại trước cổng chính một tòa nhà lớn màu nâu ở giữa thủ đô.
Hai anh lính vực kẻ lạ mặt đứng dậy và phủi bớt bụi bẩn. Sau đó, họ nới lỏng dây trói tay Allan và quay lại canh gác ông với khẩu súng trường.
Nếu Allan biết tiếng Ba Tư, ông đã có thể đọc tấm biển hiệu nhỏ màu vàng vàng bên cạnh lối vào, nơi mình dừng lại. Nhưng ông không đọc được. Mà cũng chẳng quan tâm. Với ông, điều quan trọng là liệu họ có cho mình ăn sáng. Hay ăn trưa. Hoặc tốt hơn là cả hai.
Nhưng, tất nhiên, những người lính biết họ phải đưa tên cộng sản tình nghi đi đâu. Và khi họ đẩy Allan qua các cửa, một trong những người lính nói lời tạm biệt với Allan bằng một nụ cười và câu chúc bằng tiếng Anh:
Chúc may mắn!
Allan đáp cảm ơn bạn rất nhiều vì những lời chúc tốt đẹp, dù ông nhận thấy nó có vẻ mỉa mai, rồi ông nghĩ tốt nhất là mình nên quan tâm xem điều gì sắp xảy ra. đó, viên sĩ quan trong nhóm bắt giữ Allan chính thức bàn giao tù nhân của mình cho một người cấp bậc tương đương. Đăng ký xong, Allan được chuyển tới một phòng tạm giam ngay phía dưới hành lang gần nhất.
Căn phòng tạm giam là một thiên đường so với những gì gần đây Allan đã quen chịu đựng.
Bốn cái giường xếp thành dãy, mỗi giường đều có chăn dầy, đèn điện trên trần nhà, bồn rửa mặt với vòi nước trong một góc và góc kia là cái bô cho người lớn có nắp đậy. Thêm nữa, Allan có thể mang vào phòng giam một bát cháo to và cả lít nước để thỏa mãn cơn đói khát của mình.
Ba cái giường còn trống, nhưng cái thứ tư có một người đàn ông đang nằm ngửa, mắt nhắm, hai tay khoanh lại. Khi Allan được đưa vào phòng, người đàn ông tỉnh giấc ngủ và ngồi dậy. Ông ta cao, gầy, cổ áo kiểu mục sư màu trắng tương phản với trang phục toàn màu đen. Allan chìa tay ra tự giới thiệu và nói rằng tiếc là ông không biết ngôn ngữ địa phương, nhưng liệu giáo sĩ có biết một vài từ tiếng Anh?
Người đàn ông mặc đồ đen đáp là có, vì ông ta sinh ra và lớn lên ở Oxford, và cũng có giáo dục. Người đàn ông mặc đồ đen tự giới thiệu mình là Kevin Ferguson, một mục sư Anh giáo, đã có mặt tại Iran mười hai năm tìm kiếm những kẻ mất linh hồn để phục hồi đức tin chân chính cho họ. Thế ông Karlsson đang đứng về phía tôn giáo nào?
Allan trả lời, xét về khía cạnh hoàn toàn vật lý thì ông không kiểm soát được chỗ mình đang ở, nhưng điều đó không có nghĩa là ông bị mất linh hồn. Allan luôn có lập luận hợp lý về tôn giáo là nếu không biết chắc chắn thì đừng mất công suy đoán vòng vo.
Allan thấy mục sư Ferguson có hơi cố gắng nên nhanh chóng nói thêm rằng mục sư cũng nên tôn trọng mong muốn chân thành của Allan là tránh theo Anh giáo hoặc bất kỳ tôn giáo nào khác.
Mục sư Ferguson không phải là người dễ đầu hàng. Tuy nhiên, lần này ông hơi do dự. Có lẽ không nên quá nôn nóng với người duy nhất – ngoài Chúa ra – có thể cứu ông khỏi tình thế hiện nay?
Ông quyết định thỏa hiệp. Mục sư Ferguson làm một cố gắng nửa vời sao cho vẫn có thể tưới một chút ánh sáng lời Chúa Ba Ngôi mà không làm tổn thương ông Karlsson. Tình cờ đó là điều đầu tiên trong 39 điều răn trong kinh tín Anh giáo. Allan trả lời là mục sư có lẽ chưa hiểu Allan chẳng quan tâm đến chúa ba ngôi thế nào.
– Trong tất cả hiệp hội trên Trái đất, tôi nghĩ ba ngôi là cái mình ít quan tâm nhất, Allan đáp.
Mục sư Ferguson thấy mình thật dại dột đã hứa để yên cho Karlsson về vấn đề tôn giáo, ‘dù Chúa hẳn phải có ý gì khi để chúng ta trong cùng một phòng giam’.
Ông đành gắng sức giải thích tình hình của mình và của Allan.
Nó có vẻ không ổn, mục sư Ferguson nói. Chúng ta có thể đang trên đường đến gặp Đấng Sáng tạo ra chúng ta, và nếu không phải vì tôi đã hứa thì tôi sẽ nói thêm rằng đây chính là lúc để ông Karlsson đón nhận đức tin chân thật.
Allan nghiêm khắc nhìn mục sư mà không nói gì. Thay vào đó, ông để mục sư tiếp tục nói rằng bây giờ cả hai đang trong phòng tạm giam của bộ phận tình báo và an ninh trong nước, nói cách khác là cảnh sát mật. Có lẽ ông Karlsson tưởng nó có vẻ an toàn và ổn, nhưng sự thật là cảnh sát mật chỉ quan tâm đến an ninh của nhà vua chứ không ai khác, mục đích của họ là thực sự khiến dân chúng Iran phải sợ hãi, tôn trọng, và hết sức săn lùng, tiêu diệt cộng sản, Hồi giáo và các thành phần gây rối nói chung.
Ví dụ như mục sư Anh giáo?
Mục sư Ferguson đáp các mục sư Anh giáo không có gì phải sợ hãi, bởi vì họ có tự do tôn giáo ở Iran. Nhưng mà riêng mục sư Anh giáo này có thể đã đi quá xa, ông tự nghĩ.
Số phận những ai rơi vào tay cảnh sát mật chẳng có gì hay, và về phần mình, tôi sợ rằng đây là ga cuối cùng rồi, mục sư Ferguson nói, đột nhiên trông rất buồn.
Allan lập tức thấy ái ngại cho người đồng chí mới của mình trong phòng tạm giam, dù ông ta là một mục sư. Thế là ông an ủi rằng họ có thể sẽ tìm ra cách thoát khỏi đó, nhưng cái gì cũng cần thời gian. Trước hết, ông muốn biết mục sư đã làm gì mà phải bị nhốt trong này.
Mục sư Kevin Ferguson sụt sịt và cố trấn tĩnh lại.
Ông giải thích mình chẳng sợ chết mà chỉ nghĩ rằng mình còn có quá nhiều việc để làm trên Trái đất này. Mục sư luôn luôn đặt mạng sống của mình trong tay Chúa, nhưng nếu Ông Karlsson, trong khi đang chờ đợi Chúa quyết định, có thể tìm thấy lối thoát cho bản thân và mục sư, thì ông chắc chắn rằng Chúa sẽ không phản đối.
Rồi vị mục sư bắt đầu câu chuyện của mình. Chúa đã nói chuyện với ông trong một giấc mơ khi mục sư vừa tốt nghiệp. ‘Con hãy bước ra thế giới để làm công việc truyền giáo’, Chúa nói, nhưng ngài không nói nhiều hơn, vì vậy mục sư phải nghĩ ra nơi mình nên đi.
Một ông bạn người Anh và giám mục đã khuyên ông đi Iran – đất nước mà quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm nặng nề. Ví dụ, có thể tính đến các tín hữu Anh giáo ở Iran, nhưng nơi này sôi lên với người Siite và Sunni, người Do Thái và đám dân thờ đủ các ngẫu vật. Nói rộng ra là nếu có tín hữu Kitô giáo thì họ lại là người Armenia hay Assyria, và ai cũng biết rằng người Armenia và Assyria hay làm mọi thứ rối tung lên.
Allan nói mình không biết điều đó nhưng giờ thì ông đã biết, cảm ơn mục sư về thông tin.
Vị mục sư tiếp tục câu chuyện của mình. Iran và Anh có quan hệ tốt với nhau và nhờ những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội giúp đỡ, mục sư đã được đi nhờ đến Teheran bằng máy bay của Bộ Ngoại giao Anh.
Điều này xảy ra khoảng mười năm trước, quãng năm 1935. Kể từ đó, ông đã len lỏi qua hết tôn giáo này đến tôn giáo khác, trong một vòng tròng ngày càng rộng lớn quanh thủ đô. Lúc đầu, ông tập trung vào các nghi lễ tôn giáo khác nhau. Ông lẻn vào nhà thờ Hồi giáo, các thánh đường và đền thờ đủ loại, chờ đến thời điểm thích hợp để cắt ngang buổi lễ và với sự giúp đỡ của một thông dịch viên, rao giảng đức tin chân thật.
Allan ca ngợi người đồng chí mới trong phòng tạm giam của mình và nói rằng mục sư thực sự là một người rất dũng cảm. Điều đáng bàn là khả năng tinh thần của mục sư, bởi vì nó chắc hiếm khi có kết cục tốt đẹp?
Mục sư Ferguson thừa nhận rằng trên thực tế, chưa một lần nào nó kết thúc tốt đẹp. Ông chưa bao giờ nói được đầy đủ ý mình. Ông và người phiên dịch đã bị ném ra ngoài và thường là cả hai còn bị đánh nữa.
Nhưng không gì ngăn cản được mục sư tiếp tục cuộc đấu tranh của mình. Ông biết rằng ông đã gieo hạt giống nhỏ bé của Anh giáo trong linh hồn tất cả những ai mình đã gặp.
Tuy nhiên, cuối cùng thì danh tiếng của mục sư đã lan truyền rộng rãi đến mức nó bắt đầu trở nên khó khăn để tìm được một phiên dịch chịu hợp tác. Đến nay, không có phiên dịch nào chịu làm cho ông quá một lần, và sau một thời gian, rõ ràng là họ bắt đầu kể với nhau.
Vì vậy, mục sư đã tạm nghỉ và cố gắng hơn để nghiên cứu tiếng Ba Tư. Đồng thời, ông tìm cách trau chuốt các chiến thuật của mình và đến một ngày thấy tự tin về ngôn ngữ, ông đã bắt tay vào kế hoạch mới.
Thay vì đi đến đền thờ và các cuộc lễ, ông ra chợ, nơi ông biết rằng vờ rao giảng ở đây cũng thu được rất nhiều đệ tử trong số những người đến, thế rồi ông đứng trên một cái bục gỗ mình mang theo và kêu gọi sự chú ý của mọi người.
Phương pháp hoạt động này chắc chắn không dẫn đến kết quả bị ăn đòn nhiều như trong những năm đầu tiên, thế nhưng số lượng linh hồn được cứu vớt vẫn không hề như mong đợi.
Allan hỏi thực tế có bao nhiêu người cải đạo theo mục sư Ferguson và được trả lời rằng điều đó phụ thuộc vào cách bạn nhìn nó. Một mặt, mục sư Ferguson đã có chính xác là một người cải đạo trong mỗi tôn giáo mà ông đã từng làm việc – tất cả lên đến tám. Mặt khác, vài tháng trước, ông mới nhận ra rằng cả tám người trong thực tế, có thể là gián điệp do cảnh sát mật gửi đến để theo dõi mục sư truyền giáo.
Thế là giữa 0 và 8, Allan bảo.
Có lẽ là gần với 0 hơn 8, mục sư Ferguson đáp.
Trong mười hai năm, Allan nói.
Mục sư thừa nhận rằng ông thấy chán nản khi hiểu rằng kết quả vốn đã ít ỏi của mình hóa ra còn ít ỏi hơn. Và ông hiểu rằng với cùng một phương pháp làm việc, ông sẽ không bao giờ thành công ở đất nước này, bởi vì dù có bao nhiêu người Iran muốn cải đạo, họ sẽ không dám. Cảnh sát bí mật ở khắp mọi nơi và cải đạo chắc chắn sẽ có nghĩa là sẽ bị ghi tên vào sổ đen trong kho lưu trữ hồ sơ. Và từ chỗ có tên trong sổ đen đến chỗ bị thủ tiêu không dấu vết thường không xa nhau lắm.
Allan nói rằng thêm vào đó, có thể có trường hợp một hai người Iran – hoàn toàn chẳng quan tâm đến mục sư Ferguson hay cảnh sát mật – hài lòng với tôn giáo họ đang theo, mục sư có nghĩ vậy không?
Mục sư trả lời rằng ông hiếm khi nghe chuyện ngớ ngẩn như vậy, nhưng ông bị ngăn cản đưa ra câu trả lời thích hợp bởi vì ông Karlsson đã cấm mọi rao giảng Anh giáo. Liệu ông Karlsson có định nghe phần còn lại câu chuyện của mục sư mà đừng ngắt lời nhiều hơn cần thiết không?
Mục sư Ferguson tiếp tục kể, với những hiểu biết mới thu thập về chuyện cảnh sát mật thâm nhập vào công việc truyền giáo của mình, ông bắt đầu suy nghĩ theo những cách mới, ở tầm vĩ mô như thế nào.
Vì vậy, mục sư đuổi 8 tên đệ tử gián điệp, rồi liên hệ với phong trào cộng sản ngầm để gặp. Ông nói với họ rằng ông là một đại diện người Anh cho Đức Tin Chân Chính và ông muốn gặp họ để thảo luận về tương lai.
Mất nhiều thời gian để sắp xếp cuộc gặp, nhưng cuối cùng ông thấy mình ngồi với năm người trong nhóm lãnh đạo cộng sản ở tỉnh Razavikhorasan. Giá mà ông được gặp những người cộng sản Teheran thì thích hơn, vì mục sư Ferguson nghĩ rằng họ mới có quyền quyết định mọi thứ, nhưng cuộc gặp này cũng tốt cho những người mới bắt đầu.
Hoặc là không.
Mục sư Ferguson đã trình bày ý tưởng của mình với những người cộng sản, ý tưởng (tóm tắt) là Anh giáo sẽ trở thành tôn giáo của nhà nước Iran ngày cộng sản thắng lợi. Nếu những người cộng sản đồng ý điều này, mục sư Ferguson hứa sẽ nhận chức bộ trưởng tôn giáo của nhà nước và đảm bảo rằng ngay từ ngày đầu sẽ có đủ sách kinh. Các nhà thờ có thể được xây dựng sau đó, nhưng để bắt đầu thì các thánh đường và nhà thờ Hồi giáo đóng cửa có thể được sử dụng cho mục đích này. Các vị cộng sản nghĩ rằng nó sẽ mất bao lâu để cách mạng cộng sản thành công?
Những người cộng sản đã không phản ứng nhiệt tình lắm, hoặc thậm chí tò mò, mục sư Ferguson thầm nghĩ. Thay vào đó, mục sư Ferguson được thông báo rất rõ ràng rằng sẽ không có bất kỳ Anh giáo hay bất kỳ tôn giáo nào khác ngoài chủ nghĩa cộng sản khi ngày thắng lợi đến. Hơn nữa, ông còn bị lớn tiếng mắng nhiếc vì đã yêu cầu cuộc gặp này dưới chiêu bài lừa đảo. Những người cộng sản chưa bao giờ bị phí thời gian khủng khiếp như thế. Với một cuộc bỏ phiếu 3 trên 2, quyết định đưa ra là mục sư Ferguson sẽ bị đánh cho một trận nên thân trước khi tống lên tàu trở về Teheran, và một cuộc bỏ phiếu 5-0 ra quyết định rằng nó sẽ bất lợi cho sức khỏe của mục sư nếu ông cứ cố tình trở lại.
Allan mỉm cười nói rằng nếu mục sư cho phép, dù sao, ông cũng không muốn loại trừ khả năng rằng mục sư bị điên toàn tập. Cố gắng để thỏa thuận tôn giáo với những người cộng sản tất nhiên là vô vọng, chẳng lẽ mục sư không hiểu điều đó?
Vị mục sư trả lời rằng ngoại đạo như ông Karlsson tốt nhất là đừng đánh giá cái gì là khôn ngoan hay không. Nhưng tất nhiên, mục sư đã hiểu rằng có rất ít cơ hội thành công.
Nhưng cứ nghĩ xem, ông Karlsson, nếu nó đã thành công. Cứ nghĩ rằng có thể gửi một điện tín cho Tổng Giám Mục Canterbury và báo cáo cùng một lúc có thêm năm mươi triệu tín hữu Anh giáo.
Allan thừa nhận rằng sự khác biệt giữa điên rồ và thiên tài là rất tinh tế, và trong trường hợp này ông không thể chắc chắn nó là loại nào, nhưng ông có những nghi ngờ của mình.
Cái gì xảy đến sẽ đến, hóa ra đám cảnh sát mật đáng nguyền của nhà vua đã nghe trộm những người cộng sản Razavikhorasan, và mục sư Ferguson bị tóm ngay sau khi bước ra khỏi xe lửa ở thủ đô, và bị lôi đi thẩm vấn.
Và ngay lập tức tôi thừa nhận tất cả mọi thứ, còn khai thêm một chút nữa, mục sư Ferguson cho biết, bởi vì cơ thể gày gò của tôi không được tạo ra để chịu tra tấn. Bị đánh đau là một chuyện, nhưng tra tấn là chuyện khác.
Với lời thú nhận ngay lập tức và phóng đại, mục sư Ferguson đã bị đưa đến phòng tạm giam này, và ông đã bị bỏ mặc ở đây suốt hai tuần không ai đụng đến vì sếp, Phó Thủ tướng, đang đi công cán ở London.
Phó Thủ tướng ư? Allan thắc mắc.
Phải, hay là sếp của những kẻ giết người, ông Kevin Ferguson đáp.
Người ta nói cảnh sát mật là một tổ chức được kiểm soát từ trên mà người ta không thể tưởng tượng được. Thường xuyên gieo rắc sợ hãi trong lòng dân, hoặc giết chết người theo cộng sản, chủ nghĩa xã hội, Hồi giáo cực đoan, mà tất nhiên là không cần sự cho phép của ông chủ tối cao. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra chỉ hơi khác thường một chút thì ngay lập tức ông ta là người quyết định. Nhà vua đã cho ông ta danh hiệu phó thủ tướng, nhưng trên thực tế, ông ta là một kẻ giết người, theo ý kiến của mục sư Ferguson.
Và theo các lính canh tù, người ta nên quên từ ‘phó’ khi nhắc đến danh hiệu của ông ta, nếu mọi thứ tồi tệ đến mức cần phải gặp ông ta, giống như trường hợp của ông và của tôi vậy.
Có lẽ vị mục sư đã dành nhiều thời gian với nhóm cộng sản chìm lâu hơn là ông dám thừa nhận, Allan nghĩ, vì mục sư Ferguson tiếp tục:
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, CIA Mỹ đã tới đây và dựng lên cảnh sát mật của nhà vua.
CIA? Allan hỏi.
