“Cậu không giận tớ đấy chứ?” cô vừa hỏi vừa cài tấm thẻ tín dụng của mình vào tập bìa da.
“Đâu có,” Brooke nói dối. “Tớ vừa có một ngày dài vất vả quá.”
“Thế cậu định đi đâu bây giờ? Không đi uống một chầu sau bữa tối ư?”
“Thực ra là Julian có một… anh ấy đang biểu diễn,” Brooke nói sau khi đổi ý vào giây cuối cùng. Cô không muốn đả động gì về sô diễn của anh, nhưng nói dối Nola thì có vẻ kỳ cục thế nào
“Ồ, hay quá!” Nola vừa vui vẻ nói vừa uống nốt cốc rượu vang của mình. “Có muốn tớ đi cùng không?”
Cả hai cùng biết rằng Nola không thực lòng muốn đi, mà cũng chẳng sao vì Brooke cũng không thực lòng muốn Nola đi cùng. Bạn cô và chồng cô khá hòa hợp với nhau, và thế là ổn rồi. Cô trân trọng sự che chở của Nola và biết rằng đó là vì lòng tốt, nhưng thật khó chịu khi thấy bạn thân nhất thường xuyên phán xét chồng mình – và lúc nào anh cũng là người không thành công dù nỗ lực đến mấy.
“Thực ra Trent đang ở trong thành phố,” Brooke trả lời. “Cậu ấy luân chuyển công tác về đây thì phải, thế nên tớ sẽ gặp cậu ấy ở buổi biểu diễn.”
“A, Trent già tốt bụng. Hắn vẫn thích trường y đấy chứ?”
“Cậu ấy học xong rồi; hiện giờ cậu ấy đang làm bác sĩ nội trú. Julian bảo là cậu ấy thích Los Angeles, ngạc nhiên thật đấy – những kẻ sinh ra và lớn lên ở New York chẳng khi nàothích Los Angeles cả.”
Nola đứng dậy khoác áo vest lên người. “Hắn có đang hẹn hò ai không? Nếu tớ nhớ không nhầm thì hắn tẻ ngắt như cơm nguội nhưng được cái rất điển trai…”
“Thực ra thì cậu ấy đính hôn rồi. Với một cô bạn bác sĩ nội trú khoa tiêu hóa, một cô gái tên là Fern. Bác sĩ Fern, chuyên gia về dạ dày. Tớ đến rùng mình khi tưởng tượng ra những gì họ chuyện trò với nhau.”
Nola nhăn mặt vì kinh tởm. “Cảm ơn vì hình ảnh đó nhé. Mà nghĩ cho cùng, hắn đã có thể hoàn toàn là của cậu
“Hừmmmm.”
“Tớ chỉ muốn đảm bảo rằng mình vẫn được công nhận thích đáng vì đã giới thiệu cậu với chồng cậu thôi. Nếu đêm đó cậu không đi chơi với gã Trent này thì có lẽ cậu vẫn chỉ đơn thuần là cô gái hâm mộ đi cổ động cho Julian.”
Brooke phá lên cười rồi hôn lên má cô bạn. Cô móc ví lấy hai tờ hai chục đô đưa cho Nola. “Tớ phải chạy đây. Nếu ba mươi giây nữa mà không lên được tàu thì tớ trễ mất. Mai nói chuyện sau nhé?” Cô giật lấy áo khoác và xắc, vẫy tay nhanh về phía Luca trên lối đi ra, rồi lao ra khỏi cửa.
***
Thậm chí sau chừng ấy năm trời, Brooke vẫn rùng mình khi nghĩ đến chuyện thiếu chút nữa thì cô và Julian đã bỏ lỡ cơ hội gặp nhau. Đó là vào tháng Sáu năm 2001, tháng đầu tiên sau khi cô vừa tốt nghiệp đại học, và Brooke thấy hầu như không thể thích nghi được với chế độ làm việc sáu mươi giờ một tuần, chia đều giữa những bài khóa luận cao học ngành dinh dưỡng, những giờ thực tập nặng nề và ca làm việc bận bịu của một nhân viên chạy bàn trong tiệm cà phê gần nhà. Một khi cô còn chưa hình dung ra được những nhọc nhằn vất vả khi làm việc mười hai tiếng mỗi ngày để kiếm được hai mươi hai ngàn đô la một năm – ấy là cô nghĩ thế – thì cô cũng chẳng thể tiên đoán được toàn bộ áp lực căng thẳng của những ngày làm việc dài, tiền lương không đủ xài, quá thiếu ngủ, và hiện thực của việc thuê chung căn hộ một phòng ngủ chỉ nhỉnh hơn sáu mươi lăm mét vuông ở khu Murray Hill với Nola và một người bạn nữa của họ. Tất cả những điều đó chính là lý do vì sao Brooke đã từ chối thẳng thừng khi Nola nài nỉ cô cùng đi xem biểu diễn nhạc sống vào một tối thứ Bảy.
