1939-1945
Ngày 1 tháng Chín năm 1939, con tàu treo cờ Tây Ban Nha của Allan bỏ neo tại bến cảng ngoài New York. Allan đã định ghé mắt vào một nước lớn ở phương Tây rồi lên tàu đi tiếp, nhưng cùng ngày đó những đồng minh của tổng tư lệnh đã tiến vào Ba Lan và chiến tranh lại bùng phát ở châu Âu. Con tàu Tây Ban Nha đã bị bắt giữ, sau đó bị tịch thu và phải phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ cho đến khi hòa bình năm 1945.
Tất cả đàn ông trên tàu đã được gửi đến sở nhập cư trên đảo Ellis. Ở đó, các viên chức nhập cư hỏi từng người những câu hỏi tương tự: 1) Tên? 2) Quốc tịch? 3) Nghề nghiệp? 4) Mục đích của chuyến thăm Hoa Kỳ?
Các bạn đồng hành của Allan trên tàu đều khai họ đơn giản là chỉ là những thủy thủ Tây Ban Nha giờ không có nơi nào để đi vì tàu của họ đã bị giữ. Sau đó họ đã nhanh chóng được nhập cảnh vào nước này, nơi họ phải cố gắng hết sức.
Nhưng Allan thì khác với tất cả bọn họ. Trước hết, anh có một tên mà phiên dịch tiếng Tây Ban Nha không thể phát âm. Rồi anh nói rằng mình đến từ Suecia. Và hơn hết vì anh khai thật rằng mình là một chuyên gia chất nổ, đã từng kinh doanh vật liệu nổ, sản xuất pháo, và gần đây nhất có kinh nghiệm trong cuộc chiến giữa người Tây Ban Nha với nhau.
Sau đó Allan lấy ra bức thư của Tướng Franco. Phiên dịch tiếng Tây Ban Nha kinh hãi dịch nó cho nhân viên nhập cảnh, người này lập tức mời cấp trên của mình xuống, và cấp trên lại mời cấp trên nữa.
Quyết định đầu tiên là tên Thụy Điển phát xít ngay lập tức sẽ được gửi trở lại nơi hắn xuất phát.
Miễn là các bạn có thể kiếm một con tàu cho tôi, thì tôi rất vui được đi, Allan nói.
Nói thì dễ hơn làm. Thay vào đó, các cuộc thẩm vấn tiếp tục. Và nhân viên di trú càng tìm hiểu Allan thì càng thấy tay Thụy Điển này có vẻ chẳng phát xít tẹo nào. Và anh ta không phải là cộng sản. Hoặc là người theo chủ nghĩa xã hội quốc gia. Đơn giản anh ta chẳng là gì cả ngoài một chuyên gia chất nổ. Câu chuyện anh ta làm thế nào thành bạn thân với Tướng Franco ngớ ngẩn đến mức khó có thể bịa ra được.
Sếp cao nhất ở sở nhập cư có một người anh ở Los Alamos, New Mexico, và theo như ông biết thì ông này làm việc với bom và những thứ tương tự cho quân đội. Chẳng có ý tưởng gì tốt hơn, họ tạm thời nhốt Allan lại, sau đó viên sếp sở nhập cư trao đổi về trường hợp này với anh trai mình khi họ gặp nhau tại trang trại gia đình ở Connecticut vào Lễ Tạ Ơn. Người anh trả lời rằng ông chẳng vui mừng gì nhận về một người theo phe Franco, nhưng họ đang tuyệt vọng không kiếm đâu ra người có chuyên môn nên có thể tìm một số việc phù hợp, không đòi hỏi cao và không quá bí mật cho gã người Thụy Điển, nếu điều đó giúp ích cho em trai ông.
Viên sếp nhập cư trả lời rằng thế thì đỡ cho ông quá, rồi hai anh em chén gà tây. Một thời gian sau, Allan đã bay chuyến bay đầu tiên trong đời mình và cuối thu năm 1939, ông đến cơ sở quân đội Mỹ tại Los Alamos, nơi chẳng bao lâu họ phát hiện ra rằng Allan không biết một từ tiếng Anh nào. Một trung úy nói tiếng Tây Ban Nha được giao nhiệm vụ tìm hiểu kỹ năng chuyên nghiệp của gã người Thụy Điển, và Allan đã phải viết ra các công thức của mình cho trung úy. Trung úy xem xét, tìm thấy trong đó bằng chứng về một năng lực sáng tạo đáng kể, nhưng thở dài vì thực tế rằng tác dụng chất nổ của Allan khó mà làm nổ được một chiếc xe hơi.