Vâng, bây giờ họ được gọi như thế. Trước đây họ là “OSS”, nhưng vẫn là một công việc bẩn thỉu. Họ là những người đã dạy cho cảnh sát Iran tất cả các thủ đoạn và các kiểu tra tấn. Hắn có thể là cái giống gì, người đã cho phép CIA hủy diệt thế giới theo cách ấy?
Ông định nói đến tổng thống Mỹ à?
Harry S Truman sẽ bị thiêu trong địa ngục, tin tôi đi, mục sư Ferguson đáp.
Ồ, thế à, ông nghĩ vậy à? Allan nói.
**
Nhiều ngày trôi qua trong phòng tạm giam tại trụ sở chính của cảnh sát mật ở trung tâm Teheran. Allan đã kể chuyện đời mình với mục sư Ferguson mà không giấu diếm bất cứ điều gì. Mục sư đã trở nên im lặng, ngừng nói chuyện với Allan sau khi nhận ra bạn tù của mình có quan hệ thế nào với tổng thống Mỹ và – thậm chí còn tồi tệ hơn – với những quả bom dội lên khắp Nhật Bản.
Thay vào đó, mục sư quay về với Chúa và cầu nguyện để được tư vấn. Chúa đã gửi ông Karlsson để giúp ông, hay ngược lại, đó là sự xúi giục của quỷ dữ?
Nhưng Chúa trả lời bằng im lặng. Thỉnh thoảng Người vẫn làm như vậy, và mục sư Ferguson luôn hiểu thế có nghĩa là ông nên tự suy nghĩ. Phải thừa nhận rằng, nó không phải lúc nào cũng được việc khi mục sư phải tự nghĩ, nhưng không thể chịu thua chỉ vì lý do đó.
Sau hai ngày hai đêm cân nhắc giữa bạn hay thù, mục sư Ferguson đã kết luận rằng trong thời gian này, ông nên hòa hoãn với kẻ ngoại đạo ở giường bên cạnh. Và ông thông báo với Allan rằng ông có ý định nói chuyện lại với ông Karlsson. Allan đáp dù nó khá dễ chịu và yên tĩnh khi mục sư giữ im lặng, có lẽ về lâu dài thì có kẻ tung người hứng cũng hay hơn.
Ngoài ra, chắc chắn chúng ta sẽ cố gắng thoát khỏi đây bằng cách nào đó, và có lẽ tốt nhất là ta có thể làm được trước khi ông trùm sát nhân trở về từ London. Chẳng có gì hay nếu mỗi người ngồi cau có một góc, theo cách đó chúng ta sẽ chẳng đi tới đâu, phải không ông mục sư?
Thật vậy, mục sư Ferguson cũng đồng ý. Khi ông trùm sát nhân trở lại thì cái chờ đón họ chỉ có thể là một cuộc thẩm vấn ngắn ngủi rồi sau đó đơn giản là thủ tiêu. Đó là những gì xảy ra mà mục sư Ferguson nghe được.
Phòng tạm giam tất nhiên không phải là một nhà tù thực sự với ổ khóa đôi ở khắp mọi nơi. Ngược lại, các lính canh đôi khi thậm chí không buồn khóa cửa. Nhưng không bao giờ có ít hơn bốn lính gác tại lối ra vào của tòa nhà, và sẽ không ai chịu đứng yên, giương mắt nhìn nếu Allan và mục sư định trốn ra.
Liệu có thể tạo ra cái gì đó hỗn loạn được không nhỉ? Allan tự hỏi. Và sau đó lẻn ra ngoài lúc lộn xộn? Việc này cũng đáng suy nghĩ đây.
Allan muốn được yên tĩnh làm việc, vì vậy ông giao cho mục sư nhiệm vụ tìm hiểu từ tụi lính gác xem họ có thời gian bao lâu.
Nghĩa là chính xác khi nào thì tên trùm sát nhân sẽ trở lại. Khi mọi thứ sẽ là quá muộn?
Mục sư hứa sẽ hỏi ngay khi mình có cơ hội. Thậm chí có thể ngay lập tức, bởi vì có tiếng lạch cạnh ngoài cửa. Người lính gác trẻ nhất và tốt bụng nhất của trung tâm tạm giam ló đầu vào với một cái nhìn cảm thông, cho biết:
Thủ tướng đã trở lại từ nước Anh và đã đến lúc thẩm vấn. Ông nào muốn bắt đầu?
**
Người đứng đầu bộ phận tình báo và an ninh quốc gia ngồi tại văn phòng mình ở Teheran trong tâm trạng khủng khiếp.
Ông đã đến London và bị người Anh mắng nhiếc. Ông, thủ tướng (gần như là thế), người đứng đầu một bộ phận chính phủ, một trong những nhân tố quan trọng nhất của xã hội Iran, lại bị bọn Anh mắng nhiếc!
Nhà vua đã không làm gì khác ngoài việc đảm bảo rằng bọn Anh kiêu ngạo kia được vui lòng. Dầu lửa trong tay của người Anh, và chính ông phải đảm bảo trừ khử bất cứ kẻ nào cố gắng thiết lập trật tự khác ở đất nước này. Và đó là không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì ai là người thực sự hài lòng với nhà vua? Không phải dân Hồi giáo, không phải những người cộng sản và chắc chắn không phải là các công nhân dầu mỏ địa phương đang làm rạc xương để nhận chừng một bảng Anh một tuần.
Thế mà bây giờ ông còn bị mắng nhiếc thay vì khen ngợi!
Ông trùm mật vụ biết mình đã mắc sai lầm khi trước đây đã hơi nặng tay với một kẻ quá khích không rõ nguồn gốc mà họ đã tóm được. Kẻ quá khích đã không chịu nói bất cứ điều gì khác ngoài yêu cầu phải được thả ngay, vì tội duy nhất mà ông đã phạm chỉ là đòi hỏi ai cũng phải xếp hàng ở cửa hàng bán thịt, kể cả nhân viên cảnh sát bí mật của nhà nước.
Khi kẻ quá khích trình bày trường hợp của mình, hắn khoanh tay và trả lời tất cả các câu hỏi “ông là ai” bằng sự im lặng. Cảnh sát trưởng không thích cái nhìn của kẻ quá khích (nó thực sự khiêu khích), do đó, ông chọn ra một vài phương pháp tra tấn của CIA (cảnh sát trưởng ngưỡng mộ các sáng tạo của người Mỹ). Đến tận lúc đó mới té ra kẻ quá khích là một trợ lý tại Đại sứ quán Anh, xui xẻo quá.
Giải pháp là cố gắng hết sức chỉnh đốn lại cho tay trợ lý trông ổn nhất, rồi thả hắn đi, nhưng rồi ngay lập tức hắn sẽ bị một chiếc xe tải tông và sau đó biến mất khỏi hiện trường. Đó là cách để tránh các cuộc khủng hoảng ngoại giao, cảnh sát trưởng lý luận, và hài lòng với chính mình.
Tuy nhiên, người Anh nhặt những gì còn lại của tay trợ lý, gửi tất cả các mảnh sang London, nơi họ dùng kính lúp kiểm tra lại. Sau đó cảnh sát trưởng đã được triệu tập đến đó và yêu cầu phải giải thích làm thế nào trợ lý của đại sứ quán tại Teheran thoạt tiên mất tích trong ba ngày rồi đột nhiên xuất hiện trên đường phố bên ngoài trụ sở chính của cảnh sát mật, nơi anh ta bị cán nát đến mức khó có thể phát hiện ra sự tra tấn mà anh ta đã chịu trước đó.
Tất nhiên cảnh sát trưởng đã kiên quyết phủ nhận không biết gì về vụ việc, trò ngoại giao là như thế, nhưng tay trợ lý này hóa ra là con trai của một ông lớn nào đó, bạn thân của Winston Churchill, thủ tướng vừa từ chức, và bây giờ là người Anh sẽ làm đến cùng.
Vì vậy, bộ phận tình báo và an ninh quốc gia đã bị miễn nhiệm trong chuyến viếng thăm vài tuần của chính ngài Churchill đến Teheran. Thay vào đó, đám vệ sĩ riêng nghiệp dư của nhà vua sẽ lo cho chuyến thăm này. Tất nhiên điều đó vượt quá khả năng của họ. Đây là một mất mát lớn về uy tín đối với cảnh sát trưởng. Và nó làm ông bị xa cách với nhà vua theo kiểu không hay ho gì.
Để quên đi những suy nghĩ cay đắng của mình, cảnh sát trưởng đã triệu tập tên đầu tiên trong số hai kẻ thù của xã hội nghe nói đang chờ đợi ở phòng tạm giam.
Ông tính sẽ thẩm vấn ngắn thôi, thủ tiêu nhanh chóng, kín đáo và hỏa táng tử thi theo truyền thống. Rồi ăn trưa, và vào buổi chiều, ông có thể còn thời gian cho cả tên kia nữa.
**
Allan Karlsson tình nguyện đi trước. Cảnh sát trưởng gặp ông ở cửa văn phòng của mình, bắt tay, mời ông Karlsson ngồi xuống, hỏi ông có muốn một tách cà phê và có lẽ một điếu thuốc nữa chăng?
Allan nghĩ, mặc dù trước đây chưa bao giờ gặp trùm sát nhân nào nhưng quả thật ông hình dung trùm sát nhân thì phải khó chịu hơn thế này nhiều. Rồi ông cảm ơn vì ly cà phê mà không cần thuốc lá nếu ngài Thủ tướng đồng ý?
Cảnh sát trưởng có thói quen luôn bắt đầu cuộc thẩm vấn của mình một cách văn minh. Chỉ vì sắp giết một ai đó thì không nhất thiết phải cư xử như một kẻ thô lỗ. Bên cạnh đó, cảnh sát trưởng thích nhìn hy vọng dâng lên trong mắt nạn nhân của mình. Con người nói chung rất ngây thơ.
Riêng tên nạn nhân này trông không có vẻ sợ hãi, chưa thôi. Và hắn đã gọi cảnh sát trưởng theo cách mà ông thích được gọi. Một khởi đầu tốt và thú vị.
Trong cuộc thẩm vấn “ông là ai”, Allan – thiếu một chiến lược được cân nhắc cẩn thận để tồn tại – cung cấp có chọn lọc một vài đoạn cuối trong câu chuyện đời mình:
cụ thể, ông là một chuyên gia chất nổ được Tổng thống Harry S Truman cử sang Trung Quốc làm một nhiệm vụ bất khả thi là chống lại cộng sản, thế rồi ông bắt đầu đi bộ về tận quê nhà ở Thụy Điển và lấy làm tiếc rằng Iran nằm trên đường đi đó, rồi Allan buộc phải nhập cảnh vào nước này mà không có thị thực cần thiết, nhưng bây giờ ông hứa sẽ ngay lập tức rời khỏi nước này nếu ngài Thủ tướng cho phép.
Cảnh sát trưởng hỏi Allan rất nhiều câu hỏi bổ sung, cả về vụ Allan Karlsson có dính líu đến cộng sản Iran khi ông bị bắt. Allan thành thật trả lời rằng ông và mấy người cộng sản đó đã tình cờ gặp gỡ và nhanh chóng thỏa thuận giúp đỡ nhau qua dãy Hy Mã Lạp Sơn.
Rồi Allan nói thêm, nếu ngài Thủ tướng định đi bộ một chuyến như thế thì đừng có quá kén chọn người giúp đỡ vì có lên mới biết những ngọn núi đó cao khủng khiếp.
Cảnh sát trưởng không hề có ý định đi bộ qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, mà cũng chẳng định thả người trước mặt mình. Nhưng có lẽ ông có thể dùng tay chuyên gia chất nổ có nhiều kinh nghiệm quốc tế này vào việc gì đó trước khi thủ tiêu hắn cho êm chuyện? Bằng một giọng nghe có vẻ rất quan tâm, cảnh sát trưởng hỏi lai lịch ông Karlsson là thế nào, liên quan đến việc bí mật ám sát những nhân vật nổi tiếng và được canh phòng cẩn mật.
Tất nhiên Allan chưa bao giờ làm chuyện nào kiểu như ngồi ngẫm nghĩ lập kế hoạch giết người như làm với cây cầu. Và ông cũng không muốn làm thế. Nhưng bây giờ ông phải nghĩ xa hơn. Có thể tay trùm sát nhân ngồi đối diện, đang rít thuốc liên tục kia có ý gì đặc biệt trong đầu chăng?
Allan nghĩ vài giây, lục lọi bộ nhớ của mình và trong lúc vội vàng chẳng kiếm ra cái gì hay hơn:
Glenn Miller.
Glenn Miller? cảnh sát trưởng lặp lại.
Allan nhớ hồi ở căn cứ Los Alamos tại New Mexico vài năm trước, mọi người đã sốc như thế nào lúc nghe tin ngôi sao nhạc jazz trẻ tuổi Glenn Miller đã mất tích sau khi chiếc máy bay quân sự Mỹ chở anh ta biến mất ngoài khơi bờ biển nước Anh.
Chính thế, Allan xác nhận với vẻ bí hiểm. Yêu cầu là nó giống như một tai nạn và tôi đã thành công. Tôi đã đảm bao sao cho cả hai động cơ bị cháy, và anh ta bị rơi một nơi nào đó giữa eo biển Anh. Không ai nhìn thấy anh ta kể từ đó. Một số phận thích hợp cho kẻ đào tẩu về phe quốc xã nếu ngài hỏi tôi, thưa Bộ trưởng.
Glenn Miller là một tên quốc xã ư? cảnh sát trưởng kinh ngạc.
Allan gật đầu xác nhận (và âm thầm xin lỗi tất cả thân nhân còn sống của Glenn Miller). Cảnh sát trưởng, về phần mình, cố gắng tiêu hóa cái tin người hùng nhạc jazz vĩ đại của mình lại là tay sai của Hitler.
Allan nghĩ tốt nhất mình nên chủ động nói trước khi ông trùm sát nhân bắt đầu hỏi một đống câu hỏi khác về những gì đã xảy ra với Glenn Miller.
Nếu ngài Thủ tướng muốn, tôi sẵn sàng khử bất cứ ai, tất nhiên với sự thận trọng tối đa, đổi lại thì sau đó chúng ta chia tay nhau như bạn bè.
Cảnh sát trưởng vẫn còn choáng váng sau phát hiện không vui về giọng ca của Moonlight Serenade, nhưng đấy không phải là lý do để xử hắn theo cách cũ. Và chắc chắn không có chuyện ông sẽ chịu đàm phán về tương lai của Allan Karlsson.
Nếu tôi muốn thì ông sẽ khử ai đó, đổi lại, tôi sẽ xem xét khả năng tha mạng cho ông, cảnh sát trưởng vừa nói vừa nghiêng người qua bàn để dập tắt điếu thuốc trong cốc cà phê còn đầy một nửa của Allan.
Vâng, ý tôi đúng là thế, tất nhiên, Allan đáp, dù tôi diễn tả hơi mơ hồ một chút.
**
Buổi thẩm vấn đặc biệt sáng nay đã kết thúc khác với thói quen của cảnh sát trưởng. Thay vì trừ khử tên (xem như là) kẻ thù của xã hội, ông đã hoãn cuộc họp để mình tĩnh tâm làm quen với tình hình mới. Sau bữa trưa, cảnh sát trưởng và Allan Karlsson gặp nhau một lần nữa và các kế hoạch đã được vạch ra.
Đấy là việc ám sát Winston Churchill trong khi ông ta được vệ sĩ riêng của nhà vua bảo vệ. Nhưng nó phải xảy ra theo cách mà không ai có thể tìm thấy bất kỳ liên quan gì tới bộ phận an ninh tình báo trong nước, chứ đừng nói tới ngài bộ trưởng. Vì chắc chắn là người Anh sẽ cực kỳ chú ý điều tra sự kiện này đến từng chi tiết, cho nên không được có bất kỳ sơ sẩy ở bất cứ điểm nào. Nếu kế hoạch thành công, kết quả kiểu gì cũng là lợi thế của cảnh sát trưởng.
Trước hết, nó sẽ khóa mồm bọn người Anh kiêu ngạo lại, những kẻ đã tước quyền sắp đặt an ninh của cảnh sát trưởng trong chuyến thăm này. Hơn nữa, cảnh sát trưởng chắc chắn sẽ được tín nhiệm giao phó tìm kiếm vệ sĩ sau cú thất bại này. Và khi khói tan, vị trí của cảnh sát trưởng sẽ được củng cố, thay vì đang suy yếu như hiện này.
Cảnh sát trưởng và Allan ngồi lắp ghép các mảnh của câu đố lại với nhau cứ như thể hai người bạn tốt nhất. Tuy nhiên, cảnh sát trưởng thỉnh thoảng lại dập điếu thuốc của mình trong tách cà phê của Allan mỗi khi cảm thấy bầu không khí trở nên quá thân mật.
Cảnh sát trưởng dần dần cung cấp các thông tin là chiếc xe chống đạn duy nhất của Iran đang trong garage của Bộ, ngay ở hầm dưới chân họ. Đó là một chiếc DeSoto Suburban được chế tạo đặc biệt. Màu vang đỏ và rất phong cách, cảnh sát trưởng nói. Khả năng lớn nhất là lực lượng vệ sĩ của nhà vua sắp yêu cầu lấy xe, vì nếu không thì làm sao họ có thể đưa Churchill từ sân bay đến cung điện của nhà vua?
Allan nói rằng một lượng thuốc nổ hợp lý cài ở gầm xe có thể là giải pháp cho vấn đề này. Tuy nhiên, lưu ý đến vấn đề của ngài Thủ tướng là không được để lại bất kỳ dấu vết nào có thể dẫn trở lại chỗ ngài, Allan đề xuất hai biện pháp đặc biệt.
Một là thuốc nổ đã nạp phải bao gồm chính xác các thành phần mà những người cộng sản của Mao Trạch Đông đã sử dụng ở Trung Quốc. Allan tình cờ có kiến thức đầy đủ về điều đó và ông chắc chắn mình có thể làm cho nó trông giống như một cuộc tấn công của cộng sản.
Bài toán kia là lượng thuốc nổ đó phải được gài và giấu trong phần trước của gầm chiếc DeSoto, nhưng nó, với các thiết bị điều khiển từ xa mà Allan cũng biết chế tạo, không nên kích nổ trực tiếp, mà phải rơi xuống để rồi phát nổ trong một vài phần mười của một giây khi nó chạm đất.
Trong thời gian đó, khối thuốc sẽ rơi đúng xuống dưới chiếc xe thứ ba đi sau, trong đó chắc chắn Winston Churchill đang ngồi hút xì gà. Cú nổ sẽ phá một lỗ ở sàn xe và gửi Churchill vào cõi vĩnh hằng, nhưng nó cũng để lại một miệng hố lớn trên mặt đất.
Bằng cách đó, chúng ta sẽ khiến mọi người nghĩ rằng thuốc nổ đã được chôn trên đường phố thay vì ai đó đã cài vào xe. Chút mẹo này chắc chắn sẽ phù hợp hoàn hảo với ngài Thủ tướng?
