Emma thở gấp và co rúm người vào tường. Nhưng con chó không trông thấy nó. Nó toan lẻn đi hướng khác thì một giọng rít lên:
“Đứng lại, con kia! Quay lại!”
Trước khi bỏ chạy, Emma quay lại nhìn thật lẹ. Nó thấy một người đàn ông ngồi trong xe lăn. Lão già đến mức gương mặt chỉ còn như một cái hộp sọ. Lão quàng một chiếc khăn san trên vai và mái tóc trắng dài thòi xuống như sáp từ chiếc mũi lưỡi trai bằng len.
“Nó chạy rồi!” lão hú lên. “Con ranh con của thằng phát minh! Manfred, tóm lấy nó!”
Cố nén tiếng hét, Emma bỏ chạy. Nó lao bừa lên cầu thang, chiếc đèn lông va đập vô tường. Nó chạy dọc theo hành lang, ào vô một căn phòng trông như xà lim, đóng sập cửa lại sau lưng. Rồi nó chờ đợi, biết rằng chút xíu nữa thôi điều tồi tệ sẽ xảy ra.
Không lâu sau, khuôn mặt tức tối của Manfred nhìn chăm chú qua cửa.
“A, mày đây rồi,” hắn hả hê, “Tốt hơn từ sau đừng có thử như thế nữa nghe chưa.”
Hắn đóng sầm cửa, khóa lại.
“Tao đang giữ chìa khóa, vì thế đừng nghĩ là mày có thể cho nó lọt ra lần nữa đấy. Nếu gây thêm phiền phức nào nữa thì mày sẽ không có mứt trong một tuần.”
Rõ ràng là hắn không nói điều đó với Emma.
Có cái gì đó đập mạnh vô tường và Manfred hét lên, “Dừng lại!”
Một cánh cửa khác đóng sầm, sau đó là thinh lặng.
Emma nhón chân đi ra cửa.
“Ai đó?” nó hỏi. Không có tiếng trả lời.
“Xin lỗi vì đã làm bạn gặp rắc rối,” Emma nói.
Vẫn không có tiếng trả lời . nếu có bất cứ ai ở ngoài đó thì người ấy hoặc cũng đã bỏ đi, hoặc món mứt quan trọng đến nỗi người ấy không muốn mạo hiểm để bị tước mất.
“À, dù sao đi nữa cũng cám ơn bạn vì đã cố giúp tôi,” Emma nói.
Nó ngồi lại lên giường. Nến trong đèn lồng của nó đã sắp cháy hết, và nó khó mà chịu được ý nghĩ phải ở trong bóng đêm mịt mùng của căn phòng lạnh lẽo, gai người đó. Nó chong chong nhìn lên những bức tường xám xịt, vẻ hằn học, và rồi, trong ánh nến sắp lụi, nó nhận thấy một cửa sổ nhỏ sau chiếc giường. Nếu nó leo lên gối thì có thể với tới, tuy nhiên nó biết cửa sổ chắc chắn phải ở cao bên trên. Cao lắm, và nó không thể nhảy xuống đất được.
“Charlie nói là mình biết bay,” nó lẩm bẩm.
Khi nói những lời này, những ngón tay của Emma bắt đầu tê tê, và một cảm giác giần giật chuyền qua hai cánh tay nó, khiến chúng như không có trọng lượng.
Ông cậu Paton Yewbeam đang làm chuyến rảo bộ đêm hôm của mình. Ông cố ý sải những bước thật dài, nhưng tâm trí thì rối bời. Một mặt ông cảm thấy lạc quan. Cuối cùng thì ông cũng đã bắt đầu dàn xếp cho mọi chuyện đâu vào đấy, và các bà chị của ông cũng đã biết ra vị trí của ông ở đâu.
Một bóng đèn nổ tung khi Ông cậu đi ngang qua một cột đèn. Vẫn tiếng thủy tinh lanh canh rơi như thường lệ. Nhưng rồi còn có một âm thanh khác: tiếng những bước chân lộp cộp, nhè nhẹ. Ông cậu Paton thở dài, nhưng không quay lại nhìn. Nếu ai đó đang đi theo ông thì cứ để họ theo. Họ cũng chả tìm thêm được bằng chứng gì đâu. Ông thì thầm một mình.
“Giá mà ta đừng nằng nặc mời bữa tối đó. Phải chi hai đứa cứ ở nhà, dùng bữa trong ánh nến thôi… Cô ấy chắc nghĩ ta là thằng khùng. Quên cô ấy đi, Paton à. Cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho mi đâu.”
Ông cậu Paton chợt nhận ra những bước chân kia đã bắt kịp mình. Một cô bé đi bên cạnh Ông cậu cô bé có khuôn mặt nhợt nhạt. Nó xinh, mái tóc dài hoe vàng, hơi bù xù.
“Cháu xin lỗi,” cô bé rụt rè. “Ông có thể chỉ cho cháu đường đến tiệm sách Ingledew được không ạ?”
“Ta nghĩ là được,” Ông cậu đáp.
“Ta tin là ta đang trên đường tới đó.” “Ô, tốt quá,” cô bé mừng rõ. “Tên cháu là Emma Tolly.”