Ồ, được chứ, Allan đáp. Một chiếc xe với một người đàn ông ở trong. Tôi đã thử rồi mà.
Allan có thể ở lại, đầu tiên là ở trong doanh trại xa nhất, nhưng năm tháng trôi qua và Allan bắt đầu nói được tiếng Anh, ông được phép di chuyển tự do hơn trong căn cứ. Là một trợ lý rất có óc quan sát, vào ban ngày, Allan đã học được cách làm thuốc nổ với phẩm chất hoàn toàn khác với thứ thuốc mà ông đã đặt trong hố sỏi phía sau nhà mình vào những ngày chủ nhật hồi còn ở nhà. Và vào buổi tối, khi hầu hết thanh niên trai tráng tại căn cứ Los Alamos vào thị trấn để tán gái thì Allan ngồi trong thư viện cấm ở căn cứ và nghiên cứu kỹ thuật làm pháo hoa cao cấp.
**
Allan học hỏi ngày càng nhiều, trong khi chiến tranh ở châu Âu (và cuối cùng là thế giới) càng lan rộng. Ông không thực hành được những kiến thức mới của mình tí nào vì vẫn còn là một trợ lý (mặc dù được đánh giá cao), nhưng ít nhất ông đã có chúng trong đầu. Bây giờ không nói đến nitroglycerine và natri nitrat nữa – nó là cho dân nghiệp dư – mà về hydro và uranium và những thứ khác thường nhưng mà cực kỳ phức tạp khác.
Từ năm 1942 lệnh giới nghiêm cực kỳ nghiêm ngặt có hiệu lực tại Los Alamos. Nhóm được Tổng thống Roosevelt trao một nhiệm vụ bí mật, tạo ra một quả bom nổ một lần có thể cùng lúc phá hủy mười hay hai mươi cây cầu Tây Ban Nha nếu cần, Allan nghĩ. Các trợ lý vẫn còn cần thiết dù phải ở trong phòng kín mít, và Allan bây giờ được tin cẩn đến mức được phép biết những thông tin tối mật.
Ông phải thừa nhận rằng những người Mỹ này rất thạo nghề. Thay vì những gì Allan đã quen, bây giờ họ thử nghiệm phân chia các nguyên tử tí hon để sự bùng nổ trở nên khủng khiếp hơn bất kỳ thứ gì mà thế giới từng biết trước đó.
Và vào tháng Tư năm 1945, họ đã gần như hoàn thành. Các nhà nghiên cứu – và cả Allan – biết cách tạo ra một phản ứng hạt nhân, nhưng họ không biết làm thế nào để kiểm soát nó. Vấn đề thu hút Allan khi ông ngồi một mình trong thư viện vào buổi tối, cố gắng tìm ra một cái gì đó mà không ai yêu cầu ông phải làm. Viên trợ lý Thụy Điển đã không chịu lùi bước, và một buổi tối… chao ơi! Một buổi tối… ông đã tìm ra giải pháp!
Mùa xuân đó, mỗi tuần, hầu hết các nhân vật quan trọng trong quân đội đã ngồi hàng giờ họp với các chuyên gia vật lý hàng đầu thế giới, với Oppenheimer, đứng đầu các nhà khoa học và Allan rót cà phê cho họ.
Các nhà khoa học vò đầu, đòi Allan thêm cà phê. Các nhà quân sự gãi xước cằm, đòi Allan thêm cà phê. Tất cả đều tuyệt vọng tìm kiếm một giải pháp và đòi Allan thêm cà phê. Và cứ thế hết tuần này sang tuần khác. Allan đã ung dung có trong tay giải pháp cho vấn đề của nhóm từ lâu, nhưng ông nghĩ rằng mình không nên cầm đèn chạy trước ôtô, do đó, ông giữ những gì ông biết cho riêng mình.
Cho đến một lần, ông ngạc nhiên khi nghe chính mình nói:
– Xin lỗi, nhưng tại sao ngài không chia uranium thành hai phần bằng nhau?
Ông chỉ buột miệng trong khi đang rót cà phê vào cốc của Oppenheimer.
Anh nói sao? Oppenheimer nghe những gì Allan vừa nói, bị sốc vì người bồi bàn dám mở miệng.
Allan không có lựa chọn nào khác ngoài tiếp tục:
Vâng, nếu ta chia uranium thành hai phần bằng nhau và đảm bảo rằng các phần này hợp lại với nhau đúng lúc, thì nó sẽ nổ tung khi ta muốn, chứ không phải nổ ở đây tại căn cứ này.