Cảnh sát trưởng cười khúc khích, phấn khởi và háo hức giụi luôn điếu thuốc vừa châm vào ly cà phê mới rót của Allan. Allan nói rằng ngài Thủ tướng tất nhiên đã làm theo ý ngài với điếu thuốc lá của mình và ly cà phê của Allan, nhưng nếu ngài Bộ trưởng không hài lòng lắm với cái gạt tàn ngay bên cạnh mình, và nếu Bộ trưởng có thể tạm cho Allan ra ngoài một lúc, thì Allan sẽ đến cửa hàng, mua một chiếc gạt tàn mới, đẹp cho ngài Bộ trưởng.
Trưởng cảnh sát lờ đi chuyện Allan nói về cái gạt tàn, thay vào đó ngay lập tức duyệt ý tưởng kia và bảo ông Karlsson cung cấp một danh sách đầy đủ những thứ cần thiết để có thể chuẩn bị cái xe trong thời gian ngắn nhất.
Allan biết chính xác và ghi ra tên của chín thành phần trong công thức. Ngoài ra, ông thêm cái thứ 10 – nitro-glycerine – mà ông nghĩ có thể sử dụng tốt. Và 11 – một lọ mực. Ngoài ra, Allan đề nghị mượn một đồng nghiệp đáng tin cậy nhất của ngài Thủ tướng làm trợ lý và lo chuyện mua bán, và nếu Thủ tướng cho phép bạn tạm giam của Allan, mục sư Ferguson, làm phiên dịch cho ông.
Cảnh sát trưởng lầm bầm rằng điều ông thích làm nhất với mục sư là khử ngay lập tức, bởi vì ông không thích bọn giáo sĩ, nhưng đây là trường hợp đặc biệt, vấn đề là không được mất thời gian. Vừa nói ông vừa giụi điếu thuốc vào cốc cà phê của Allan lần nữa, ra dấu là cuộc họp đã kết thúc và nhắc lại cho Allan ai là người quyết định.
**
Mấy ngày trôi qua, và tất cả mọi thứ theo đúng kế hoạch. Người đứng đầu nhóm vệ sĩ quả nhiên đã liên lạc và thông báo rằng ông ta sẽ đến lấy chiếc DeSoto vào thứ tư sau. Cảnh sát trưởng sôi lên giận dữ. Sếp của nhóm vệ sĩ đã thông báo rằng sẽ đến lấy xe chứ không thèm hỏi mượn. Cảnh sát trưởng giận đến nỗi trong một lúc, ông quên rằng thực ra thế là hoàn hảo. Thử nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra nếu tay vệ sĩ không liên hệ với Bộ để lấy xe? Và sếp của bọn vệ sĩ đằng nào cũng bị trừng phạt nhanh thôi.
Giờ thì Allan biết mình phải chuẩn bị thuốc nổ trong bao lâu.
Thật không may, mục sư Ferguson cuối cùng cũng biết những gì sắp xảy ra. Ông không chỉ phải đồng lõa trong vụ ám sát cựu Thủ tướng Churchill mà còn có lý do chính đáng để tin rằng mạng sống của mình sẽ bị kết liễu ngay sau đó. Đi gặp Chúa khi vừa giết người không phải là điều mục sư Ferguson mong mỏi.
Nhưng Allan trấn an mục sư bằng cách nói rằng thực ra ông có một kế hoạch để giải quyết cả hai vấn đề này. Đầu tiên, Allan nghĩ đó là một cơ hội tốt để ông và mục sư bỏ trốn, thứ hai là không nhất thiết phải lấy mạng của ông Churchill.
Tuy nhiên, toàn bộ kế hoạch đòi hỏi mục sư làm đúng theo lời Allan khi thời điểm đến, và mục sư hứa sẽ làm. Ông Karlsson là hy vọng sống sót duy nhất của mục sư Ferguson, vì Chúa vẫn không trả lời những lời cầu nguyện của ông. Như thế đã gần một tháng nay. Hay là Chúa giận mục sư vì có ý liên minh với cộng sản?
**
Rồi cũng đến thứ tư. Chiếc DeSoto đã được cài đặt sẵn sàng. Chỗ thuốc nổ dưới gầm của xe hóa ra hơi lớn hơn so với nhiệm vụ yêu cầu, nhưng nó được giấu kín đến nỗi dù ai xem xét cũng không thấy bất cứ điều gì lạ ở đó.
Allan chỉ cho cảnh sát trưởng xem chiếc điều khiển từ xa làm việc như thế nào, và giải thích chi tiết kết quả cuối cùng sẽ thế nào khi thuốc nổ. Cảnh sát trưởng mỉm cười đầy hạnh phúc. Và giúi điếu thuốc lá thứ 18 trong ngày vào ly cà phê của Allan.
Allan lấy ra một chén mới, mà ông đã cất đằng sau hộp đồ nghề, và đặt nó một cách đầy dụng ý cạnh chiếc bàn gần cầu thang dẫn đến hành lang, phòng tạm giam và cửa ra vào. Sau đó, rất tự nhiên, Allan kéo tay mục sư và rời khỏi garage, trong khi cảnh sát trưởng đi vòng vòng quanh chiếc DeSoto, rít điếu thuốc thứ 19 trong ngày, hài lòng tưởng tượng những gì sắp xảy ra.
Mục sư hiểu qua cách Allan tóm tay mình rất chặt là đã đến lúc rồi. Đây là lúc phải tuân theo ông Karlsson một cách mù quáng.
Họ đi ngang qua phòng tạm giam và tiếp tục về phía chỗ đón tiếp. Tới đó, Allan không thèm dừng lại ở chỗ lính gác có vũ trang mà cứ tự tin tiếp tục đi thẳng qua, vẫn tóm chắc lấy mục sư.
Các lính gác đã trở nên quá quen thuộc với Karlsson và mục sư, không mảy may nghĩ đến nguy cơ họ cố tình tẩu thoát, vì vậy thật bất ngờ khi sĩ quan trực gọi to:
– Dừng lại! Các ông định đi đâu?
Allan dừng lại với mục sư ngay trên đường ranh giới tự do, trông có vẻ rất ngạc nhiên.
– Chúng tôi được thả tự do rồi. Ngài Thủ tướng chưa báo với anh à?
Mục sư Ferguson kinh hãi, gắng gượng hít một ít ôxy qua mũi mình để không ngất đi.
Đứng nguyên chỗ đó, viên sĩ quan trực nói với giọng uy quyền. Các ông không được đi đâu cho đến khi tôi có xác nhận của ngài Thủ tướng về điều ông vừa nói với tôi.
Ba lính gác được lệnh phải canh chừng cẩn thận mục sư và ông Karlsson, trong khi viên sĩ quan trực đi xuống hành lang đến garage để xin xác nhận. Allan mỉm cười khích lệ mục sư bên cạnh mình và nói rằng chẳng bao lâu tất cả mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Trừ khi điều ngược lại xảy ra thì mới hỏng việc.
Vì cảnh sát trưởng, trước tiên là không hề cho phép mục sư và Allan ra ngoài, và, thứ hai là cũng chẳng có ý định nào để làm như vậy, nên ông phản ứng mạnh mẽ.
Anh đang nói gì? Chúng đứng ở cửa ra vào và nói dối trơ trẽn thế à? Mẹ kiếp, bây giờ chúng sẽ phải trả giá đẫm máu vì chuyện đó…
Cảnh sát trưởng hiếm khi chửi thề. Ông luôn luôn cẩn thận giữ gìn danh giá. Nhưng bây giờ ông đang giận quá. Và theo thói quen, ông giúi điếu thuốc lá của mình vào ly cà phê của gã Karlsson khốn kiếp trước khi đi thẳng lên cầu thang ra hành lang.
Hay nói đúng hơn, ông đã không đi xa hơn khỏi tách cà phê. Bởi vì riêng lần này, nó không chứa cà phê mà là nitro-glycerine nguyên chất trộn với mực đen. Vụ nổ lớn xé Phó Thủ tướng và viên sĩ quan trực thành muôn mảnh. Một đám mây trắng đùn ra khỏi garage và tiến dọc theo hành lang nơi đầu kia Allan, mục sư và ba lính canh đang đứng.
Đi thôi, Allan bảo mục sư. Và họ đi.
Cả ba lính canh quá choáng váng không có thời gian suy nghĩ xem có nên ngăn Karlsson và mục sư lại không, nhưng chỉ vài phần mười của một giây sau đó, như một hệ quả hợp lý khi garage biến thành một biển lửa – chỗ thuốc nổ dưới chiếc DeSoto, định dành cho Winston Churchill, cũng phát nổ. Điều đó chứng tỏ với Allan rằng nó đã rất chính xác để đi đến mục đích dự định. Cả tòa nhà ngay lập tức sụp xuống, và tầng trệt bắt lửa khi Allan sửa lại mệnh lệnh của mình với mục sư:
– Chạy khỏi đây ngay.
Hai trong số ba lính gác bị sức ép bắn vào tường và bốc cháy. Người thứ ba không còn đầu óc đâu để ưu tiên cho các tù nhân của mình nữa. Đầu tiên, anh ta tự hỏi trong vài giây chuyện gì đã xảy ra, rồi co giò chạy để tránh kết thúc như đồng đội của mình. Allan và mục sư đi một đằng. Người lính còn sót lại chạy đằng khác.
**
Sau khi Allan theo cách đặc biệt của mình đã sắp xếp cho bản thân và mục sư thoát khỏi trụ sở chính của cảnh sát mật, đến lượt mục sư trở nên hữu ích. Tất nhiên ông biết chỗ của hầu hết các cơ quan đại diện ngoại giao và hướng dẫn Allan suốt dọc đường tới Đại sứ quán Thụy Điển. Ở đó, Allan đã tặng mục sư cái ôm thân mật để cảm ơn ông về mọi thứ.
Allan thắc mắc mục sư định làm gì. Và dù sao, Đại sứ quán Anh ở đâu?
Không xa đây đâu, mục sư đáp, nhưng mà ông có lí do gì để đến đấy đâu? Họ đều theo Anh giáo cả rồi. Không, mục sư đã nghĩ ra một chiến lược mới. Tình huống mới đây đã dạy cho ông rằng mọi thứ dường như bắt đầu và kết thúc ở bộ phận tình báo và an ninh quốc gia. Vì vậy, vấn đề là phải điều khiển tổ chức từ bên trong. Một khi tất cả những người làm việc cho cảnh sát mật, và tất cả những người đã giúp họ đều thành tín đồ Anh giáo thì sau đó việc còn lại sẽ ngon như ăn kẹo!
Allan nói rằng ông biết một cái bệnh viện khá tốt ở Thụy Điển nếu trong tương lai mục sư vẫn có những phát kiến tương tự. Mục sư trả lời rằng ông không muốn tỏ ra vô ơn, dưới bất kỳ dạng nào. Tuy nhiên, ông đã vĩnh viễn tìm thấy sứ mệnh của mình, và đành phải nói lời tạm biệt. Mục sư định thử bắt đầu với người người lính gác còn sống sót, người đã chạy theo một hướng khác. Về cơ bản, đó là một chàng trai dễ chịu, tử tế, và có lẽ anh ta sẽ được dẫn tới con đường của đức tin chân thật.
Tạm biệt! Mục sư long trọng nói rồi bước đi.
Tạm biệt, Allan đáp.
Allan nhìn mục sư biến mất xa xa, và nghĩ rằng thế giới này đủ điên để mục sư tồn tại ngay cả trên con đường mà ông ta đã chọn.
Nhưng Allan đã nhầm. Mục sư tìm thấy người lính gác, loạng choạng trong Công viên Shahr-e giữa lòng Teheran, tay bị bỏng và khẩu súng tự động tháo chốt an toàn trong tay.
Chà, cậu đây rồi, con trai ta, mục sư thốt lên và bước đến ôm lấy anh.
Mày! Anh lính hét lên, Chính là mày!
Rồi bắn 22 viên đạn vào ngực mục sư. Lẽ ra còn nhiều hơn nhưng ổ đạn đã hết. **
Allan được phép vào Đại sứ quán Thụy Điển nhờ giọng đặc sệt Thụy Điển của mình, từ Södermanland. Nhưng sau đó mọi thứ đều rất phức tạp, vì Allan chẳng có giấy tờ tùy thân gì. Vì vậy, Đại sứ quán không thể đơn giản cấp hộ chiếu cho ông, và càng khó giúp ông trở lại Thụy Điển. Thêm nữa, Bí thư thứ ba Bergqvist nói, Thụy Điển mới áp dụng số nhận dạng cá nhân đặc biệt và nếu nó đúng thì Karlsson đã xuất cảnh nhiều năm trước, từ đó thậm chí không có một ông Karlsson nào trên hệ thống hồ sơ ở Thụy Điển.
Allan đáp lại rằng cho dù tất cả các tên người Thụy Điển bây giờ đã chuyển thành số thì ông đang và sẽ vẫn là Allan Karlsson ở làng Yxhult ngoại ô Flen và bây giờ ông muốn ngài Bí thư thứ ba vui lòng thu xếp giấy tờ cho ông.
Tạm thời, Bí thư thứ ba Bergqvist là viên chức cao cấp nhất tại đại sứ quán. Ông là người duy nhất đã không được tham dự hội nghị ngoại giao ở Stockholm. Và tất nhiên mọi thứ lại xảy ra cùng lúc. Như thể chưa đủ, vài nơi ở trung tâm Teheran vừa mới bốc cháy. Bây giờ lại mọc ra một gã chẳng ai biết, tuyên bố là người Thụy Điển. Tất nhiên có những điểm cho thấy người đàn ông này nói thật, nhưng đây là một tình huống cần phải theo nguyên tắc để không gây hại cho sự nghiệp tương lai của mình. Vì vậy, Bí thư thứ ba Bergqvist lặp đi lặp lại quyết định của mình rằng sẽ không có hộ chiếu trừ phi ông Karlsson có thể được nhận dạng chính thức.
Allan nói rằng ông thấy Bí thư thứ ba Bergqvist hết sức cứng đầu, nhưng có lẽ họ có thể giải quyết mọi thứ nếu bí thư thứ ba có chiếc điện thoại nào dùng được.
Chà, có, Bí thư thứ ba có máy. Nhưng gọi điện thoại đường dài rất tốn kém. Ông Karlsson định gọi điện thoại đi đâu?
Allan đã bắt đầu mệt mỏi vì bị Bí thư thứ ba hoạnh họe nên không trả lời mà hỏi lại:
Per Albin vẫn là thủ tướng ở nhà chứ?
Cái gì? Không, bí thư thứ ba kinh ngạc đáp. Ông ấy là Erlander. Tage Erlander. Thủ tướng Hansson đã chết mùa thu năm ngoái. Nhưng tại sao…
Ông có thể im lặng một lúc để chúng ta làm rõ ràng chuyện này không.
Allan nhấc điện thoại và gọi đến Nhà Trắng ở Washington, tự giới thiệu mình và đã được nối với thư ký cao cấp của tổng thống. Cô còn nhớ rõ ông Karlsson và cũng đã nghe rất nhiều điều tốt đẹp về ông từ tổng thống, nếu ông Karlsson thấy việc này thực sự quan trọng thì cô sẽ xem có thể đánh thức tổng thống không, bây giờ mới là tám giờ sáng ở Washington, ông Karlsson biết đấy, và Tổng thống Truman không hay dậy sớm.
Một thời gian ngắn sau đó, Tổng thống Truman vừa thức giấc đã gọi điện thoại và tán say sưa với ông Allan trong vài phút để cập nhật tin tức về nhau, trước khi rốt cuộc Allan đề cập đến vấn đề của mình. Liệu Harry có thể gọi điện cho Thủ tướng mới của Thụy Điển là Erlander và xác nhận Allan là ai, để Erlander có thể gọi cho Bergqvist – Bí thư thứ ba tại Đại sứ quán Thụy Điển ở Teheran và thông báo rằng Allan cần được lập tức cấp hộ chiếu.
Harry Truman tất nhiên sẽ làm việc này cho Allan, nhưng trước tiên hãy đánh vần tên bí thư thứ ba để ông nắm cho đúng.
Tổng thống Truman muốn biết tên ông đánh vần thế nào, Allan nói với Bí thư thứ ba Bergqvist. Nếu ông nói trực tiếp với ông ấy thì dễ hơn.
Sau khi Bí thư thứ ba Bergqvist gần như mê mụ đánh vần từng chữ cái tên mình cho tổng thống của Hoa Kỳ, ông đặt điện thoại xuống và không nói gì trong tám phút. Đó chính xác là khoảng thời gian trước khi Thủ tướng Erlander gọi điện đến đại sứ quán và ra lệnh cho Bí thư thứ ba Bergqvist: 1) ngay lập tức phát hành hộ chiếu ngoại giao cho Allan Karlsson, và 2) không chậm trễ sắp xếp phương tiện để đưa ông Karlsson trở lại Thụy Điển.
Nhưng ông ấy không có số nhận dạng cá nhân, Bí thư thứ ba Bergqvist cố gắng nói.
Tôi đề nghị ông, Bí thư thứ ba giải quyết vấn đề đó, Thủ tướng Erlander đáp. Trừ khi ông muốn trở thành Bí thư thứ tư hoặc thứ năm?
Không có chức nào là Bí thư thứ tư hoặc thứ năm ạ, Bí thư thứ ba gắng gượng.
Thế ông rút ra kết luận gì từ đó?
**
Anh hùng chiến tranh Winston Churchill đã hơi bất ngờ khi thất bại trong cuộc bầu cử ở Anh năm 1945, lòng biết ơn của người dân Anh đã không kéo dài thêm nữa.
Nhưng Churchill đã lên kế hoạch phục thù và trong khi chờ đợi, ông đi khắp thế giới. Ngài cựu Thủ tướng chẳng ngạc nhiên nếu gã hậu đậu thuộc đảng Lao Động, người đang nắm giữ nước Anh, áp dụng một nền kinh tế đưa vương quốc này vào tay những kẻ không biết làm gì với nó.
Ví dụ Ấn Độ thuộc Anh bây giờ đang trên đà tan rã. Phe Ấn Độ giáo và Hồi giáo tất nhiên không thể hòa thuận được, và ở giữa là gã Mahatma Gandhi chết tiệt ngồi khoanh chân nhịn ăn vì không hài lòng với chuyện gì đó. Chiến lược chiến tranh kiểu quái gì thế không biết? Với chiến lược đó, họ sẽ đi đến đâu trước cuộc tấn công bằng bom của bọn quốc xã trên khắp nước Anh?
Đông Phi thuộc Anh còn tồi tệ hơn, chẳng sớm thì muộn những người da đen sẽ đòi tự chủ.
Churchill hiểu rằng không phải mọi thứ vẫn như xưa, tuy nhiên người Anh cần một chỉ huy có thể nói cái gì là cần thiết, và có quyền lực để thực thi. Họ không cần một tay xã hội chủ nghĩa trá hình như Clement Atlee (Winston Churchill nằm trong số những người nghĩ rằng bệ đi tiểu công cộng cũng là một hình thái tương tự chủ nghĩa xã hội).
Còn về Ấn Độ thì trận chiến đã thất bại, Churchill biết. Nó đã đi theo cách đó nhiều năm, và trong chiến tranh, việc cho phép Ấn Độ độc lập là cần thiết để người Anh giữa lúc khó khăn sinh tồn sẽ không phải đối phó thêm với một cuộc chiến tranh dân sự.
Nhưng ở nhiều nơi khác vẫn còn dư thời gian để ngăn chặn tiến trình này. Kế hoạch mùa thu của Churchill là du lịch đến Kenya và tự mình tìm hiểu nơi đó. Nhưng trước tiên ông sẽ ghé qua Teheran uống trà với nhà vua.
Không may ông đã hạ cánh trong bối cảnh hỗn loạn. Hôm trước, cái gì đó đã phát nổ tại bộ tình báo và an ninh trong nước.
Cả tòa nhà đã sụp đổ và cháy rụi. Gã cảnh sát trưởng ngu ngốc rõ ràng cũng thiệt mạng trong vụ nổ, gã chính là người ngu đến nỗi dám mạnh tay với nhân viên vô tội của Đại sứ quán Anh.
Cảnh sát trưởng mất đi không phải là một tổn thất lớn, nhưng vấn đề là chiếc xe hơi chống đạn duy nhất của nhà vua đã bị lửa thiêu rụi, và điều này khiến cuộc gặp giữa nhà vua và Churchill bị ngắn hơn nhiều so với dự kiến, và vì lý do an ninh, nó đã diễn ra ngay tại sân bay.
Tuy nhiên, cũng may là chuyến thăm viếng đã hoàn thành. Theo nhà vua, tình hình đã được kiểm soát. Vụ nổ tại trụ sở cảnh sát mật là chuyện đáng bận tâm, và cho đến nay họ chưa tìm ra nguyên nhân. Nhưng việc cảnh sát trưởng chết trong vụ nổ không làm nhà vua bị khó khăn gì. Dạo này có vẻ như ông ta đã bắt đầu xa cách dần rồi.
Tóm lại, tình hình chính trị vẫn đang ổn định. Họ đã bổ nhiệm một giám đốc an ninh mới. Và ghi nhận thành tựu của Công ty dầu khí Anh-Iran. Dầu mang lại sự giàu có tuyệt vời cho cả Anh và Iran. Nói thật ra thì chủ yếu là Anh, nhưng nó cũng không đến nỗi bất công lắm vì đóng góp duy nhất từ Iran trong dự án là lao động giá rẻ. Và tất nhiên, cả dầu nữa.
Nhìn chung là Iran hòa bình và thịnh vượng, Winston Churchill tổng kết trong khi chào tùy viên quân sự Thụy Điển mới được lấy chỗ trên máy bay trở lại London.
Rất vui vì ngài đang hài lòng, thưa ngài Churchill, Allan đáp và nói thêm rằng trông ngài rất tươi tỉnh.
**
Sau khi nối chuyến tại London, cuối cùng Allan đã hạ cánh xuống sân bay Bromma ở Stockholm, lần đầu tiên trong mười một năm ông lại thấy mình đứng trên đất Thụy Điển. Đó là vào cuối mùa thu năm 1947, thời tiết bình thường.
Tại sảnh đến, một người đàn ông trẻ đang đợi Allan. Anh ta nói mình là trợ lý của Thủ tướng Chính phủ Erlander và thủ tướng muốn gặp Allan càng sớm càng tốt, nếu có thể thu xếp được.
Allan đồng ý, và vui vẻ đi theo viên trợ lý, anh ta tự hào mời Allan ngồi vào chiếc xe mới coong của chính phủ, Volvo PV 444 màu đen sáng bóng.
Ông đã bao giờ thấy cái gì khủng thế chưa, ông Karlsson? viên trợ lý vốn mê xe hơi hỏi. Bốn mươi bốn mã lực đấy!
Tuần trước tôi thấy một chiếc DeSoto màu vang đỏ rất đẹp, Allan đáp. Nhưng chiếc xe của anh ở tình trạng tốt hơn.
Trên đường từ Bromma tới trung tâm của Stockholm, Allan nhìn xung quanh với vẻ quan tâm. Thật xấu hổ là trước đây ông chưa bao giờ được lên thủ đô. Đó là một thành phố xinh đẹp, quả thật vậy, với nước và những cây cầu khắp nơi, mà không cái cầu nào bị nổ cả.
Đến văn phòng chính phủ, Allan được dẫn theo hành lang tới khu của thủ tướng. Thủ tướng chào đón Allan ‘Ông Karlsson! Tôi đã nghe rất nhiều về ông!’ rồi đẩy trợ lý ra khỏi phòng và đóng cửa lại.
Allan không nói ra, nhưng thầm nghĩ mình lại không nghe nói gì về Tage Erlander. Thậm chí Allan không biết Thủ tướng theo phe Tả hay Hữu. Chắc chắn ông phải thuộc một trong hai phe đó, bởi vì cuộc sống đã dạy Allan rằng người ta nhất định phải chọn bên này hoặc bên kia.
Dù sao, Thủ tướng thích phe nào cũng được. Vấn đề bây giờ là nghe xem ông nói gì.
Hóa ra Thủ tướng đã gọi điện lại cho Tổng thống Truman ngay hôm đó và có một cuộc trò chuyện dài về Allan. Thế nên bây giờ thủ tướng đã biết tất cả về…
Nhưng rồi Thủ tướng ngừng lời. Ông mới làm thủ tướng chưa đầy một năm và có rất nhiều điều phải học hỏi. Tuy nhiên, ông biết một điều là trong những tình huống nhất định, tốt nhất là không biết gì, hay nói cách khác là không thể chứng minh rằng mình đã biết.
Vì vậy, Thủ tướng bỏ lửng câu nói của mình. Những thông tin Tổng thống Truman đưa ra liên quan đến Allan Karlsson mãi mãi sẽ là một bí mật giữa họ. Thay vào đó, Thủ tướng đi thẳng vào vấn đề:
Tôi hiểu rằng ông không có việc gì để trở lại Thụy Điển, vì vậy tôi đã sắp xếp một khoản tiền mặt cho những đóng góp vì đất nước… có thể nói thế… Dù sao, đây là 10.000 crown cho ông.
Rồi Thủ tướng trao một phong bì tiền dày cộp và đề nghị Allan ký nhận. Mọi thứ đúng theo sách vở.
Rất cảm ơn ngài, thưa Thủ tướng. Với sự hào phóng này, tôi sẽ có đủ tiền mua quần áo mới và chỗ ngủ sạch sẽ tối nay ở khách sạn. Thậm chí tôi có thể được đánh răng lần đầu tiên kể từ tháng Tám năm 1945. Thủ tướng ngắt lời ngay khi Allan sắp mô tả tình trạng cái quần lót của mình, và thông báo với ông rằng tất nhiên số tiền không đi kèm bất kỳ điều kiện nào, nhưng ông vẫn muốn tiết lộ với ông Karlsson rằng một số hoạt động liên quan đến phân tách hạt nhân đang được thực hiện ở Thụy Điển và Thủ tướng muốn ông Karlsson nhìn xem.
Sự thật là Thủ tướng Erlander không biết phải làm gì với một số vấn đề quan trọng mà ông đột nhiên phải gánh vác khi trái tim của Per Albin ngừng đập mùa thu năm ngoái. Một trong số đó là Thụy Điển nên chọn lập trường nào trước thực tế rằng hiện nay có một thứ được gọi là bom nguyên tử. Tổng Chỉ huy Jung đã gặp ông về việc đất nước phải tự vệ chống lại cộng sản như thế nào, dù sao giữa Stalin với Thụy Điển chỉ cách có nước Phần Lan nhỏ xíu.
Có hai mặt của vấn đề. Một mặt, Tổng Chỉ huy Jung đã kết hôn vào một gia đình giàu có nền nếp và ai cũng biết rằng ông hay ngồi nhâm nhi chút rượu mạnh với vị vua già. Một người dân chủ xã hội như Erlander không thể chịu được ý tưởng rằng Gustav V thậm chí có thể mơ tưởng gây ảnh hưởng đến chính sách quốc phòng Thụy Điển.
Mặt khác, Erlander không thể loại trừ khả năng rằng có lẽ Tổng Chỉ huy đúng. Không thể tin vào Stalin và cộng sản, nếu họ có ý muốn mở rộng địa bàn của mình về phía Tây thì Thụy Điển gần một cách đáng lo ngại.
Bộ nghiên cứu quân sự Thụy Điển đã chuyển tất cả các chuyên gia năng lượng hạt nhân (ít ỏi) đến khu AB Atomenergi[12] mới xây dựng. Bây giờ các chuyên gia ngồi ở đó, cố gắng tìm hiểu chính xác những gì đã xảy ra ở Hiroshima và Nagasaki. Ngoài ra, họ có một nhiệm vụ, nói theo lối thông thường là: phân tích tương lai hạt nhân theo kiểu Thụy Điển. Nó không bao giờ được nói thẳng ra, tốt nhất là như vậy, nhưng Thủ tướng Erlander đã hiểu rằng nhiệm vụ được xây dựng một cách mơ hồ này, nói theo ngôn ngữ thông thường có thể hiểu là:
Chúng ta làm thế nào để chế tạo bom nguyên tử của chính mình, nếu nó là cần thiết?
Và bây giờ câu trả lời đang ngồi ngay đối diện Thủ tướng. Tage Erlander biết điều đó, nhưng hơn hết, ông biết mình không muốn bất cứ ai khác biết là ông biết. Chính trị là quan sát xem chỗ nào để đặt chân mình vào.
Vì vậy, ngày hôm trước, Thủ tướng Erlander đã liên lạc với người đứng đầu nghiên cứu tại AB Atomenergi, Tiến sĩ Sigvard Eklund, và đề nghị ông ta đến phỏng vấn Allan Karlsson, và hoàn toàn có thể hỏi ông Karlsson xem liệu ông có thể tham gia gì trong các hoạt động của AB Atomenergi. Giả định là ông Karlsson quan tâm, Thủ tướng sẽ thấy vào ngày hôm sau.
Tiến sĩ Eklund không hài lòng lắm với chuyện thủ tướng can dự vào việc Eklund tuyển ai làm việc trong dự án nguyên tử của mình. Thậm chí ông ngờ rằng Allan Karlsson được chính phủ cử đến làm điệp viên Dân chủ Xã hội trong tổ chức. Nhưng ít nhất ông cũng đã hứa hẹn phỏng vấn Karlsson, mặc dù lấy làm lạ là Thủ tướng chẳng nói gì về trình độ của người đàn ông này. Erlander đã chỉ lặp đi lặp lại từ ‘kỹ càng’. Tiến sĩ Eklund phải hỏi ông Karlsson kỹ càng về xuất thân của ông.
Về phần mình Allan nói rằng ông không từ chối gặp Tiến sĩ Eklund hoặc bất kỳ vị tiến sĩ nào khác, nếu ngài Thủ tướng muốn.
**
Mười ngàn Crown là một món tiền khủng, Allan nghĩ, và đặt phòng tại khách sạn đắt tiền nhất mà ông có thể thấy.
Nhân viên tiếp tân tại khách sạn Grand nghi ngờ người đàn ông bẩn thỉu, ăn mặc lôi thôi cho đến khi Allan chìa ra tấm hộ chiếu ngoại giao Thụy Điển của mình.
Tất nhiên chúng tôi có phòng cho ông, thưa ông Tùy viên quân sự, nhân viên tiếp tân thông báo. Ông muốn trả bằng tiền mặt hay chúng tôi sẽ gửi hóa đơn cho Bộ Ngoại giao ạ?
Tiền mặt đi, Allan đáp. Có cần trả tiền trước không?
Ồ, không, thưa ông Tùy viên. Tất nhiên là không ạ! Nhân viên lễ tân cúi rạp đầu. Nếu nhân viên tiếp tân thấy được tương lai, chắc chắn anh ta sẽ trả lời khác.
**
Ngày hôm sau, Tiến sĩ Eklund hoan nghênh Allan Karlsson, mới tắm rửa và ăn mặc khá chỉnh tề, tại văn phòng ở Stockholm của mình. Tiến sĩ mời Allan ngồi xuống và dùng cà phê, thuốc lá, giống như ông trùm sát nhân ở Teheran đã từng làm (tuy nhiên Eklund giụi thuốc lá trong cái gạt tàn của mình.)
Tiến sĩ Eklund không hài lòng với cách ngài Thủ tướng can thiệp vào quá trình tuyển dụng của mình. Đây là việc của các nhà khoa học, không phải của chính trị gia – càng không phải cho chính trị gia phe Dân chủ Xã hội!
Trên thực tế, Tiến sĩ Eklund đã có thời gian để thảo luận về vấn đề này với Tổng Chỉ huy trên điện thoại, và được ngài ủng hộ phía sau. Đó là, nếu người đàn ông mà Thủ tướng cử đến không có năng lực cần thiết thì ông ta sẽ không được tuyển dụng. Thế thôi!
Về phần mình Allan cảm thấy những làn sóng tiêu cực trong phòng và trong một lúc nó gợi nhớ về lần đầu tiên ông gặp Tống Mỹ Linh vài năm trước đó. Mọi người muốn hành xử như thế nào cũng được, nhưng Allan cho rằng nói chung không việc gì phải tỏ ra hung hăng nếu có thể kiềm chế được.
Cuộc gặp gỡ giữa hai người đàn ông khá ngắn ngủi:
Thủ tướng đã yêu cầu tôi phỏng vấn ông thật kỹ, ông Karlsson, để xác định xem ông có phù hợp để làm việc trong tổ chức của chúng tôi không. Và đó là điều tôi phải làm, tất nhiên nếu ông cho phép, ông Karlsson!
Vâng, được thôi, Allan nghĩ rằng nó cũng là hợp lý nếu ông Tiến sĩ muốn biết thêm về Allan và kỹ càng là một đức tính tốt nên ông Tiến sĩ cứ hỏi đi, đừng ngại đặt bất kỳ câu hỏi nào.
Vâng, thế thì, tiến sĩ Eklund nói. Liệu chúng ta có thể bắt đầu bằng nghiên cứu của ông Karlsson…
Chẳng có gì nhiều để khoe khoang, Allan đáp. Chỉ có ba năm.
Ba năm? Tiến sĩ Eklund kêu lên. Chỉ có ba năm nghiên cứu học thuật, ông Karlsson, ông khó có thể trở thành nhà vật lý, toán học hay nhà hóa học được?
Không, tổng cộng là ba năm. Tôi bỏ học trước ngày sinh nhật lần thứ 9 của mình.
Giờ thì Tiến sĩ Eklund phải cố gắng để ngồi yên. Tức là người đàn ông này không có tí giáo dục nào! Thậm chí không biết ông ta có thể đọc và viết không nữa? Tuy nhiên, Thủ tướng đã yêu cầu ông…
Ông Karlsson, ông có bất cứ kinh nghiệm chuyên môn nào có thể xem như có liên quan cho công việc mà ông cho rằng chúng tôi đang thực hiện tại AB Atomenergi?
Vâng, có, trong chừng mực nào đó, Allan có kinh nghiệm. Ông đã làm việc rất nhiều ở Mỹ, tại cơ sở Los Alamos, New Mexico.
Gương mặt của Tiến sĩ Eklund sáng lên. Rốt cuộc, Erlander cũng có lý do của mình. Ai cũng biết những thành tựu đã đạt được tại Los Alamos. Ông Karlsson đã làm gì ở đó?
Tôi phục vụ cà phê, Allan trả lời.
Cà phê ư? Mặt tiến sĩ Eklund tối sầm lại.
Vâng, và thỉnh thoảng cả trà nữa. Tôi là một trợ lý chung và người phục vụ.
Tức là ông, ông Karlsson là một trợ lý chung tại Los Alamos… ông đã bao giờ tham gia vào bất kỳ quyết định nào liên quan tới tổng hợp hạt nhân chưa?
Không, Allan đã trả lời, lần gần nhất có lẽ là lúc tôi đã buột miệng nói điều gì đó tại một cuộc họp nơi tôi đang chịu trách nhiệm phục vụ cà phê, và không nên xen ngang.
Ông Karlsson đã buột miệng nói gì đó tại một cuộc họp, nơi ông vốn là một người phục vụ… rồi sau đó chuyện gì đã xảy ra?
Vâng, chúng tôi bị ngắt ngang … rồi tôi được yêu cầu rời khỏi phòng.
Tiến sĩ Eklund chán hẳn khi ngồi đó, đối diện với Allan. Thủ tướng đã cử cái giống gì đến cho ông đây? Erlander nghĩ một tay bồi bàn bỏ học trước khi lên chín tuổi có thể được tuyển dụng để chế tạo bom nguyên tử cho Thụy Điển? Ngay cả với một nhà dân chủ xã hội thì luận điểm ngu ngốc cho rằng mọi người bình đẳng cũng phải áp dụng có giới hạn thôi chứ?
Trước hết tiến sĩ Eklund tự nhủ rằng sẽ là sự lạ nếu ông thủ tướng tập sự kia có thể tồn tại đến cuối năm, rồi ông nói với Allan rằng nếu ông Karlsson không có gì nói thêm thì cuộc gặp của họ có thể kết thúc tại đây. Tiến sĩ Eklund nghĩ rằng hiện nay không có việc gì cho ông Karlsson cả. Người trợ lý, pha cà phê cho các học giả tại AB Atomenergi đúng là chưa bao giờ đến Los Alamos, nhưng Tiến sĩ Eklund nghĩ rằng cô ấy vẫn làm tốt công việc. Hơn nữa, thậm chí Greta còn có thời gian để dọn sạch văn phòng và đó là một ưu điểm.
Allan ngồi im lặng một lát, và tự hỏi liệu mình có nên khai sáng cho ông tiến sĩ một thực tế là, ngược với tất cả các học giả của tiến sĩ Eklund, và chắc chắn với cả Greta trong lĩnh vực này, ông thực sự biết cách chế tạo một quả bom nguyên tử.
Nhưng rồi Allan quyết định là Tiến sĩ Eklund không đáng được giúp đỡ nếu ông ta không đủ sáng suốt để hỏi Allan điều đó. Thêm nữa, cà phê của Greta có vị như nước rửa chén.
Allan đã không được tuyển vào AB Atomenergi, trình độ của ông thiếu hụt thảm hại. Nhưng ông vẫn hài lòng khi ngồi trên ghế đá công viên bên ngoài Grand Hotel, nhìn ra khung cảnh rất đẹp với cung điện Hoàng gia bên kia hồ nước. Mà làm sao mà không hài lòng cho được? Ông vẫn còn phần lớn số tiền mà Thủ tướng đã thân mật trao cho. Ông đang ở trong một khách sạn tuyệt đẹp, ăn nhà hàng mỗi tối và ngày đặc biệt đầu tháng Giêng này, ông ngồi ngửa mặt đón ánh nắng mặt trời, cảm thấy nó đang sưởi ấm cả cơ thể và linh hồn mình.
Tất nhiên, chỗ ông đang ngồi hơi bị lạnh mông, và vì thế thật đáng ngạc nhiên khi một người khác đến và ngồi cùng trên chiếc ghế, ngay cạnh Allan.
Allan lịch sự chào ông ta bằng tiếng Thụy Điển.
– Chào ông, ông Karlsson, người đàn ông trả lời bằng tiếng Anh.
1947-1948
Allan đã trải qua những đêm chẳng dễ chịu gì khi nằm úp sấp trên thùng xe tải trên đường tới Teheran. Trời thì lạnh quá mà chẳng có sữa dê đặc biệt để sưởi ấm. Thêm nữa, hai tay ông còn bị trói sau lưng.