Các phần bằng nhau? Oppenheimer hỏi. Lúc đó có rất nhiều thứ quay tít trong đầu ông, nhưng ông chỉ nói được có thế.
Vâng, có lẽ ngài có lý về điểm đó, thưa giáo sư. Các phần không cần phải bằng nhau về kích thước, điều quan trọng là chúng đủ lớn khi chúng đến với nhau.
Trung úy Lewis, người đã bảo lãnh cho Allan làm trợ lý, nhìn như muốn giết tươi người Thụy Điển, nhưng một trong những nhà khoa học trên bàn đã phản ứng thay bằng cách nói to suy nghĩ của mình:
Nhưng anh nghĩ chúng ta làm cách nào để đưa chúng lại với nhau? Và khi nào? Trong không khí ư?
Chính xác, thưa giáo sư. Sai lầm ư, ở Vật lý học hay Hóa học? Dù sao thì làm nó nổ tung không phải là vấn đề. Vấn đề là ta không thể kiểm soát vụ nổ thực tế. Với một khối lượng nguy hiểm chia thành hai thì có hai khối lượng không nguy hiểm, đúng không? Và ứng dụng ngược lại, từ hai khối lượng không nguy hiểm, ta có thể đạt được một khối lượng nguy hiểm.
Thế làm thế nào để ta đưa chúng lại với nhau, Ông… tôi xin lỗi, nhưng ông là ai? Oppenheimer hỏi.
Allan, Allan đáp.
Và, ông Allan, ông nghĩ làm thế nào để chúng ta có thể đưa chúng lại với nhau? Oppenheimer tiếp tục.
Với một lượng chất nổ thông thường, hàng ngày, Allan đáp. Cái đó tôi khá rành, nhưng tôi chắc chắn các vị có thể tự tính được.
Giáo sư Vật lý nói chung, và các nhà khoa học quân sự hàng đầu nói riêng, không phải là ngu ngốc. Trong một vài giây, Oppenheimer đã tính xong hàng mét các phương trình và đi đến kết luận rằng rất có khả năng là người phục vụ bàn đã đúng. Hãy tưởng tượng rằng một cái gì đó vô cùng phức tạp lại có một giải pháp đơn giản đến thế! Một lượng thuốc nổ thông thường hàng ngày ở đuôi của quả bom có thể được kích hoạt từ xa và đẩy một lượng uranium-235 không nguy hiểm về phía trước, để nhập với một lượng không nguy hiểm khác. Ngay lập tức nó sẽ trở thành nguy hiểm. Các nơtron sẽ bắt đầu di chuyển, các nguyên tử uranium sẽ bắt đầu phân chia. Các phản ứng dây chuyền sẽ diễn ra…
Bùm! Oppenheimer reo lên.
Chính xác, Allan nói. Tôi thấy rằng ngài đã tính ra, thưa giáo sư. Có vị nào muốn thêm cà phê không ạ?
Vào đúng lúc đó, cánh cửa căn phòng bí mật mở ra và Phó Tổng thống Truman bước vào trong chuyến viếng thăm hiếm hoi, không báo trước nhưng thỉnh thoảng vẫn lặp lại của mình.
Cứ ngồi xuống đi, Phó Tổng Thống nói với những người đàn ông đang lập tức đứng nghiêm hết cả lên.
Để an toàn, ngay cả Allan cũng ngồi xuống một trong các ghế trống quanh bàn. Nếu một Phó Tổng Thống bảo bạn ngồi xuống thì là tốt nhất là cứ ngồi xuống, kiểu ở Mỹ nó thế, ông nghĩ.
Khi đó Phó Tổng Thống yêu cầu Oppenheimer báo cáo tình hình, vị giáo sư vội đứng bật dậy một lần nữa và trong lúc vội vàng không thể nghĩ ra bất cứ điều gì khác để nói hơn là ông Allan đang ngồi trong góc kia vừa giải quyết được vấn đề còn lại là làm thế nào để kiểm soát vụ nổ. Giải pháp của ông Allan chưa được chứng minh là đúng, nhưng Oppenheimer nói rằng, thay mặt cho tất cả những người hiện diện ở đây, ông tin chắc là vấn đề đã được giải quyết xong và trong thời hạn ba tháng, họ có thể có một vụ nổ thử nghiệm.
Phó Tổng thống nhìn quanh bàn và nhận được những cái gật đầu đồng ý. Trung úy Lewis dần dần bắt đầu thở lại. Cuối cùng, cặp mắt của Phó Tổng thống nhìn vào Allan.
Tôi tin rằng, ông Allan, ông là người hùng ngày hôm nay. Tôi nghĩ mình cần ăn chút gì vào bụng trước tôi trở về Washington. Ông có vui lòng ăn cùng tôi không?
Allan nghĩ rõ ràng các nhà lãnh đạo thế giới có một đặc điểm chung là mời bạn ăn tối ngay nếu họ hài lòng với điều gì đó, nhưng ông không nói ra. Thay vào đó, ông cám ơn Phó Tổng thống về lời mời và họ cùng nhau rời khỏi phòng. Oppenheimer bị bỏ lại đứng cạnh cái bàn dài, trông nhẹ nhõm và đau khổ.
**
Phó Tổng thống Truman ra lệnh đóng cửa cả nhà hàng Mexico ưa thích của mình trung tâm Los Alamos, nên chỉ có Allan và Truman ở đây, ngoại trừ khoảng mười vệ sĩ rải rác ở các góc khác nhau.
Trưởng bộ phận an ninh lưu ý rằng ông Allan là không phải là người Mỹ và thậm chí chưa được kiểm tra xem có thích hợp để gặp riêng Phó Tổng thống không, nhưng Truman bác bỏ phản đối của viên sĩ quan an ninh với nhận xét rằng hôm nay ông Allan đã làm được nghĩa cử yêu nước lớn lao nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
Phó Tổng thống đang có tâm trạng tuyệt vời. Ngay sau khi ăn tối, thay vì đi tới Washington, ông ra lệnh cho Air Force 2 đến Georgia, nơi Tổng thống Roosevelt đang
một nhà điều dưỡng để chữa bệnh bại liệt của mình. Tổng thống sẽ muốn trực tiếp nghe tin này, Harry Truman chắc chắn về điều đó.
Tôi sẽ gọi món, vì vậy ông có thể chọn đồ uống, Harry Truman vui vẻ nói và chuyển menu rượu vang cho Allan.
Sau đó, Truman quay sang bồi bàn trưởng đang gập người nghe gọi đủ các món từ tacos, enchilada, tortilla ngô và rất nhiều thứ khác.
Dạ thưa ngài uống gì ạ? Bồi bàn trưởng hỏi.
Hai chai tequila, Allan đáp.
Harry Truman phá lên cười hỏi liệu Allan muốn chuốc rượu cho Phó Tổng thống lăn xuống gầm bàn hay sao.
Allan trả lời năm ngoái ông được dạy rằng người Mexico có thể làm cho vodka rất ‘wooomph’ như tiếng Thụy Điển gọi là ‘tinh khiết’, nhưng Phó Tổng thống có thể uống sữa nếu thấy phù hợp hơn.
Không, quân tử nhất ngôn, Phó Tổng thống Truman nói và chỉ kiểm tra xem đã gọi cả chanh và muối chưa.
Ba tiếng sau, hai người đàn ông đã gọi nhau là Harry và Allan, cho thấy một hai chai tequila có thể làm được gì cho tình hữu nghị giữa các quốc gia. Tuy nhiên cũng phải mất một lúc cho vị Phó Tổng thống ngày càng say sưa hiểu được rằng Allan là tên đầu tiên của Allan và không có nghĩa gì khác. Allan đã đi xa đến chỗ mô tả các quan lớn địa phương đã bị nổ tan xác như thế nào và làm thế nào ông đã cứu mạng Tướng Franco. Về phần mình, Phó Tổng thống làm Allan thích thú bằng cách bắt chước những nỗ lực của Tổng thống Roosevelt để ra khỏi xe lăn.
Đang lúc cao hứng nhất, trưởng bộ phận an ninh kín đáo tiếp cận Phó Tổng thống.
Xin phép cho tôi nói một lời, thưa ngài?
Nói đi, Phó Tổng thống nói bằng giọng nhừa nhựa.
Tốt hơn là nói chuyện riêng, thưa ngài.
Tôi thề là tôi chết nếu cậu trông không giống Humphrey Bogart! Cậu đã nhìn thấy hắn ta chưa, Allan?
Thưa ngài…, người phụ trách an ninh ngày càng rầy rà hơn, nói.
Ờ, nhưng chuyện quái quỉ gì thế? Phó Tổng thống rít lên với anh ta.
Thưa ngài, đó là về Tổng thống Roosevelt.
Ờ, thế con dê già đó làm sao? Phó Tổng thống cười ha hả.
Ông ấy đã chết, thưa ngài.