Cũng dễ hiểu vì sao Allan mừng khi cuộc hành trình kết thúc. Đó là vào cuối buổi chiều khi chiếc xe tải dừng lại trước cổng chính một tòa nhà lớn màu nâu ở giữa thủ đô.
Hai anh lính vực kẻ lạ mặt đứng dậy và phủi bớt bụi bẩn. Sau đó, họ nới lỏng dây trói tay Allan và quay lại canh gác ông với khẩu súng trường.
Nếu Allan biết tiếng Ba Tư, ông đã có thể đọc tấm biển hiệu nhỏ màu vàng vàng bên cạnh lối vào, nơi mình dừng lại. Nhưng ông không đọc được. Mà cũng chẳng quan tâm. Với ông, điều quan trọng là liệu họ có cho mình ăn sáng. Hay ăn trưa. Hoặc tốt hơn là cả hai.
Nhưng, tất nhiên, những người lính biết họ phải đưa tên cộng sản tình nghi đi đâu. Và khi họ đẩy Allan qua các cửa, một trong những người lính nói lời tạm biệt với Allan bằng một nụ cười và câu chúc bằng tiếng Anh:
Chúc may mắn!
Allan đáp cảm ơn bạn rất nhiều vì những lời chúc tốt đẹp, dù ông nhận thấy nó có vẻ mỉa mai, rồi ông nghĩ tốt nhất là mình nên quan tâm xem điều gì sắp xảy ra. đó, viên sĩ quan trong nhóm bắt giữ Allan chính thức bàn giao tù nhân của mình cho một người cấp bậc tương đương. Đăng ký xong, Allan được chuyển tới một phòng tạm giam ngay phía dưới hành lang gần nhất.
Căn phòng tạm giam là một thiên đường so với những gì gần đây Allan đã quen chịu đựng.
Bốn cái giường xếp thành dãy, mỗi giường đều có chăn dầy, đèn điện trên trần nhà, bồn rửa mặt với vòi nước trong một góc và góc kia là cái bô cho người lớn có nắp đậy. Thêm nữa, Allan có thể mang vào phòng giam một bát cháo to và cả lít nước để thỏa mãn cơn đói khát của mình.
Ba cái giường còn trống, nhưng cái thứ tư có một người đàn ông đang nằm ngửa, mắt nhắm, hai tay khoanh lại. Khi Allan được đưa vào phòng, người đàn ông tỉnh giấc ngủ và ngồi dậy. Ông ta cao, gầy, cổ áo kiểu mục sư màu trắng tương phản với trang phục toàn màu đen. Allan chìa tay ra tự giới thiệu và nói rằng tiếc là ông không biết ngôn ngữ địa phương, nhưng liệu giáo sĩ có biết một vài từ tiếng Anh?
Người đàn ông mặc đồ đen đáp là có, vì ông ta sinh ra và lớn lên ở Oxford, và cũng có giáo dục. Người đàn ông mặc đồ đen tự giới thiệu mình là Kevin Ferguson, một mục sư Anh giáo, đã có mặt tại Iran mười hai năm tìm kiếm những kẻ mất linh hồn để phục hồi đức tin chân chính cho họ. Thế ông Karlsson đang đứng về phía tôn giáo nào?
Allan trả lời, xét về khía cạnh hoàn toàn vật lý thì ông không kiểm soát được chỗ mình đang ở, nhưng điều đó không có nghĩa là ông bị mất linh hồn. Allan luôn có lập luận hợp lý về tôn giáo là nếu không biết chắc chắn thì đừng mất công suy đoán vòng vo.
Allan thấy mục sư Ferguson có hơi cố gắng nên nhanh chóng nói thêm rằng mục sư cũng nên tôn trọng mong muốn chân thành của Allan là tránh theo Anh giáo hoặc bất kỳ tôn giáo nào khác.
Mục sư Ferguson không phải là người dễ đầu hàng. Tuy nhiên, lần này ông hơi do dự. Có lẽ không nên quá nôn nóng với người duy nhất – ngoài Chúa ra – có thể cứu ông khỏi tình thế hiện nay?
Ông quyết định thỏa hiệp. Mục sư Ferguson làm một cố gắng nửa vời sao cho vẫn có thể tưới một chút ánh sáng lời Chúa Ba Ngôi mà không làm tổn thương ông Karlsson. Tình cờ đó là điều đầu tiên trong 39 điều răn trong kinh tín Anh giáo. Allan trả lời là mục sư có lẽ chưa hiểu Allan chẳng quan tâm đến chúa ba ngôi thế nào.
– Trong tất cả hiệp hội trên Trái đất, tôi nghĩ ba ngôi là cái mình ít quan tâm nhất, Allan đáp.
Mục sư Ferguson thấy mình thật dại dột đã hứa để yên cho Karlsson về vấn đề tôn giáo, ‘dù Chúa hẳn phải có ý gì khi để chúng ta trong cùng một phòng giam’.
Ông đành gắng sức giải thích tình hình của mình và của Allan.
Nó có vẻ không ổn, mục sư Ferguson nói. Chúng ta có thể đang trên đường đến gặp Đấng Sáng tạo ra chúng ta, và nếu không phải vì tôi đã hứa thì tôi sẽ nói thêm rằng đây chính là lúc để ông Karlsson đón nhận đức tin chân thật.
Allan nghiêm khắc nhìn mục sư mà không nói gì. Thay vào đó, ông để mục sư tiếp tục nói rằng bây giờ cả hai đang trong phòng tạm giam của bộ phận tình báo và an ninh trong nước, nói cách khác là cảnh sát mật. Có lẽ ông Karlsson tưởng nó có vẻ an toàn và ổn, nhưng sự thật là cảnh sát mật chỉ quan tâm đến an ninh của nhà vua chứ không ai khác, mục đích của họ là thực sự khiến dân chúng Iran phải sợ hãi, tôn trọng, và hết sức săn lùng, tiêu diệt cộng sản, Hồi giáo và các thành phần gây rối nói chung.
Ví dụ như mục sư Anh giáo?
Mục sư Ferguson đáp các mục sư Anh giáo không có gì phải sợ hãi, bởi vì họ có tự do tôn giáo ở Iran. Nhưng mà riêng mục sư Anh giáo này có thể đã đi quá xa, ông tự nghĩ.
Số phận những ai rơi vào tay cảnh sát mật chẳng có gì hay, và về phần mình, tôi sợ rằng đây là ga cuối cùng rồi, mục sư Ferguson nói, đột nhiên trông rất buồn.
Allan lập tức thấy ái ngại cho người đồng chí mới của mình trong phòng tạm giam, dù ông ta là một mục sư. Thế là ông an ủi rằng họ có thể sẽ tìm ra cách thoát khỏi đó, nhưng cái gì cũng cần thời gian. Trước hết, ông muốn biết mục sư đã làm gì mà phải bị nhốt trong này.
Mục sư Kevin Ferguson sụt sịt và cố trấn tĩnh lại.
Ông giải thích mình chẳng sợ chết mà chỉ nghĩ rằng mình còn có quá nhiều việc để làm trên Trái đất này. Mục sư luôn luôn đặt mạng sống của mình trong tay Chúa, nhưng nếu Ông Karlsson, trong khi đang chờ đợi Chúa quyết định, có thể tìm thấy lối thoát cho bản thân và mục sư, thì ông chắc chắn rằng Chúa sẽ không phản đối.
Rồi vị mục sư bắt đầu câu chuyện của mình. Chúa đã nói chuyện với ông trong một giấc mơ khi mục sư vừa tốt nghiệp. ‘Con hãy bước ra thế giới để làm công việc truyền giáo’, Chúa nói, nhưng ngài không nói nhiều hơn, vì vậy mục sư phải nghĩ ra nơi mình nên đi.
Một ông bạn người Anh và giám mục đã khuyên ông đi Iran – đất nước mà quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm nặng nề. Ví dụ, có thể tính đến các tín hữu Anh giáo ở Iran, nhưng nơi này sôi lên với người Siite và Sunni, người Do Thái và đám dân thờ đủ các ngẫu vật. Nói rộng ra là nếu có tín hữu Kitô giáo thì họ lại là người Armenia hay Assyria, và ai cũng biết rằng người Armenia và Assyria hay làm mọi thứ rối tung lên.
Allan nói mình không biết điều đó nhưng giờ thì ông đã biết, cảm ơn mục sư về thông tin.
Vị mục sư tiếp tục câu chuyện của mình. Iran và Anh có quan hệ tốt với nhau và nhờ những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội giúp đỡ, mục sư đã được đi nhờ đến Teheran bằng máy bay của Bộ Ngoại giao Anh.
Điều này xảy ra khoảng mười năm trước, quãng năm 1935. Kể từ đó, ông đã len lỏi qua hết tôn giáo này đến tôn giáo khác, trong một vòng tròng ngày càng rộng lớn quanh thủ đô. Lúc đầu, ông tập trung vào các nghi lễ tôn giáo khác nhau. Ông lẻn vào nhà thờ Hồi giáo, các thánh đường và đền thờ đủ loại, chờ đến thời điểm thích hợp để cắt ngang buổi lễ và với sự giúp đỡ của một thông dịch viên, rao giảng đức tin chân thật.
Allan ca ngợi người đồng chí mới trong phòng tạm giam của mình và nói rằng mục sư thực sự là một người rất dũng cảm. Điều đáng bàn là khả năng tinh thần của mục sư, bởi vì nó chắc hiếm khi có kết cục tốt đẹp?
Mục sư Ferguson thừa nhận rằng trên thực tế, chưa một lần nào nó kết thúc tốt đẹp. Ông chưa bao giờ nói được đầy đủ ý mình. Ông và người phiên dịch đã bị ném ra ngoài và thường là cả hai còn bị đánh nữa.
Nhưng không gì ngăn cản được mục sư tiếp tục cuộc đấu tranh của mình. Ông biết rằng ông đã gieo hạt giống nhỏ bé của Anh giáo trong linh hồn tất cả những ai mình đã gặp.
Tuy nhiên, cuối cùng thì danh tiếng của mục sư đã lan truyền rộng rãi đến mức nó bắt đầu trở nên khó khăn để tìm được một phiên dịch chịu hợp tác. Đến nay, không có phiên dịch nào chịu làm cho ông quá một lần, và sau một thời gian, rõ ràng là họ bắt đầu kể với nhau.
Vì vậy, mục sư đã tạm nghỉ và cố gắng hơn để nghiên cứu tiếng Ba Tư. Đồng thời, ông tìm cách trau chuốt các chiến thuật của mình và đến một ngày thấy tự tin về ngôn ngữ, ông đã bắt tay vào kế hoạch mới.
Thay vì đi đến đền thờ và các cuộc lễ, ông ra chợ, nơi ông biết rằng vờ rao giảng ở đây cũng thu được rất nhiều đệ tử trong số những người đến, thế rồi ông đứng trên một cái bục gỗ mình mang theo và kêu gọi sự chú ý của mọi người.
Phương pháp hoạt động này chắc chắn không dẫn đến kết quả bị ăn đòn nhiều như trong những năm đầu tiên, thế nhưng số lượng linh hồn được cứu vớt vẫn không hề như mong đợi.
Allan hỏi thực tế có bao nhiêu người cải đạo theo mục sư Ferguson và được trả lời rằng điều đó phụ thuộc vào cách bạn nhìn nó. Một mặt, mục sư Ferguson đã có chính xác là một người cải đạo trong mỗi tôn giáo mà ông đã từng làm việc – tất cả lên đến tám. Mặt khác, vài tháng trước, ông mới nhận ra rằng cả tám người trong thực tế, có thể là gián điệp do cảnh sát mật gửi đến để theo dõi mục sư truyền giáo.
Thế là giữa 0 và 8, Allan bảo.
Có lẽ là gần với 0 hơn 8, mục sư Ferguson đáp.
Trong mười hai năm, Allan nói.
Mục sư thừa nhận rằng ông thấy chán nản khi hiểu rằng kết quả vốn đã ít ỏi của mình hóa ra còn ít ỏi hơn. Và ông hiểu rằng với cùng một phương pháp làm việc, ông sẽ không bao giờ thành công ở đất nước này, bởi vì dù có bao nhiêu người Iran muốn cải đạo, họ sẽ không dám. Cảnh sát bí mật ở khắp mọi nơi và cải đạo chắc chắn sẽ có nghĩa là sẽ bị ghi tên vào sổ đen trong kho lưu trữ hồ sơ. Và từ chỗ có tên trong sổ đen đến chỗ bị thủ tiêu không dấu vết thường không xa nhau lắm.
Allan nói rằng thêm vào đó, có thể có trường hợp một hai người Iran – hoàn toàn chẳng quan tâm đến mục sư Ferguson hay cảnh sát mật – hài lòng với tôn giáo họ đang theo, mục sư có nghĩ vậy không?
Mục sư trả lời rằng ông hiếm khi nghe chuyện ngớ ngẩn như vậy, nhưng ông bị ngăn cản đưa ra câu trả lời thích hợp bởi vì ông Karlsson đã cấm mọi rao giảng Anh giáo. Liệu ông Karlsson có định nghe phần còn lại câu chuyện của mục sư mà đừng ngắt lời nhiều hơn cần thiết không?
Mục sư Ferguson tiếp tục kể, với những hiểu biết mới thu thập về chuyện cảnh sát mật thâm nhập vào công việc truyền giáo của mình, ông bắt đầu suy nghĩ theo những cách mới, ở tầm vĩ mô như thế nào.
Vì vậy, mục sư đuổi 8 tên đệ tử gián điệp, rồi liên hệ với phong trào cộng sản ngầm để gặp. Ông nói với họ rằng ông là một đại diện người Anh cho Đức Tin Chân Chính và ông muốn gặp họ để thảo luận về tương lai.
Mất nhiều thời gian để sắp xếp cuộc gặp, nhưng cuối cùng ông thấy mình ngồi với năm người trong nhóm lãnh đạo cộng sản ở tỉnh Razavikhorasan. Giá mà ông được gặp những người cộng sản Teheran thì thích hơn, vì mục sư Ferguson nghĩ rằng họ mới có quyền quyết định mọi thứ, nhưng cuộc gặp này cũng tốt cho những người mới bắt đầu.
Hoặc là không.
Mục sư Ferguson đã trình bày ý tưởng của mình với những người cộng sản, ý tưởng (tóm tắt) là Anh giáo sẽ trở thành tôn giáo của nhà nước Iran ngày cộng sản thắng lợi. Nếu những người cộng sản đồng ý điều này, mục sư Ferguson hứa sẽ nhận chức bộ trưởng tôn giáo của nhà nước và đảm bảo rằng ngay từ ngày đầu sẽ có đủ sách kinh. Các nhà thờ có thể được xây dựng sau đó, nhưng để bắt đầu thì các thánh đường và nhà thờ Hồi giáo đóng cửa có thể được sử dụng cho mục đích này. Các vị cộng sản nghĩ rằng nó sẽ mất bao lâu để cách mạng cộng sản thành công?
Những người cộng sản đã không phản ứng nhiệt tình lắm, hoặc thậm chí tò mò, mục sư Ferguson thầm nghĩ. Thay vào đó, mục sư Ferguson được thông báo rất rõ ràng rằng sẽ không có bất kỳ Anh giáo hay bất kỳ tôn giáo nào khác ngoài chủ nghĩa cộng sản khi ngày thắng lợi đến. Hơn nữa, ông còn bị lớn tiếng mắng nhiếc vì đã yêu cầu cuộc gặp này dưới chiêu bài lừa đảo. Những người cộng sản chưa bao giờ bị phí thời gian khủng khiếp như thế. Với một cuộc bỏ phiếu 3 trên 2, quyết định đưa ra là mục sư Ferguson sẽ bị đánh cho một trận nên thân trước khi tống lên tàu trở về Teheran, và một cuộc bỏ phiếu 5-0 ra quyết định rằng nó sẽ bất lợi cho sức khỏe của mục sư nếu ông cứ cố tình trở lại.
Allan mỉm cười nói rằng nếu mục sư cho phép, dù sao, ông cũng không muốn loại trừ khả năng rằng mục sư bị điên toàn tập. Cố gắng để thỏa thuận tôn giáo với những người cộng sản tất nhiên là vô vọng, chẳng lẽ mục sư không hiểu điều đó?
Vị mục sư trả lời rằng ngoại đạo như ông Karlsson tốt nhất là đừng đánh giá cái gì là khôn ngoan hay không. Nhưng tất nhiên, mục sư đã hiểu rằng có rất ít cơ hội thành công.
Nhưng cứ nghĩ xem, ông Karlsson, nếu nó đã thành công. Cứ nghĩ rằng có thể gửi một điện tín cho Tổng Giám Mục Canterbury và báo cáo cùng một lúc có thêm năm mươi triệu tín hữu Anh giáo.
Allan thừa nhận rằng sự khác biệt giữa điên rồ và thiên tài là rất tinh tế, và trong trường hợp này ông không thể chắc chắn nó là loại nào, nhưng ông có những nghi ngờ của mình.
Cái gì xảy đến sẽ đến, hóa ra đám cảnh sát mật đáng nguyền của nhà vua đã nghe trộm những người cộng sản Razavikhorasan, và mục sư Ferguson bị tóm ngay sau khi bước ra khỏi xe lửa ở thủ đô, và bị lôi đi thẩm vấn.
Và ngay lập tức tôi thừa nhận tất cả mọi thứ, còn khai thêm một chút nữa, mục sư Ferguson cho biết, bởi vì cơ thể gày gò của tôi không được tạo ra để chịu tra tấn. Bị đánh đau là một chuyện, nhưng tra tấn là chuyện khác.
Với lời thú nhận ngay lập tức và phóng đại, mục sư Ferguson đã bị đưa đến phòng tạm giam này, và ông đã bị bỏ mặc ở đây suốt hai tuần không ai đụng đến vì sếp, Phó Thủ tướng, đang đi công cán ở London.
Phó Thủ tướng ư? Allan thắc mắc.
Phải, hay là sếp của những kẻ giết người, ông Kevin Ferguson đáp.
Người ta nói cảnh sát mật là một tổ chức được kiểm soát từ trên mà người ta không thể tưởng tượng được. Thường xuyên gieo rắc sợ hãi trong lòng dân, hoặc giết chết người theo cộng sản, chủ nghĩa xã hội, Hồi giáo cực đoan, mà tất nhiên là không cần sự cho phép của ông chủ tối cao. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra chỉ hơi khác thường một chút thì ngay lập tức ông ta là người quyết định. Nhà vua đã cho ông ta danh hiệu phó thủ tướng, nhưng trên thực tế, ông ta là một kẻ giết người, theo ý kiến của mục sư Ferguson.
Và theo các lính canh tù, người ta nên quên từ ‘phó’ khi nhắc đến danh hiệu của ông ta, nếu mọi thứ tồi tệ đến mức cần phải gặp ông ta, giống như trường hợp của ông và của tôi vậy.
Có lẽ vị mục sư đã dành nhiều thời gian với nhóm cộng sản chìm lâu hơn là ông dám thừa nhận, Allan nghĩ, vì mục sư Ferguson tiếp tục:
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, CIA Mỹ đã tới đây và dựng lên cảnh sát mật của nhà vua.