1939-1945
Ngày 1 tháng Chín năm 1939, con tàu treo cờ Tây Ban Nha của Allan bỏ neo tại bến cảng ngoài New York. Allan đã định ghé mắt vào một nước lớn ở phương Tây rồi lên tàu đi tiếp, nhưng cùng ngày đó những đồng minh của tổng tư lệnh đã tiến vào Ba Lan và chiến tranh lại bùng phát ở châu Âu. Con tàu Tây Ban Nha đã bị bắt giữ, sau đó bị tịch thu và phải phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ cho đến khi hòa bình năm 1945.
Tất cả đàn ông trên tàu đã được gửi đến sở nhập cư trên đảo Ellis. Ở đó, các viên chức nhập cư hỏi từng người những câu hỏi tương tự: 1) Tên? 2) Quốc tịch? 3) Nghề nghiệp? 4) Mục đích của chuyến thăm Hoa Kỳ?
Các bạn đồng hành của Allan trên tàu đều khai họ đơn giản là chỉ là những thủy thủ Tây Ban Nha giờ không có nơi nào để đi vì tàu của họ đã bị giữ. Sau đó họ đã nhanh chóng được nhập cảnh vào nước này, nơi họ phải cố gắng hết sức.
Nhưng Allan thì khác với tất cả bọn họ. Trước hết, anh có một tên mà phiên dịch tiếng Tây Ban Nha không thể phát âm. Rồi anh nói rằng mình đến từ Suecia. Và hơn hết vì anh khai thật rằng mình là một chuyên gia chất nổ, đã từng kinh doanh vật liệu nổ, sản xuất pháo, và gần đây nhất có kinh nghiệm trong cuộc chiến giữa người Tây Ban Nha với nhau.
Sau đó Allan lấy ra bức thư của Tướng Franco. Phiên dịch tiếng Tây Ban Nha kinh hãi dịch nó cho nhân viên nhập cảnh, người này lập tức mời cấp trên của mình xuống, và cấp trên lại mời cấp trên nữa.
Quyết định đầu tiên là tên Thụy Điển phát xít ngay lập tức sẽ được gửi trở lại nơi hắn xuất phát.
Miễn là các bạn có thể kiếm một con tàu cho tôi, thì tôi rất vui được đi, Allan nói.
Nói thì dễ hơn làm. Thay vào đó, các cuộc thẩm vấn tiếp tục. Và nhân viên di trú càng tìm hiểu Allan thì càng thấy tay Thụy Điển này có vẻ chẳng phát xít tẹo nào. Và anh ta không phải là cộng sản. Hoặc là người theo chủ nghĩa xã hội quốc gia. Đơn giản anh ta chẳng là gì cả ngoài một chuyên gia chất nổ. Câu chuyện anh ta làm thế nào thành bạn thân với Tướng Franco ngớ ngẩn đến mức khó có thể bịa ra được.
Sếp cao nhất ở sở nhập cư có một người anh ở Los Alamos, New Mexico, và theo như ông biết thì ông này làm việc với bom và những thứ tương tự cho quân đội. Chẳng có ý tưởng gì tốt hơn, họ tạm thời nhốt Allan lại, sau đó viên sếp sở nhập cư trao đổi về trường hợp này với anh trai mình khi họ gặp nhau tại trang trại gia đình ở Connecticut vào Lễ Tạ Ơn. Người anh trả lời rằng ông chẳng vui mừng gì nhận về một người theo phe Franco, nhưng họ đang tuyệt vọng không kiếm đâu ra người có chuyên môn nên có thể tìm một số việc phù hợp, không đòi hỏi cao và không quá bí mật cho gã người Thụy Điển, nếu điều đó giúp ích cho em trai ông.
Viên sếp nhập cư trả lời rằng thế thì đỡ cho ông quá, rồi hai anh em chén gà tây. Một thời gian sau, Allan đã bay chuyến bay đầu tiên trong đời mình và cuối thu năm 1939, ông đến cơ sở quân đội Mỹ tại Los Alamos, nơi chẳng bao lâu họ phát hiện ra rằng Allan không biết một từ tiếng Anh nào. Một trung úy nói tiếng Tây Ban Nha được giao nhiệm vụ tìm hiểu kỹ năng chuyên nghiệp của gã người Thụy Điển, và Allan đã phải viết ra các công thức của mình cho trung úy. Trung úy xem xét, tìm thấy trong đó bằng chứng về một năng lực sáng tạo đáng kể, nhưng thở dài vì thực tế rằng tác dụng chất nổ của Allan khó mà làm nổ được một chiếc xe hơi.
Ồ, được chứ, Allan đáp. Một chiếc xe với một người đàn ông ở trong. Tôi đã thử rồi mà.
Allan có thể ở lại, đầu tiên là ở trong doanh trại xa nhất, nhưng năm tháng trôi qua và Allan bắt đầu nói được tiếng Anh, ông được phép di chuyển tự do hơn trong căn cứ. Là một trợ lý rất có óc quan sát, vào ban ngày, Allan đã học được cách làm thuốc nổ với phẩm chất hoàn toàn khác với thứ thuốc mà ông đã đặt trong hố sỏi phía sau nhà mình vào những ngày chủ nhật hồi còn ở nhà. Và vào buổi tối, khi hầu hết thanh niên trai tráng tại căn cứ Los Alamos vào thị trấn để tán gái thì Allan ngồi trong thư viện cấm ở căn cứ và nghiên cứu kỹ thuật làm pháo hoa cao cấp.
**
Allan học hỏi ngày càng nhiều, trong khi chiến tranh ở châu Âu (và cuối cùng là thế giới) càng lan rộng. Ông không thực hành được những kiến thức mới của mình tí nào vì vẫn còn là một trợ lý (mặc dù được đánh giá cao), nhưng ít nhất ông đã có chúng trong đầu. Bây giờ không nói đến nitroglycerine và natri nitrat nữa – nó là cho dân nghiệp dư – mà về hydro và uranium và những thứ khác thường nhưng mà cực kỳ phức tạp khác.
Từ năm 1942 lệnh giới nghiêm cực kỳ nghiêm ngặt có hiệu lực tại Los Alamos. Nhóm được Tổng thống Roosevelt trao một nhiệm vụ bí mật, tạo ra một quả bom nổ một lần có thể cùng lúc phá hủy mười hay hai mươi cây cầu Tây Ban Nha nếu cần, Allan nghĩ. Các trợ lý vẫn còn cần thiết dù phải ở trong phòng kín mít, và Allan bây giờ được tin cẩn đến mức được phép biết những thông tin tối mật.
Ông phải thừa nhận rằng những người Mỹ này rất thạo nghề. Thay vì những gì Allan đã quen, bây giờ họ thử nghiệm phân chia các nguyên tử tí hon để sự bùng nổ trở nên khủng khiếp hơn bất kỳ thứ gì mà thế giới từng biết trước đó.
Và vào tháng Tư năm 1945, họ đã gần như hoàn thành. Các nhà nghiên cứu – và cả Allan – biết cách tạo ra một phản ứng hạt nhân, nhưng họ không biết làm thế nào để kiểm soát nó. Vấn đề thu hút Allan khi ông ngồi một mình trong thư viện vào buổi tối, cố gắng tìm ra một cái gì đó mà không ai yêu cầu ông phải làm. Viên trợ lý Thụy Điển đã không chịu lùi bước, và một buổi tối… chao ơi! Một buổi tối… ông đã tìm ra giải pháp!
Mùa xuân đó, mỗi tuần, hầu hết các nhân vật quan trọng trong quân đội đã ngồi hàng giờ họp với các chuyên gia vật lý hàng đầu thế giới, với Oppenheimer, đứng đầu các nhà khoa học và Allan rót cà phê cho họ.
Các nhà khoa học vò đầu, đòi Allan thêm cà phê. Các nhà quân sự gãi xước cằm, đòi Allan thêm cà phê. Tất cả đều tuyệt vọng tìm kiếm một giải pháp và đòi Allan thêm cà phê. Và cứ thế hết tuần này sang tuần khác. Allan đã ung dung có trong tay giải pháp cho vấn đề của nhóm từ lâu, nhưng ông nghĩ rằng mình không nên cầm đèn chạy trước ôtô, do đó, ông giữ những gì ông biết cho riêng mình.
Cho đến một lần, ông ngạc nhiên khi nghe chính mình nói:
– Xin lỗi, nhưng tại sao ngài không chia uranium thành hai phần bằng nhau?
Ông chỉ buột miệng trong khi đang rót cà phê vào cốc của Oppenheimer.
Anh nói sao? Oppenheimer nghe những gì Allan vừa nói, bị sốc vì người bồi bàn dám mở miệng.
Allan không có lựa chọn nào khác ngoài tiếp tục:
Vâng, nếu ta chia uranium thành hai phần bằng nhau và đảm bảo rằng các phần này hợp lại với nhau đúng lúc, thì nó sẽ nổ tung khi ta muốn, chứ không phải nổ ở đây tại căn cứ này.