CIA? Allan hỏi.
Vâng, bây giờ họ được gọi như thế. Trước đây họ là “OSS”, nhưng vẫn là một công việc bẩn thỉu. Họ là những người đã dạy cho cảnh sát Iran tất cả các thủ đoạn và các kiểu tra tấn. Hắn có thể là cái giống gì, người đã cho phép CIA hủy diệt thế giới theo cách ấy?
Ông định nói đến tổng thống Mỹ à?
Harry S Truman sẽ bị thiêu trong địa ngục, tin tôi đi, mục sư Ferguson đáp.
Ồ, thế à, ông nghĩ vậy à? Allan nói.
**
Nhiều ngày trôi qua trong phòng tạm giam tại trụ sở chính của cảnh sát mật ở trung tâm Teheran. Allan đã kể chuyện đời mình với mục sư Ferguson mà không giấu diếm bất cứ điều gì. Mục sư đã trở nên im lặng, ngừng nói chuyện với Allan sau khi nhận ra bạn tù của mình có quan hệ thế nào với tổng thống Mỹ và – thậm chí còn tồi tệ hơn – với những quả bom dội lên khắp Nhật Bản.
Thay vào đó, mục sư quay về với Chúa và cầu nguyện để được tư vấn. Chúa đã gửi ông Karlsson để giúp ông, hay ngược lại, đó là sự xúi giục của quỷ dữ?
Nhưng Chúa trả lời bằng im lặng. Thỉnh thoảng Người vẫn làm như vậy, và mục sư Ferguson luôn hiểu thế có nghĩa là ông nên tự suy nghĩ. Phải thừa nhận rằng, nó không phải lúc nào cũng được việc khi mục sư phải tự nghĩ, nhưng không thể chịu thua chỉ vì lý do đó.
Sau hai ngày hai đêm cân nhắc giữa bạn hay thù, mục sư Ferguson đã kết luận rằng trong thời gian này, ông nên hòa hoãn với kẻ ngoại đạo ở giường bên cạnh. Và ông thông báo với Allan rằng ông có ý định nói chuyện lại với ông Karlsson. Allan đáp dù nó khá dễ chịu và yên tĩnh khi mục sư giữ im lặng, có lẽ về lâu dài thì có kẻ tung người hứng cũng hay hơn.
Ngoài ra, chắc chắn chúng ta sẽ cố gắng thoát khỏi đây bằng cách nào đó, và có lẽ tốt nhất là ta có thể làm được trước khi ông trùm sát nhân trở về từ London. Chẳng có gì hay nếu mỗi người ngồi cau có một góc, theo cách đó chúng ta sẽ chẳng đi tới đâu, phải không ông mục sư?
Thật vậy, mục sư Ferguson cũng đồng ý. Khi ông trùm sát nhân trở lại thì cái chờ đón họ chỉ có thể là một cuộc thẩm vấn ngắn ngủi rồi sau đó đơn giản là thủ tiêu. Đó là những gì xảy ra mà mục sư Ferguson nghe được.
Phòng tạm giam tất nhiên không phải là một nhà tù thực sự với ổ khóa đôi ở khắp mọi nơi. Ngược lại, các lính canh đôi khi thậm chí không buồn khóa cửa. Nhưng không bao giờ có ít hơn bốn lính gác tại lối ra vào của tòa nhà, và sẽ không ai chịu đứng yên, giương mắt nhìn nếu Allan và mục sư định trốn ra.
Liệu có thể tạo ra cái gì đó hỗn loạn được không nhỉ? Allan tự hỏi. Và sau đó lẻn ra ngoài lúc lộn xộn? Việc này cũng đáng suy nghĩ đây.
Allan muốn được yên tĩnh làm việc, vì vậy ông giao cho mục sư nhiệm vụ tìm hiểu từ tụi lính gác xem họ có thời gian bao lâu.
Nghĩa là chính xác khi nào thì tên trùm sát nhân sẽ trở lại. Khi mọi thứ sẽ là quá muộn?
Mục sư hứa sẽ hỏi ngay khi mình có cơ hội. Thậm chí có thể ngay lập tức, bởi vì có tiếng lạch cạnh ngoài cửa. Người lính gác trẻ nhất và tốt bụng nhất của trung tâm tạm giam ló đầu vào với một cái nhìn cảm thông, cho biết:
Thủ tướng đã trở lại từ nước Anh và đã đến lúc thẩm vấn. Ông nào muốn bắt đầu?
**
Người đứng đầu bộ phận tình báo và an ninh quốc gia ngồi tại văn phòng mình ở Teheran trong tâm trạng khủng khiếp.
Ông đã đến London và bị người Anh mắng nhiếc. Ông, thủ tướng (gần như là thế), người đứng đầu một bộ phận chính phủ, một trong những nhân tố quan trọng nhất của xã hội Iran, lại bị bọn Anh mắng nhiếc!
Nhà vua đã không làm gì khác ngoài việc đảm bảo rằng bọn Anh kiêu ngạo kia được vui lòng. Dầu lửa trong tay của người Anh, và chính ông phải đảm bảo trừ khử bất cứ kẻ nào cố gắng thiết lập trật tự khác ở đất nước này. Và đó là không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì ai là người thực sự hài lòng với nhà vua? Không phải dân Hồi giáo, không phải những người cộng sản và chắc chắn không phải là các công nhân dầu mỏ địa phương đang làm rạc xương để nhận chừng một bảng Anh một tuần.
Thế mà bây giờ ông còn bị mắng nhiếc thay vì khen ngợi!
Ông trùm mật vụ biết mình đã mắc sai lầm khi trước đây đã hơi nặng tay với một kẻ quá khích không rõ nguồn gốc mà họ đã tóm được. Kẻ quá khích đã không chịu nói bất cứ điều gì khác ngoài yêu cầu phải được thả ngay, vì tội duy nhất mà ông đã phạm chỉ là đòi hỏi ai cũng phải xếp hàng ở cửa hàng bán thịt, kể cả nhân viên cảnh sát bí mật của nhà nước.
Khi kẻ quá khích trình bày trường hợp của mình, hắn khoanh tay và trả lời tất cả các câu hỏi “ông là ai” bằng sự im lặng. Cảnh sát trưởng không thích cái nhìn của kẻ quá khích (nó thực sự khiêu khích), do đó, ông chọn ra một vài phương pháp tra tấn của CIA (cảnh sát trưởng ngưỡng mộ các sáng tạo của người Mỹ). Đến tận lúc đó mới té ra kẻ quá khích là một trợ lý tại Đại sứ quán Anh, xui xẻo quá.
Giải pháp là cố gắng hết sức chỉnh đốn lại cho tay trợ lý trông ổn nhất, rồi thả hắn đi, nhưng rồi ngay lập tức hắn sẽ bị một chiếc xe tải tông và sau đó biến mất khỏi hiện trường. Đó là cách để tránh các cuộc khủng hoảng ngoại giao, cảnh sát trưởng lý luận, và hài lòng với chính mình.
Tuy nhiên, người Anh nhặt những gì còn lại của tay trợ lý, gửi tất cả các mảnh sang London, nơi họ dùng kính lúp kiểm tra lại. Sau đó cảnh sát trưởng đã được triệu tập đến đó và yêu cầu phải giải thích làm thế nào trợ lý của đại sứ quán tại Teheran thoạt tiên mất tích trong ba ngày rồi đột nhiên xuất hiện trên đường phố bên ngoài trụ sở chính của cảnh sát mật, nơi anh ta bị cán nát đến mức khó có thể phát hiện ra sự tra tấn mà anh ta đã chịu trước đó.
Tất nhiên cảnh sát trưởng đã kiên quyết phủ nhận không biết gì về vụ việc, trò ngoại giao là như thế, nhưng tay trợ lý này hóa ra là con trai của một ông lớn nào đó, bạn thân của Winston Churchill, thủ tướng vừa từ chức, và bây giờ là người Anh sẽ làm đến cùng.
Vì vậy, bộ phận tình báo và an ninh quốc gia đã bị miễn nhiệm trong chuyến viếng thăm vài tuần của chính ngài Churchill đến Teheran. Thay vào đó, đám vệ sĩ riêng nghiệp dư của nhà vua sẽ lo cho chuyến thăm này. Tất nhiên điều đó vượt quá khả năng của họ. Đây là một mất mát lớn về uy tín đối với cảnh sát trưởng. Và nó làm ông bị xa cách với nhà vua theo kiểu không hay ho gì.
Để quên đi những suy nghĩ cay đắng của mình, cảnh sát trưởng đã triệu tập tên đầu tiên trong số hai kẻ thù của xã hội nghe nói đang chờ đợi ở phòng tạm giam.
Ông tính sẽ thẩm vấn ngắn thôi, thủ tiêu nhanh chóng, kín đáo và hỏa táng tử thi theo truyền thống. Rồi ăn trưa, và vào buổi chiều, ông có thể còn thời gian cho cả tên kia nữa.
**
Allan Karlsson tình nguyện đi trước. Cảnh sát trưởng gặp ông ở cửa văn phòng của mình, bắt tay, mời ông Karlsson ngồi xuống, hỏi ông có muốn một tách cà phê và có lẽ một điếu thuốc nữa chăng?
Allan nghĩ, mặc dù trước đây chưa bao giờ gặp trùm sát nhân nào nhưng quả thật ông hình dung trùm sát nhân thì phải khó chịu hơn thế này nhiều. Rồi ông cảm ơn vì ly cà phê mà không cần thuốc lá nếu ngài Thủ tướng đồng ý?
Cảnh sát trưởng có thói quen luôn bắt đầu cuộc thẩm vấn của mình một cách văn minh. Chỉ vì sắp giết một ai đó thì không nhất thiết phải cư xử như một kẻ thô lỗ. Bên cạnh đó, cảnh sát trưởng thích nhìn hy vọng dâng lên trong mắt nạn nhân của mình. Con người nói chung rất ngây thơ.
Riêng tên nạn nhân này trông không có vẻ sợ hãi, chưa thôi. Và hắn đã gọi cảnh sát trưởng theo cách mà ông thích được gọi. Một khởi đầu tốt và thú vị.
Trong cuộc thẩm vấn “ông là ai”, Allan – thiếu một chiến lược được cân nhắc cẩn thận để tồn tại – cung cấp có chọn lọc một vài đoạn cuối trong câu chuyện đời mình:
cụ thể, ông là một chuyên gia chất nổ được Tổng thống Harry S Truman cử sang Trung Quốc làm một nhiệm vụ bất khả thi là chống lại cộng sản, thế rồi ông bắt đầu đi bộ về tận quê nhà ở Thụy Điển và lấy làm tiếc rằng Iran nằm trên đường đi đó, rồi Allan buộc phải nhập cảnh vào nước này mà không có thị thực cần thiết, nhưng bây giờ ông hứa sẽ ngay lập tức rời khỏi nước này nếu ngài Thủ tướng cho phép.
Cảnh sát trưởng hỏi Allan rất nhiều câu hỏi bổ sung, cả về vụ Allan Karlsson có dính líu đến cộng sản Iran khi ông bị bắt. Allan thành thật trả lời rằng ông và mấy người cộng sản đó đã tình cờ gặp gỡ và nhanh chóng thỏa thuận giúp đỡ nhau qua dãy Hy Mã Lạp Sơn.
Rồi Allan nói thêm, nếu ngài Thủ tướng định đi bộ một chuyến như thế thì đừng có quá kén chọn người giúp đỡ vì có lên mới biết những ngọn núi đó cao khủng khiếp.
Cảnh sát trưởng không hề có ý định đi bộ qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, mà cũng chẳng định thả người trước mặt mình. Nhưng có lẽ ông có thể dùng tay chuyên gia chất nổ có nhiều kinh nghiệm quốc tế này vào việc gì đó trước khi thủ tiêu hắn cho êm chuyện? Bằng một giọng nghe có vẻ rất quan tâm, cảnh sát trưởng hỏi lai lịch ông Karlsson là thế nào, liên quan đến việc bí mật ám sát những nhân vật nổi tiếng và được canh phòng cẩn mật.
Tất nhiên Allan chưa bao giờ làm chuyện nào kiểu như ngồi ngẫm nghĩ lập kế hoạch giết người như làm với cây cầu. Và ông cũng không muốn làm thế. Nhưng bây giờ ông phải nghĩ xa hơn. Có thể tay trùm sát nhân ngồi đối diện, đang rít thuốc liên tục kia có ý gì đặc biệt trong đầu chăng?
Allan nghĩ vài giây, lục lọi bộ nhớ của mình và trong lúc vội vàng chẳng kiếm ra cái gì hay hơn:
Glenn Miller.
Glenn Miller? cảnh sát trưởng lặp lại.
Allan nhớ hồi ở căn cứ Los Alamos tại New Mexico vài năm trước, mọi người đã sốc như thế nào lúc nghe tin ngôi sao nhạc jazz trẻ tuổi Glenn Miller đã mất tích sau khi chiếc máy bay quân sự Mỹ chở anh ta biến mất ngoài khơi bờ biển nước Anh.
Chính thế, Allan xác nhận với vẻ bí hiểm. Yêu cầu là nó giống như một tai nạn và tôi đã thành công. Tôi đã đảm bao sao cho cả hai động cơ bị cháy, và anh ta bị rơi một nơi nào đó giữa eo biển Anh. Không ai nhìn thấy anh ta kể từ đó. Một số phận thích hợp cho kẻ đào tẩu về phe quốc xã nếu ngài hỏi tôi, thưa Bộ trưởng.
Glenn Miller là một tên quốc xã ư? cảnh sát trưởng kinh ngạc.
Allan gật đầu xác nhận (và âm thầm xin lỗi tất cả thân nhân còn sống của Glenn Miller). Cảnh sát trưởng, về phần mình, cố gắng tiêu hóa cái tin người hùng nhạc jazz vĩ đại của mình lại là tay sai của Hitler.
Allan nghĩ tốt nhất mình nên chủ động nói trước khi ông trùm sát nhân bắt đầu hỏi một đống câu hỏi khác về những gì đã xảy ra với Glenn Miller.
Nếu ngài Thủ tướng muốn, tôi sẵn sàng khử bất cứ ai, tất nhiên với sự thận trọng tối đa, đổi lại thì sau đó chúng ta chia tay nhau như bạn bè.
Cảnh sát trưởng vẫn còn choáng váng sau phát hiện không vui về giọng ca của Moonlight Serenade, nhưng đấy không phải là lý do để xử hắn theo cách cũ. Và chắc chắn không có chuyện ông sẽ chịu đàm phán về tương lai của Allan Karlsson.
Nếu tôi muốn thì ông sẽ khử ai đó, đổi lại, tôi sẽ xem xét khả năng tha mạng cho ông, cảnh sát trưởng vừa nói vừa nghiêng người qua bàn để dập tắt điếu thuốc trong cốc cà phê còn đầy một nửa của Allan.
Vâng, ý tôi đúng là thế, tất nhiên, Allan đáp, dù tôi diễn tả hơi mơ hồ một chút.
**
Buổi thẩm vấn đặc biệt sáng nay đã kết thúc khác với thói quen của cảnh sát trưởng. Thay vì trừ khử tên (xem như là) kẻ thù của xã hội, ông đã hoãn cuộc họp để mình tĩnh tâm làm quen với tình hình mới. Sau bữa trưa, cảnh sát trưởng và Allan Karlsson gặp nhau một lần nữa và các kế hoạch đã được vạch ra.
Đấy là việc ám sát Winston Churchill trong khi ông ta được vệ sĩ riêng của nhà vua bảo vệ. Nhưng nó phải xảy ra theo cách mà không ai có thể tìm thấy bất kỳ liên quan gì tới bộ phận an ninh tình báo trong nước, chứ đừng nói tới ngài bộ trưởng. Vì chắc chắn là người Anh sẽ cực kỳ chú ý điều tra sự kiện này đến từng chi tiết, cho nên không được có bất kỳ sơ sẩy ở bất cứ điểm nào. Nếu kế hoạch thành công, kết quả kiểu gì cũng là lợi thế của cảnh sát trưởng.
Trước hết, nó sẽ khóa mồm bọn người Anh kiêu ngạo lại, những kẻ đã tước quyền sắp đặt an ninh của cảnh sát trưởng trong chuyến thăm này. Hơn nữa, cảnh sát trưởng chắc chắn sẽ được tín nhiệm giao phó tìm kiếm vệ sĩ sau cú thất bại này. Và khi khói tan, vị trí của cảnh sát trưởng sẽ được củng cố, thay vì đang suy yếu như hiện này.
Cảnh sát trưởng và Allan ngồi lắp ghép các mảnh của câu đố lại với nhau cứ như thể hai người bạn tốt nhất. Tuy nhiên, cảnh sát trưởng thỉnh thoảng lại dập điếu thuốc của mình trong tách cà phê của Allan mỗi khi cảm thấy bầu không khí trở nên quá thân mật.
Cảnh sát trưởng dần dần cung cấp các thông tin là chiếc xe chống đạn duy nhất của Iran đang trong garage của Bộ, ngay ở hầm dưới chân họ. Đó là một chiếc DeSoto Suburban được chế tạo đặc biệt. Màu vang đỏ và rất phong cách, cảnh sát trưởng nói. Khả năng lớn nhất là lực lượng vệ sĩ của nhà vua sắp yêu cầu lấy xe, vì nếu không thì làm sao họ có thể đưa Churchill từ sân bay đến cung điện của nhà vua?
Allan nói rằng một lượng thuốc nổ hợp lý cài ở gầm xe có thể là giải pháp cho vấn đề này. Tuy nhiên, lưu ý đến vấn đề của ngài Thủ tướng là không được để lại bất kỳ dấu vết nào có thể dẫn trở lại chỗ ngài, Allan đề xuất hai biện pháp đặc biệt.
Một là thuốc nổ đã nạp phải bao gồm chính xác các thành phần mà những người cộng sản của Mao Trạch Đông đã sử dụng ở Trung Quốc. Allan tình cờ có kiến thức đầy đủ về điều đó và ông chắc chắn mình có thể làm cho nó trông giống như một cuộc tấn công của cộng sản.
Bài toán kia là lượng thuốc nổ đó phải được gài và giấu trong phần trước của gầm chiếc DeSoto, nhưng nó, với các thiết bị điều khiển từ xa mà Allan cũng biết chế tạo, không nên kích nổ trực tiếp, mà phải rơi xuống để rồi phát nổ trong một vài phần mười của một giây khi nó chạm đất.
Trong thời gian đó, khối thuốc sẽ rơi đúng xuống dưới chiếc xe thứ ba đi sau, trong đó chắc chắn Winston Churchill đang ngồi hút xì gà. Cú nổ sẽ phá một lỗ ở sàn xe và gửi Churchill vào cõi vĩnh hằng, nhưng nó cũng để lại một miệng hố lớn trên mặt đất.
Bằng cách đó, chúng ta sẽ khiến mọi người nghĩ rằng thuốc nổ đã được chôn trên đường phố thay vì ai đó đã cài vào xe. Chút mẹo này chắc chắn sẽ phù hợp hoàn hảo với ngài Thủ tướng?