Các phần bằng nhau? Oppenheimer hỏi. Lúc đó có rất nhiều thứ quay tít trong đầu ông, nhưng ông chỉ nói được có thế.
Vâng, có lẽ ngài có lý về điểm đó, thưa giáo sư. Các phần không cần phải bằng nhau về kích thước, điều quan trọng là chúng đủ lớn khi chúng đến với nhau.
Trung úy Lewis, người đã bảo lãnh cho Allan làm trợ lý, nhìn như muốn giết tươi người Thụy Điển, nhưng một trong những nhà khoa học trên bàn đã phản ứng thay bằng cách nói to suy nghĩ của mình:
Nhưng anh nghĩ chúng ta làm cách nào để đưa chúng lại với nhau? Và khi nào? Trong không khí ư?
Chính xác, thưa giáo sư. Sai lầm ư, ở Vật lý học hay Hóa học? Dù sao thì làm nó nổ tung không phải là vấn đề. Vấn đề là ta không thể kiểm soát vụ nổ thực tế. Với một khối lượng nguy hiểm chia thành hai thì có hai khối lượng không nguy hiểm, đúng không? Và ứng dụng ngược lại, từ hai khối lượng không nguy hiểm, ta có thể đạt được một khối lượng nguy hiểm.
Thế làm thế nào để ta đưa chúng lại với nhau, Ông… tôi xin lỗi, nhưng ông là ai? Oppenheimer hỏi.
Allan, Allan đáp.
Và, ông Allan, ông nghĩ làm thế nào để chúng ta có thể đưa chúng lại với nhau? Oppenheimer tiếp tục.
Với một lượng chất nổ thông thường, hàng ngày, Allan đáp. Cái đó tôi khá rành, nhưng tôi chắc chắn các vị có thể tự tính được.
Giáo sư Vật lý nói chung, và các nhà khoa học quân sự hàng đầu nói riêng, không phải là ngu ngốc. Trong một vài giây, Oppenheimer đã tính xong hàng mét các phương trình và đi đến kết luận rằng rất có khả năng là người phục vụ bàn đã đúng. Hãy tưởng tượng rằng một cái gì đó vô cùng phức tạp lại có một giải pháp đơn giản đến thế! Một lượng thuốc nổ thông thường hàng ngày ở đuôi của quả bom có thể được kích hoạt từ xa và đẩy một lượng uranium-235 không nguy hiểm về phía trước, để nhập với một lượng không nguy hiểm khác. Ngay lập tức nó sẽ trở thành nguy hiểm. Các nơtron sẽ bắt đầu di chuyển, các nguyên tử uranium sẽ bắt đầu phân chia. Các phản ứng dây chuyền sẽ diễn ra…
Bùm! Oppenheimer reo lên.
Chính xác, Allan nói. Tôi thấy rằng ngài đã tính ra, thưa giáo sư. Có vị nào muốn thêm cà phê không ạ?
Vào đúng lúc đó, cánh cửa căn phòng bí mật mở ra và Phó Tổng thống Truman bước vào trong chuyến viếng thăm hiếm hoi, không báo trước nhưng thỉnh thoảng vẫn lặp lại của mình.
Cứ ngồi xuống đi, Phó Tổng Thống nói với những người đàn ông đang lập tức đứng nghiêm hết cả lên.
Để an toàn, ngay cả Allan cũng ngồi xuống một trong các ghế trống quanh bàn. Nếu một Phó Tổng Thống bảo bạn ngồi xuống thì là tốt nhất là cứ ngồi xuống, kiểu ở Mỹ nó thế, ông nghĩ.
Khi đó Phó Tổng Thống yêu cầu Oppenheimer báo cáo tình hình, vị giáo sư vội đứng bật dậy một lần nữa và trong lúc vội vàng không thể nghĩ ra bất cứ điều gì khác để nói hơn là ông Allan đang ngồi trong góc kia vừa giải quyết được vấn đề còn lại là làm thế nào để kiểm soát vụ nổ. Giải pháp của ông Allan chưa được chứng minh là đúng, nhưng Oppenheimer nói rằng, thay mặt cho tất cả những người hiện diện ở đây, ông tin chắc là vấn đề đã được giải quyết xong và trong thời hạn ba tháng, họ có thể có một vụ nổ thử nghiệm.
Phó Tổng thống nhìn quanh bàn và nhận được những cái gật đầu đồng ý. Trung úy Lewis dần dần bắt đầu thở lại. Cuối cùng, cặp mắt của Phó Tổng thống nhìn vào Allan.