Cảnh sát trưởng cười khúc khích, phấn khởi và háo hức giụi luôn điếu thuốc vừa châm vào ly cà phê mới rót của Allan. Allan nói rằng ngài Thủ tướng tất nhiên đã làm theo ý ngài với điếu thuốc lá của mình và ly cà phê của Allan, nhưng nếu ngài Bộ trưởng không hài lòng lắm với cái gạt tàn ngay bên cạnh mình, và nếu Bộ trưởng có thể tạm cho Allan ra ngoài một lúc, thì Allan sẽ đến cửa hàng, mua một chiếc gạt tàn mới, đẹp cho ngài Bộ trưởng.
Trưởng cảnh sát lờ đi chuyện Allan nói về cái gạt tàn, thay vào đó ngay lập tức duyệt ý tưởng kia và bảo ông Karlsson cung cấp một danh sách đầy đủ những thứ cần thiết để có thể chuẩn bị cái xe trong thời gian ngắn nhất.
Allan biết chính xác và ghi ra tên của chín thành phần trong công thức. Ngoài ra, ông thêm cái thứ 10 – nitro-glycerine – mà ông nghĩ có thể sử dụng tốt. Và 11 – một lọ mực. Ngoài ra, Allan đề nghị mượn một đồng nghiệp đáng tin cậy nhất của ngài Thủ tướng làm trợ lý và lo chuyện mua bán, và nếu Thủ tướng cho phép bạn tạm giam của Allan, mục sư Ferguson, làm phiên dịch cho ông.
Cảnh sát trưởng lầm bầm rằng điều ông thích làm nhất với mục sư là khử ngay lập tức, bởi vì ông không thích bọn giáo sĩ, nhưng đây là trường hợp đặc biệt, vấn đề là không được mất thời gian. Vừa nói ông vừa giụi điếu thuốc vào cốc cà phê của Allan lần nữa, ra dấu là cuộc họp đã kết thúc và nhắc lại cho Allan ai là người quyết định.
**
Mấy ngày trôi qua, và tất cả mọi thứ theo đúng kế hoạch. Người đứng đầu nhóm vệ sĩ quả nhiên đã liên lạc và thông báo rằng ông ta sẽ đến lấy chiếc DeSoto vào thứ tư sau. Cảnh sát trưởng sôi lên giận dữ. Sếp của nhóm vệ sĩ đã thông báo rằng sẽ đến lấy xe chứ không thèm hỏi mượn. Cảnh sát trưởng giận đến nỗi trong một lúc, ông quên rằng thực ra thế là hoàn hảo. Thử nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra nếu tay vệ sĩ không liên hệ với Bộ để lấy xe? Và sếp của bọn vệ sĩ đằng nào cũng bị trừng phạt nhanh thôi.
Giờ thì Allan biết mình phải chuẩn bị thuốc nổ trong bao lâu.
Thật không may, mục sư Ferguson cuối cùng cũng biết những gì sắp xảy ra. Ông không chỉ phải đồng lõa trong vụ ám sát cựu Thủ tướng Churchill mà còn có lý do chính đáng để tin rằng mạng sống của mình sẽ bị kết liễu ngay sau đó. Đi gặp Chúa khi vừa giết người không phải là điều mục sư Ferguson mong mỏi.
Nhưng Allan trấn an mục sư bằng cách nói rằng thực ra ông có một kế hoạch để giải quyết cả hai vấn đề này. Đầu tiên, Allan nghĩ đó là một cơ hội tốt để ông và mục sư bỏ trốn, thứ hai là không nhất thiết phải lấy mạng của ông Churchill.
Tuy nhiên, toàn bộ kế hoạch đòi hỏi mục sư làm đúng theo lời Allan khi thời điểm đến, và mục sư hứa sẽ làm. Ông Karlsson là hy vọng sống sót duy nhất của mục sư Ferguson, vì Chúa vẫn không trả lời những lời cầu nguyện của ông. Như thế đã gần một tháng nay. Hay là Chúa giận mục sư vì có ý liên minh với cộng sản?
**
Rồi cũng đến thứ tư. Chiếc DeSoto đã được cài đặt sẵn sàng. Chỗ thuốc nổ dưới gầm của xe hóa ra hơi lớn hơn so với nhiệm vụ yêu cầu, nhưng nó được giấu kín đến nỗi dù ai xem xét cũng không thấy bất cứ điều gì lạ ở đó.
Allan chỉ cho cảnh sát trưởng xem chiếc điều khiển từ xa làm việc như thế nào, và giải thích chi tiết kết quả cuối cùng sẽ thế nào khi thuốc nổ. Cảnh sát trưởng mỉm cười đầy hạnh phúc. Và giúi điếu thuốc lá thứ 18 trong ngày vào ly cà phê của Allan.
Allan lấy ra một chén mới, mà ông đã cất đằng sau hộp đồ nghề, và đặt nó một cách đầy dụng ý cạnh chiếc bàn gần cầu thang dẫn đến hành lang, phòng tạm giam và cửa ra vào. Sau đó, rất tự nhiên, Allan kéo tay mục sư và rời khỏi garage, trong khi cảnh sát trưởng đi vòng vòng quanh chiếc DeSoto, rít điếu thuốc thứ 19 trong ngày, hài lòng tưởng tượng những gì sắp xảy ra.
Mục sư hiểu qua cách Allan tóm tay mình rất chặt là đã đến lúc rồi. Đây là lúc phải tuân theo ông Karlsson một cách mù quáng.
Họ đi ngang qua phòng tạm giam và tiếp tục về phía chỗ đón tiếp. Tới đó, Allan không thèm dừng lại ở chỗ lính gác có vũ trang mà cứ tự tin tiếp tục đi thẳng qua, vẫn tóm chắc lấy mục sư.
Các lính gác đã trở nên quá quen thuộc với Karlsson và mục sư, không mảy may nghĩ đến nguy cơ họ cố tình tẩu thoát, vì vậy thật bất ngờ khi sĩ quan trực gọi to:
– Dừng lại! Các ông định đi đâu?
Allan dừng lại với mục sư ngay trên đường ranh giới tự do, trông có vẻ rất ngạc nhiên.
– Chúng tôi được thả tự do rồi. Ngài Thủ tướng chưa báo với anh à?
Mục sư Ferguson kinh hãi, gắng gượng hít một ít ôxy qua mũi mình để không ngất đi.
Đứng nguyên chỗ đó, viên sĩ quan trực nói với giọng uy quyền. Các ông không được đi đâu cho đến khi tôi có xác nhận của ngài Thủ tướng về điều ông vừa nói với tôi.
Ba lính gác được lệnh phải canh chừng cẩn thận mục sư và ông Karlsson, trong khi viên sĩ quan trực đi xuống hành lang đến garage để xin xác nhận. Allan mỉm cười khích lệ mục sư bên cạnh mình và nói rằng chẳng bao lâu tất cả mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Trừ khi điều ngược lại xảy ra thì mới hỏng việc.
Vì cảnh sát trưởng, trước tiên là không hề cho phép mục sư và Allan ra ngoài, và, thứ hai là cũng chẳng có ý định nào để làm như vậy, nên ông phản ứng mạnh mẽ.
Anh đang nói gì? Chúng đứng ở cửa ra vào và nói dối trơ trẽn thế à? Mẹ kiếp, bây giờ chúng sẽ phải trả giá đẫm máu vì chuyện đó…
Cảnh sát trưởng hiếm khi chửi thề. Ông luôn luôn cẩn thận giữ gìn danh giá. Nhưng bây giờ ông đang giận quá. Và theo thói quen, ông giúi điếu thuốc lá của mình vào ly cà phê của gã Karlsson khốn kiếp trước khi đi thẳng lên cầu thang ra hành lang.
Hay nói đúng hơn, ông đã không đi xa hơn khỏi tách cà phê. Bởi vì riêng lần này, nó không chứa cà phê mà là nitro-glycerine nguyên chất trộn với mực đen. Vụ nổ lớn xé Phó Thủ tướng và viên sĩ quan trực thành muôn mảnh. Một đám mây trắng đùn ra khỏi garage và tiến dọc theo hành lang nơi đầu kia Allan, mục sư và ba lính canh đang đứng.
Đi thôi, Allan bảo mục sư. Và họ đi.
Cả ba lính canh quá choáng váng không có thời gian suy nghĩ xem có nên ngăn Karlsson và mục sư lại không, nhưng chỉ vài phần mười của một giây sau đó, như một hệ quả hợp lý khi garage biến thành một biển lửa – chỗ thuốc nổ dưới chiếc DeSoto, định dành cho Winston Churchill, cũng phát nổ. Điều đó chứng tỏ với Allan rằng nó đã rất chính xác để đi đến mục đích dự định. Cả tòa nhà ngay lập tức sụp xuống, và tầng trệt bắt lửa khi Allan sửa lại mệnh lệnh của mình với mục sư:
– Chạy khỏi đây ngay.
Hai trong số ba lính gác bị sức ép bắn vào tường và bốc cháy. Người thứ ba không còn đầu óc đâu để ưu tiên cho các tù nhân của mình nữa. Đầu tiên, anh ta tự hỏi trong vài giây chuyện gì đã xảy ra, rồi co giò chạy để tránh kết thúc như đồng đội của mình. Allan và mục sư đi một đằng. Người lính còn sót lại chạy đằng khác.
**
Sau khi Allan theo cách đặc biệt của mình đã sắp xếp cho bản thân và mục sư thoát khỏi trụ sở chính của cảnh sát mật, đến lượt mục sư trở nên hữu ích. Tất nhiên ông biết chỗ của hầu hết các cơ quan đại diện ngoại giao và hướng dẫn Allan suốt dọc đường tới Đại sứ quán Thụy Điển. Ở đó, Allan đã tặng mục sư cái ôm thân mật để cảm ơn ông về mọi thứ.
Allan thắc mắc mục sư định làm gì. Và dù sao, Đại sứ quán Anh ở đâu?
Không xa đây đâu, mục sư đáp, nhưng mà ông có lí do gì để đến đấy đâu? Họ đều theo Anh giáo cả rồi. Không, mục sư đã nghĩ ra một chiến lược mới. Tình huống mới đây đã dạy cho ông rằng mọi thứ dường như bắt đầu và kết thúc ở bộ phận tình báo và an ninh quốc gia. Vì vậy, vấn đề là phải điều khiển tổ chức từ bên trong. Một khi tất cả những người làm việc cho cảnh sát mật, và tất cả những người đã giúp họ đều thành tín đồ Anh giáo thì sau đó việc còn lại sẽ ngon như ăn kẹo!
Allan nói rằng ông biết một cái bệnh viện khá tốt ở Thụy Điển nếu trong tương lai mục sư vẫn có những phát kiến tương tự. Mục sư trả lời rằng ông không muốn tỏ ra vô ơn, dưới bất kỳ dạng nào. Tuy nhiên, ông đã vĩnh viễn tìm thấy sứ mệnh của mình, và đành phải nói lời tạm biệt. Mục sư định thử bắt đầu với người người lính gác còn sống sót, người đã chạy theo một hướng khác. Về cơ bản, đó là một chàng trai dễ chịu, tử tế, và có lẽ anh ta sẽ được dẫn tới con đường của đức tin chân thật.
Tạm biệt! Mục sư long trọng nói rồi bước đi.
Tạm biệt, Allan đáp.
Allan nhìn mục sư biến mất xa xa, và nghĩ rằng thế giới này đủ điên để mục sư tồn tại ngay cả trên con đường mà ông ta đã chọn.
Nhưng Allan đã nhầm. Mục sư tìm thấy người lính gác, loạng choạng trong Công viên Shahr-e giữa lòng Teheran, tay bị bỏng và khẩu súng tự động tháo chốt an toàn trong tay.
Chà, cậu đây rồi, con trai ta, mục sư thốt lên và bước đến ôm lấy anh.
Mày! Anh lính hét lên, Chính là mày!
Rồi bắn 22 viên đạn vào ngực mục sư. Lẽ ra còn nhiều hơn nhưng ổ đạn đã hết. **
Allan được phép vào Đại sứ quán Thụy Điển nhờ giọng đặc sệt Thụy Điển của mình, từ Södermanland. Nhưng sau đó mọi thứ đều rất phức tạp, vì Allan chẳng có giấy tờ tùy thân gì. Vì vậy, Đại sứ quán không thể đơn giản cấp hộ chiếu cho ông, và càng khó giúp ông trở lại Thụy Điển. Thêm nữa, Bí thư thứ ba Bergqvist nói, Thụy Điển mới áp dụng số nhận dạng cá nhân đặc biệt và nếu nó đúng thì Karlsson đã xuất cảnh nhiều năm trước, từ đó thậm chí không có một ông Karlsson nào trên hệ thống hồ sơ ở Thụy Điển.
Allan đáp lại rằng cho dù tất cả các tên người Thụy Điển bây giờ đã chuyển thành số thì ông đang và sẽ vẫn là Allan Karlsson ở làng Yxhult ngoại ô Flen và bây giờ ông muốn ngài Bí thư thứ ba vui lòng thu xếp giấy tờ cho ông.
Tạm thời, Bí thư thứ ba Bergqvist là viên chức cao cấp nhất tại đại sứ quán. Ông là người duy nhất đã không được tham dự hội nghị ngoại giao ở Stockholm. Và tất nhiên mọi thứ lại xảy ra cùng lúc. Như thể chưa đủ, vài nơi ở trung tâm Teheran vừa mới bốc cháy. Bây giờ lại mọc ra một gã chẳng ai biết, tuyên bố là người Thụy Điển. Tất nhiên có những điểm cho thấy người đàn ông này nói thật, nhưng đây là một tình huống cần phải theo nguyên tắc để không gây hại cho sự nghiệp tương lai của mình. Vì vậy, Bí thư thứ ba Bergqvist lặp đi lặp lại quyết định của mình rằng sẽ không có hộ chiếu trừ phi ông Karlsson có thể được nhận dạng chính thức.
Allan nói rằng ông thấy Bí thư thứ ba Bergqvist hết sức cứng đầu, nhưng có lẽ họ có thể giải quyết mọi thứ nếu bí thư thứ ba có chiếc điện thoại nào dùng được.
Chà, có, Bí thư thứ ba có máy. Nhưng gọi điện thoại đường dài rất tốn kém. Ông Karlsson định gọi điện thoại đi đâu?
Allan đã bắt đầu mệt mỏi vì bị Bí thư thứ ba hoạnh họe nên không trả lời mà hỏi lại:
Per Albin vẫn là thủ tướng ở nhà chứ?
Cái gì? Không, bí thư thứ ba kinh ngạc đáp. Ông ấy là Erlander. Tage Erlander. Thủ tướng Hansson đã chết mùa thu năm ngoái. Nhưng tại sao…
Ông có thể im lặng một lúc để chúng ta làm rõ ràng chuyện này không.
Allan nhấc điện thoại và gọi đến Nhà Trắng ở Washington, tự giới thiệu mình và đã được nối với thư ký cao cấp của tổng thống. Cô còn nhớ rõ ông Karlsson và cũng đã nghe rất nhiều điều tốt đẹp về ông từ tổng thống, nếu ông Karlsson thấy việc này thực sự quan trọng thì cô sẽ xem có thể đánh thức tổng thống không, bây giờ mới là tám giờ sáng ở Washington, ông Karlsson biết đấy, và Tổng thống Truman không hay dậy sớm.
Một thời gian ngắn sau đó, Tổng thống Truman vừa thức giấc đã gọi điện thoại và tán say sưa với ông Allan trong vài phút để cập nhật tin tức về nhau, trước khi rốt cuộc Allan đề cập đến vấn đề của mình. Liệu Harry có thể gọi điện cho Thủ tướng mới của Thụy Điển là Erlander và xác nhận Allan là ai, để Erlander có thể gọi cho Bergqvist – Bí thư thứ ba tại Đại sứ quán Thụy Điển ở Teheran và thông báo rằng Allan cần được lập tức cấp hộ chiếu.
Harry Truman tất nhiên sẽ làm việc này cho Allan, nhưng trước tiên hãy đánh vần tên bí thư thứ ba để ông nắm cho đúng.
Tổng thống Truman muốn biết tên ông đánh vần thế nào, Allan nói với Bí thư thứ ba Bergqvist. Nếu ông nói trực tiếp với ông ấy thì dễ hơn.
Sau khi Bí thư thứ ba Bergqvist gần như mê mụ đánh vần từng chữ cái tên mình cho tổng thống của Hoa Kỳ, ông đặt điện thoại xuống và không nói gì trong tám phút. Đó chính xác là khoảng thời gian trước khi Thủ tướng Erlander gọi điện đến đại sứ quán và ra lệnh cho Bí thư thứ ba Bergqvist: 1) ngay lập tức phát hành hộ chiếu ngoại giao cho Allan Karlsson, và 2) không chậm trễ sắp xếp phương tiện để đưa ông Karlsson trở lại Thụy Điển.
Nhưng ông ấy không có số nhận dạng cá nhân, Bí thư thứ ba Bergqvist cố gắng nói.
Tôi đề nghị ông, Bí thư thứ ba giải quyết vấn đề đó, Thủ tướng Erlander đáp. Trừ khi ông muốn trở thành Bí thư thứ tư hoặc thứ năm?
Không có chức nào là Bí thư thứ tư hoặc thứ năm ạ, Bí thư thứ ba gắng gượng.
Thế ông rút ra kết luận gì từ đó?
**
Anh hùng chiến tranh Winston Churchill đã hơi bất ngờ khi thất bại trong cuộc bầu cử ở Anh năm 1945, lòng biết ơn của người dân Anh đã không kéo dài thêm nữa.
Nhưng Churchill đã lên kế hoạch phục thù và trong khi chờ đợi, ông đi khắp thế giới. Ngài cựu Thủ tướng chẳng ngạc nhiên nếu gã hậu đậu thuộc đảng Lao Động, người đang nắm giữ nước Anh, áp dụng một nền kinh tế đưa vương quốc này vào tay những kẻ không biết làm gì với nó.
Ví dụ Ấn Độ thuộc Anh bây giờ đang trên đà tan rã. Phe Ấn Độ giáo và Hồi giáo tất nhiên không thể hòa thuận được, và ở giữa là gã Mahatma Gandhi chết tiệt ngồi khoanh chân nhịn ăn vì không hài lòng với chuyện gì đó. Chiến lược chiến tranh kiểu quái gì thế không biết? Với chiến lược đó, họ sẽ đi đến đâu trước cuộc tấn công bằng bom của bọn quốc xã trên khắp nước Anh?
Đông Phi thuộc Anh còn tồi tệ hơn, chẳng sớm thì muộn những người da đen sẽ đòi tự chủ.
Churchill hiểu rằng không phải mọi thứ vẫn như xưa, tuy nhiên người Anh cần một chỉ huy có thể nói cái gì là cần thiết, và có quyền lực để thực thi. Họ không cần một tay xã hội chủ nghĩa trá hình như Clement Atlee (Winston Churchill nằm trong số những người nghĩ rằng bệ đi tiểu công cộng cũng là một hình thái tương tự chủ nghĩa xã hội).