Tôi tin rằng, ông Allan, ông là người hùng ngày hôm nay. Tôi nghĩ mình cần ăn chút gì vào bụng trước tôi trở về Washington. Ông có vui lòng ăn cùng tôi không?
Allan nghĩ rõ ràng các nhà lãnh đạo thế giới có một đặc điểm chung là mời bạn ăn tối ngay nếu họ hài lòng với điều gì đó, nhưng ông không nói ra. Thay vào đó, ông cám ơn Phó Tổng thống về lời mời và họ cùng nhau rời khỏi phòng. Oppenheimer bị bỏ lại đứng cạnh cái bàn dài, trông nhẹ nhõm và đau khổ.
**
Phó Tổng thống Truman ra lệnh đóng cửa cả nhà hàng Mexico ưa thích của mình trung tâm Los Alamos, nên chỉ có Allan và Truman ở đây, ngoại trừ khoảng mười vệ sĩ rải rác ở các góc khác nhau.
Trưởng bộ phận an ninh lưu ý rằng ông Allan là không phải là người Mỹ và thậm chí chưa được kiểm tra xem có thích hợp để gặp riêng Phó Tổng thống không, nhưng Truman bác bỏ phản đối của viên sĩ quan an ninh với nhận xét rằng hôm nay ông Allan đã làm được nghĩa cử yêu nước lớn lao nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
Phó Tổng thống đang có tâm trạng tuyệt vời. Ngay sau khi ăn tối, thay vì đi tới Washington, ông ra lệnh cho Air Force 2 đến Georgia, nơi Tổng thống Roosevelt đang
một nhà điều dưỡng để chữa bệnh bại liệt của mình. Tổng thống sẽ muốn trực tiếp nghe tin này, Harry Truman chắc chắn về điều đó.
Tôi sẽ gọi món, vì vậy ông có thể chọn đồ uống, Harry Truman vui vẻ nói và chuyển menu rượu vang cho Allan.
Sau đó, Truman quay sang bồi bàn trưởng đang gập người nghe gọi đủ các món từ tacos, enchilada, tortilla ngô và rất nhiều thứ khác.
Dạ thưa ngài uống gì ạ? Bồi bàn trưởng hỏi.
Hai chai tequila, Allan đáp.
Harry Truman phá lên cười hỏi liệu Allan muốn chuốc rượu cho Phó Tổng thống lăn xuống gầm bàn hay sao.
Allan trả lời năm ngoái ông được dạy rằng người Mexico có thể làm cho vodka rất ‘wooomph’ như tiếng Thụy Điển gọi là ‘tinh khiết’, nhưng Phó Tổng thống có thể uống sữa nếu thấy phù hợp hơn.
Không, quân tử nhất ngôn, Phó Tổng thống Truman nói và chỉ kiểm tra xem đã gọi cả chanh và muối chưa.
Ba tiếng sau, hai người đàn ông đã gọi nhau là Harry và Allan, cho thấy một hai chai tequila có thể làm được gì cho tình hữu nghị giữa các quốc gia. Tuy nhiên cũng phải mất một lúc cho vị Phó Tổng thống ngày càng say sưa hiểu được rằng Allan là tên đầu tiên của Allan và không có nghĩa gì khác. Allan đã đi xa đến chỗ mô tả các quan lớn địa phương đã bị nổ tan xác như thế nào và làm thế nào ông đã cứu mạng Tướng Franco. Về phần mình, Phó Tổng thống làm Allan thích thú bằng cách bắt chước những nỗ lực của Tổng thống Roosevelt để ra khỏi xe lăn.
Đang lúc cao hứng nhất, trưởng bộ phận an ninh kín đáo tiếp cận Phó Tổng thống.
Xin phép cho tôi nói một lời, thưa ngài?
Nói đi, Phó Tổng thống nói bằng giọng nhừa nhựa.
Tốt hơn là nói chuyện riêng, thưa ngài.
Tôi thề là tôi chết nếu cậu trông không giống Humphrey Bogart! Cậu đã nhìn thấy hắn ta chưa, Allan?
Thưa ngài…, người phụ trách an ninh ngày càng rầy rà hơn, nói.
Ờ, nhưng chuyện quái quỉ gì thế? Phó Tổng thống rít lên với anh ta.
Thưa ngài, đó là về Tổng thống Roosevelt.
Ờ, thế con dê già đó làm sao? Phó Tổng thống cười ha hả.
Ông ấy đã chết, thưa ngài.