Còn về Ấn Độ thì trận chiến đã thất bại, Churchill biết. Nó đã đi theo cách đó nhiều năm, và trong chiến tranh, việc cho phép Ấn Độ độc lập là cần thiết để người Anh giữa lúc khó khăn sinh tồn sẽ không phải đối phó thêm với một cuộc chiến tranh dân sự.
Nhưng ở nhiều nơi khác vẫn còn dư thời gian để ngăn chặn tiến trình này. Kế hoạch mùa thu của Churchill là du lịch đến Kenya và tự mình tìm hiểu nơi đó. Nhưng trước tiên ông sẽ ghé qua Teheran uống trà với nhà vua.
Không may ông đã hạ cánh trong bối cảnh hỗn loạn. Hôm trước, cái gì đó đã phát nổ tại bộ tình báo và an ninh trong nước.
Cả tòa nhà đã sụp đổ và cháy rụi. Gã cảnh sát trưởng ngu ngốc rõ ràng cũng thiệt mạng trong vụ nổ, gã chính là người ngu đến nỗi dám mạnh tay với nhân viên vô tội của Đại sứ quán Anh.
Cảnh sát trưởng mất đi không phải là một tổn thất lớn, nhưng vấn đề là chiếc xe hơi chống đạn duy nhất của nhà vua đã bị lửa thiêu rụi, và điều này khiến cuộc gặp giữa nhà vua và Churchill bị ngắn hơn nhiều so với dự kiến, và vì lý do an ninh, nó đã diễn ra ngay tại sân bay.
Tuy nhiên, cũng may là chuyến thăm viếng đã hoàn thành. Theo nhà vua, tình hình đã được kiểm soát. Vụ nổ tại trụ sở cảnh sát mật là chuyện đáng bận tâm, và cho đến nay họ chưa tìm ra nguyên nhân. Nhưng việc cảnh sát trưởng chết trong vụ nổ không làm nhà vua bị khó khăn gì. Dạo này có vẻ như ông ta đã bắt đầu xa cách dần rồi.
Tóm lại, tình hình chính trị vẫn đang ổn định. Họ đã bổ nhiệm một giám đốc an ninh mới. Và ghi nhận thành tựu của Công ty dầu khí Anh-Iran. Dầu mang lại sự giàu có tuyệt vời cho cả Anh và Iran. Nói thật ra thì chủ yếu là Anh, nhưng nó cũng không đến nỗi bất công lắm vì đóng góp duy nhất từ Iran trong dự án là lao động giá rẻ. Và tất nhiên, cả dầu nữa.
Nhìn chung là Iran hòa bình và thịnh vượng, Winston Churchill tổng kết trong khi chào tùy viên quân sự Thụy Điển mới được lấy chỗ trên máy bay trở lại London.
Rất vui vì ngài đang hài lòng, thưa ngài Churchill, Allan đáp và nói thêm rằng trông ngài rất tươi tỉnh.
**
Sau khi nối chuyến tại London, cuối cùng Allan đã hạ cánh xuống sân bay Bromma ở Stockholm, lần đầu tiên trong mười một năm ông lại thấy mình đứng trên đất Thụy Điển. Đó là vào cuối mùa thu năm 1947, thời tiết bình thường.
Tại sảnh đến, một người đàn ông trẻ đang đợi Allan. Anh ta nói mình là trợ lý của Thủ tướng Chính phủ Erlander và thủ tướng muốn gặp Allan càng sớm càng tốt, nếu có thể thu xếp được.
Allan đồng ý, và vui vẻ đi theo viên trợ lý, anh ta tự hào mời Allan ngồi vào chiếc xe mới coong của chính phủ, Volvo PV 444 màu đen sáng bóng.
Ông đã bao giờ thấy cái gì khủng thế chưa, ông Karlsson? viên trợ lý vốn mê xe hơi hỏi. Bốn mươi bốn mã lực đấy!
Tuần trước tôi thấy một chiếc DeSoto màu vang đỏ rất đẹp, Allan đáp. Nhưng chiếc xe của anh ở tình trạng tốt hơn.
Trên đường từ Bromma tới trung tâm của Stockholm, Allan nhìn xung quanh với vẻ quan tâm. Thật xấu hổ là trước đây ông chưa bao giờ được lên thủ đô. Đó là một thành phố xinh đẹp, quả thật vậy, với nước và những cây cầu khắp nơi, mà không cái cầu nào bị nổ cả.
Đến văn phòng chính phủ, Allan được dẫn theo hành lang tới khu của thủ tướng. Thủ tướng chào đón Allan ‘Ông Karlsson! Tôi đã nghe rất nhiều về ông!’ rồi đẩy trợ lý ra khỏi phòng và đóng cửa lại.
Allan không nói ra, nhưng thầm nghĩ mình lại không nghe nói gì về Tage Erlander. Thậm chí Allan không biết Thủ tướng theo phe Tả hay Hữu. Chắc chắn ông phải thuộc một trong hai phe đó, bởi vì cuộc sống đã dạy Allan rằng người ta nhất định phải chọn bên này hoặc bên kia.
Dù sao, Thủ tướng thích phe nào cũng được. Vấn đề bây giờ là nghe xem ông nói gì.
Hóa ra Thủ tướng đã gọi điện lại cho Tổng thống Truman ngay hôm đó và có một cuộc trò chuyện dài về Allan. Thế nên bây giờ thủ tướng đã biết tất cả về…
Nhưng rồi Thủ tướng ngừng lời. Ông mới làm thủ tướng chưa đầy một năm và có rất nhiều điều phải học hỏi. Tuy nhiên, ông biết một điều là trong những tình huống nhất định, tốt nhất là không biết gì, hay nói cách khác là không thể chứng minh rằng mình đã biết.
Vì vậy, Thủ tướng bỏ lửng câu nói của mình. Những thông tin Tổng thống Truman đưa ra liên quan đến Allan Karlsson mãi mãi sẽ là một bí mật giữa họ. Thay vào đó, Thủ tướng đi thẳng vào vấn đề:
Tôi hiểu rằng ông không có việc gì để trở lại Thụy Điển, vì vậy tôi đã sắp xếp một khoản tiền mặt cho những đóng góp vì đất nước… có thể nói thế… Dù sao, đây là 10.000 crown cho ông.
Rồi Thủ tướng trao một phong bì tiền dày cộp và đề nghị Allan ký nhận. Mọi thứ đúng theo sách vở.
Rất cảm ơn ngài, thưa Thủ tướng. Với sự hào phóng này, tôi sẽ có đủ tiền mua quần áo mới và chỗ ngủ sạch sẽ tối nay ở khách sạn. Thậm chí tôi có thể được đánh răng lần đầu tiên kể từ tháng Tám năm 1945. Thủ tướng ngắt lời ngay khi Allan sắp mô tả tình trạng cái quần lót của mình, và thông báo với ông rằng tất nhiên số tiền không đi kèm bất kỳ điều kiện nào, nhưng ông vẫn muốn tiết lộ với ông Karlsson rằng một số hoạt động liên quan đến phân tách hạt nhân đang được thực hiện ở Thụy Điển và Thủ tướng muốn ông Karlsson nhìn xem.
Sự thật là Thủ tướng Erlander không biết phải làm gì với một số vấn đề quan trọng mà ông đột nhiên phải gánh vác khi trái tim của Per Albin ngừng đập mùa thu năm ngoái. Một trong số đó là Thụy Điển nên chọn lập trường nào trước thực tế rằng hiện nay có một thứ được gọi là bom nguyên tử. Tổng Chỉ huy Jung đã gặp ông về việc đất nước phải tự vệ chống lại cộng sản như thế nào, dù sao giữa Stalin với Thụy Điển chỉ cách có nước Phần Lan nhỏ xíu.
Có hai mặt của vấn đề. Một mặt, Tổng Chỉ huy Jung đã kết hôn vào một gia đình giàu có nền nếp và ai cũng biết rằng ông hay ngồi nhâm nhi chút rượu mạnh với vị vua già. Một người dân chủ xã hội như Erlander không thể chịu được ý tưởng rằng Gustav V thậm chí có thể mơ tưởng gây ảnh hưởng đến chính sách quốc phòng Thụy Điển.
Mặt khác, Erlander không thể loại trừ khả năng rằng có lẽ Tổng Chỉ huy đúng. Không thể tin vào Stalin và cộng sản, nếu họ có ý muốn mở rộng địa bàn của mình về phía Tây thì Thụy Điển gần một cách đáng lo ngại.
Bộ nghiên cứu quân sự Thụy Điển đã chuyển tất cả các chuyên gia năng lượng hạt nhân (ít ỏi) đến khu AB Atomenergi[12] mới xây dựng. Bây giờ các chuyên gia ngồi ở đó, cố gắng tìm hiểu chính xác những gì đã xảy ra ở Hiroshima và Nagasaki. Ngoài ra, họ có một nhiệm vụ, nói theo lối thông thường là: phân tích tương lai hạt nhân theo kiểu Thụy Điển. Nó không bao giờ được nói thẳng ra, tốt nhất là như vậy, nhưng Thủ tướng Erlander đã hiểu rằng nhiệm vụ được xây dựng một cách mơ hồ này, nói theo ngôn ngữ thông thường có thể hiểu là:
Chúng ta làm thế nào để chế tạo bom nguyên tử của chính mình, nếu nó là cần thiết?
Và bây giờ câu trả lời đang ngồi ngay đối diện Thủ tướng. Tage Erlander biết điều đó, nhưng hơn hết, ông biết mình không muốn bất cứ ai khác biết là ông biết. Chính trị là quan sát xem chỗ nào để đặt chân mình vào.
Vì vậy, ngày hôm trước, Thủ tướng Erlander đã liên lạc với người đứng đầu nghiên cứu tại AB Atomenergi, Tiến sĩ Sigvard Eklund, và đề nghị ông ta đến phỏng vấn Allan Karlsson, và hoàn toàn có thể hỏi ông Karlsson xem liệu ông có thể tham gia gì trong các hoạt động của AB Atomenergi. Giả định là ông Karlsson quan tâm, Thủ tướng sẽ thấy vào ngày hôm sau.
Tiến sĩ Eklund không hài lòng lắm với chuyện thủ tướng can dự vào việc Eklund tuyển ai làm việc trong dự án nguyên tử của mình. Thậm chí ông ngờ rằng Allan Karlsson được chính phủ cử đến làm điệp viên Dân chủ Xã hội trong tổ chức. Nhưng ít nhất ông cũng đã hứa hẹn phỏng vấn Karlsson, mặc dù lấy làm lạ là Thủ tướng chẳng nói gì về trình độ của người đàn ông này. Erlander đã chỉ lặp đi lặp lại từ ‘kỹ càng’. Tiến sĩ Eklund phải hỏi ông Karlsson kỹ càng về xuất thân của ông.
Về phần mình Allan nói rằng ông không từ chối gặp Tiến sĩ Eklund hoặc bất kỳ vị tiến sĩ nào khác, nếu ngài Thủ tướng muốn.
**
Mười ngàn Crown là một món tiền khủng, Allan nghĩ, và đặt phòng tại khách sạn đắt tiền nhất mà ông có thể thấy.
Nhân viên tiếp tân tại khách sạn Grand nghi ngờ người đàn ông bẩn thỉu, ăn mặc lôi thôi cho đến khi Allan chìa ra tấm hộ chiếu ngoại giao Thụy Điển của mình.
Tất nhiên chúng tôi có phòng cho ông, thưa ông Tùy viên quân sự, nhân viên tiếp tân thông báo. Ông muốn trả bằng tiền mặt hay chúng tôi sẽ gửi hóa đơn cho Bộ Ngoại giao ạ?
Tiền mặt đi, Allan đáp. Có cần trả tiền trước không?
Ồ, không, thưa ông Tùy viên. Tất nhiên là không ạ! Nhân viên lễ tân cúi rạp đầu. Nếu nhân viên tiếp tân thấy được tương lai, chắc chắn anh ta sẽ trả lời khác.
**
Ngày hôm sau, Tiến sĩ Eklund hoan nghênh Allan Karlsson, mới tắm rửa và ăn mặc khá chỉnh tề, tại văn phòng ở Stockholm của mình. Tiến sĩ mời Allan ngồi xuống và dùng cà phê, thuốc lá, giống như ông trùm sát nhân ở Teheran đã từng làm (tuy nhiên Eklund giụi thuốc lá trong cái gạt tàn của mình.)
Tiến sĩ Eklund không hài lòng với cách ngài Thủ tướng can thiệp vào quá trình tuyển dụng của mình. Đây là việc của các nhà khoa học, không phải của chính trị gia – càng không phải cho chính trị gia phe Dân chủ Xã hội!
Trên thực tế, Tiến sĩ Eklund đã có thời gian để thảo luận về vấn đề này với Tổng Chỉ huy trên điện thoại, và được ngài ủng hộ phía sau. Đó là, nếu người đàn ông mà Thủ tướng cử đến không có năng lực cần thiết thì ông ta sẽ không được tuyển dụng. Thế thôi!
Về phần mình Allan cảm thấy những làn sóng tiêu cực trong phòng và trong một lúc nó gợi nhớ về lần đầu tiên ông gặp Tống Mỹ Linh vài năm trước đó. Mọi người muốn hành xử như thế nào cũng được, nhưng Allan cho rằng nói chung không việc gì phải tỏ ra hung hăng nếu có thể kiềm chế được.
Cuộc gặp gỡ giữa hai người đàn ông khá ngắn ngủi:
Thủ tướng đã yêu cầu tôi phỏng vấn ông thật kỹ, ông Karlsson, để xác định xem ông có phù hợp để làm việc trong tổ chức của chúng tôi không. Và đó là điều tôi phải làm, tất nhiên nếu ông cho phép, ông Karlsson!
Vâng, được thôi, Allan nghĩ rằng nó cũng là hợp lý nếu ông Tiến sĩ muốn biết thêm về Allan và kỹ càng là một đức tính tốt nên ông Tiến sĩ cứ hỏi đi, đừng ngại đặt bất kỳ câu hỏi nào.
Vâng, thế thì, tiến sĩ Eklund nói. Liệu chúng ta có thể bắt đầu bằng nghiên cứu của ông Karlsson…
Chẳng có gì nhiều để khoe khoang, Allan đáp. Chỉ có ba năm.
Ba năm? Tiến sĩ Eklund kêu lên. Chỉ có ba năm nghiên cứu học thuật, ông Karlsson, ông khó có thể trở thành nhà vật lý, toán học hay nhà hóa học được?
Không, tổng cộng là ba năm. Tôi bỏ học trước ngày sinh nhật lần thứ 9 của mình.
Giờ thì Tiến sĩ Eklund phải cố gắng để ngồi yên. Tức là người đàn ông này không có tí giáo dục nào! Thậm chí không biết ông ta có thể đọc và viết không nữa? Tuy nhiên, Thủ tướng đã yêu cầu ông…
Ông Karlsson, ông có bất cứ kinh nghiệm chuyên môn nào có thể xem như có liên quan cho công việc mà ông cho rằng chúng tôi đang thực hiện tại AB Atomenergi?
Vâng, có, trong chừng mực nào đó, Allan có kinh nghiệm. Ông đã làm việc rất nhiều ở Mỹ, tại cơ sở Los Alamos, New Mexico.
Gương mặt của Tiến sĩ Eklund sáng lên. Rốt cuộc, Erlander cũng có lý do của mình. Ai cũng biết những thành tựu đã đạt được tại Los Alamos. Ông Karlsson đã làm gì ở đó?
Tôi phục vụ cà phê, Allan trả lời.
Cà phê ư? Mặt tiến sĩ Eklund tối sầm lại.
Vâng, và thỉnh thoảng cả trà nữa. Tôi là một trợ lý chung và người phục vụ.
Tức là ông, ông Karlsson là một trợ lý chung tại Los Alamos… ông đã bao giờ tham gia vào bất kỳ quyết định nào liên quan tới tổng hợp hạt nhân chưa?
Không, Allan đã trả lời, lần gần nhất có lẽ là lúc tôi đã buột miệng nói điều gì đó tại một cuộc họp nơi tôi đang chịu trách nhiệm phục vụ cà phê, và không nên xen ngang.
Ông Karlsson đã buột miệng nói gì đó tại một cuộc họp, nơi ông vốn là một người phục vụ… rồi sau đó chuyện gì đã xảy ra?
Vâng, chúng tôi bị ngắt ngang … rồi tôi được yêu cầu rời khỏi phòng.
Tiến sĩ Eklund chán hẳn khi ngồi đó, đối diện với Allan. Thủ tướng đã cử cái giống gì đến cho ông đây? Erlander nghĩ một tay bồi bàn bỏ học trước khi lên chín tuổi có thể được tuyển dụng để chế tạo bom nguyên tử cho Thụy Điển? Ngay cả với một nhà dân chủ xã hội thì luận điểm ngu ngốc cho rằng mọi người bình đẳng cũng phải áp dụng có giới hạn thôi chứ?
Trước hết tiến sĩ Eklund tự nhủ rằng sẽ là sự lạ nếu ông thủ tướng tập sự kia có thể tồn tại đến cuối năm, rồi ông nói với Allan rằng nếu ông Karlsson không có gì nói thêm thì cuộc gặp của họ có thể kết thúc tại đây. Tiến sĩ Eklund nghĩ rằng hiện nay không có việc gì cho ông Karlsson cả. Người trợ lý, pha cà phê cho các học giả tại AB Atomenergi đúng là chưa bao giờ đến Los Alamos, nhưng Tiến sĩ Eklund nghĩ rằng cô ấy vẫn làm tốt công việc. Hơn nữa, thậm chí Greta còn có thời gian để dọn sạch văn phòng và đó là một ưu điểm.
Allan ngồi im lặng một lát, và tự hỏi liệu mình có nên khai sáng cho ông tiến sĩ một thực tế là, ngược với tất cả các học giả của tiến sĩ Eklund, và chắc chắn với cả Greta trong lĩnh vực này, ông thực sự biết cách chế tạo một quả bom nguyên tử.
Nhưng rồi Allan quyết định là Tiến sĩ Eklund không đáng được giúp đỡ nếu ông ta không đủ sáng suốt để hỏi Allan điều đó. Thêm nữa, cà phê của Greta có vị như nước rửa chén.
Allan đã không được tuyển vào AB Atomenergi, trình độ của ông thiếu hụt thảm hại. Nhưng ông vẫn hài lòng khi ngồi trên ghế đá công viên bên ngoài Grand Hotel, nhìn ra khung cảnh rất đẹp với cung điện Hoàng gia bên kia hồ nước. Mà làm sao mà không hài lòng cho được? Ông vẫn còn phần lớn số tiền mà Thủ tướng đã thân mật trao cho. Ông đang ở trong một khách sạn tuyệt đẹp, ăn nhà hàng mỗi tối và ngày đặc biệt đầu tháng Giêng này, ông ngồi ngửa mặt đón ánh nắng mặt trời, cảm thấy nó đang sưởi ấm cả cơ thể và linh hồn mình.
Tất nhiên, chỗ ông đang ngồi hơi bị lạnh mông, và vì thế thật đáng ngạc nhiên khi một người khác đến và ngồi cùng trên chiếc ghế, ngay cạnh Allan.
Allan lịch sự chào ông ta bằng tiếng Thụy Điển.
– Chào ông, ông Karlsson, người đàn ông trả lời bằng tiếng Anh.