“Đi nào, Brookie, cậu phải ra khỏi nhà đi chứ,” Nola tranh biện trong lúc tròng chiếc áo bó hai dây màu đen vào người. “Có một nhóm tứ tấu nhạc jazz và nghe nói họ chơi hay cực, với lại Benny và Simon nói là họ giữ chỗ cho chúng mình. Năm đô la tiền bàn và đồ uống mua một tặng một. Cậu còn chê cái nỗi gì nữa cơ chứ?”
“Chỉ mệt đứt cả hơi rồi.” Brooke thở dài, uể oải nhấn điều khiển lướt qua các kênh từ trên chiếc phô tơi trong phòng khách. “Tớ vẫn còn bài phải viết, mà mười một tiếng nữa tớ lại còn phải đi làm nữa chứ.”
“Ôi, đừng bi kịch quá thế. Vì Chúa, cậu hăm hai rồi. Đừng lải nhải nữa và lên thay đồ đi. Mười phút nữa chúng mình khởi hành.”
“Mưa như trút ngoài kia, vả lại…”
“Đúng mười phút thôi, không thêm một giây nào nữa, hoặc chúng mình sẽ chẳng còn bạn bè với nhau gì sất.”
Lúc hai cô đến được quán bar Rue B ở khu East Village và ngồi ép mình bên một chiếc bàn bé tẹo cùng với các bạn học, Brooke thấy ân hận vì sự yếu đuối của mình. Sao mà cô cứ luôn nhượng bộ Nola thế nhỉ? Việc quái gì mà cô phải lèn mình trong cái quán bar đông nghẹt đầy khói thuốc, uống rượu vodka pha tonic loãng thếch và chờ xem một nhóm tứ tấu chơi nhạc jazz mà cô chưa hề nghe nói đến? Thậm chí cô còn chẳng đặc biệt thích nhạc jazz nữa kia. Mà xét cho cùng, cô chẳng đặc biệt thích bất kỳ buổi biểu diễn nhạc sống nào, trừ phi đó là buổi hòa nhạc của Dave Matthews hay Bruce Springsteen mà cô có thể vui vẻ hòa giọng hát theo tất cả mọi bài hát. Đêm biểu diễn này hiển nhiên không phải là một đêm như vậy. Chính vì thế mà cô có cảm giác bực bội pha lẫn với nhẹ nhõm khi cô nhân viên chân dài tóc vàng ở quầy bar gõ mạnh chiếc thìa lên ly rượu.
“Này, các bạn ơi! Này, mọi người ơi, các bạn có thể chú ý cho tôi một phút được không?” Cô lau bàn tay rảnh rỗi của mình vào quần jean và kiên nhẫn đợi đám đông lắng xuống. “Tôi biết tất cả các bạn đều đang nôn nóng được nghe Tribesmen hát đêm nay, nhưng chúng tôi vừa nghe tin họ bị kẹt xe ở đường cao tốc Long Island và chắc sẽ không đến được đúng giờ.”
Tiếng la ó và chế nhạo tức thì nổi lên ầm ĩ.
“Tôi biết, tôi biết, tệ hết chỗ nói. Xe rơ-moóc bị lật, đường nghẽn toàn bộ, vân vân và vân vâ
“Thế thì tặng một chầu miễn phí để xin lỗi nhé?” một người đàn ông trung niên ngồi phía sau giơ cốc của mình và hỏi vọng lên.
Cô nhân viên quầy bar bật cười. “Xin lỗi nhé. Nhưng nếu bất kỳ ai muốn lên đây tiêu khiển cho chúng ta…” Cô nhìn thẳng vào người đàn ông đó, anh ta lập tức lắc đầu.
“Nói thật đấy, chúng tôi có một chiếc dương cầm rất tuyệt. Có ai chơi được không?”
Căn phòng im phắc trong lúc mọi người đưa mắt nhìn nhau.
“Này, Brookie, cậu chơi được đấy chứ?” Nola nói thầm đủ to để cả bàn họ nghe thấy.
Brooke đảo mắt. “Tớ bị loại khỏi ban nhạc từ năm lớp sáu vì không thể học để đọc nổi bản nhạc. Có ai bị loại khỏi ban nhạc ở trường trung học nữa không đây?”
Cô nhân viên quầy bar không dễ gì đầu hàng. “Nào, mọi người ơi! Ngoài đường trời đang mưa ào ào khiếp lắm, mà chúng ta thì đang có tâm trạng để nghe nhạc nhẽo một chút. Tôi sẽ nhân nhượng thêm bia miễn phí cho cả phòng nếu ai đó có thể tiêu khiển cho chúng ta vui vài phút.”
“Tôi chơi được chút ít.”
Brooke dõi theo giọng nói về phía một anh chàng có vẻ luộm thuộm ngồi một mình cạnh quầy bar. Anh ta mặc quần jean và áo phông màu trắng, đầu đội một chiếc mũ len mặc dù lúc đó đang là mùa hè. Trước đó cô không để ý đến anh nhưng giờ cô cả quyết rằng anh có thể – có thế thôi nhé – khá bảnh nếu anh tắm rửa, cạo râu và bỏ chiếc mũ đi.
“Vâng, xin mời…” Cô nhân viên quầy bar vung cả hai tay về phía chiếc đàn dương cầm. “Tên anh là gì?
“Julian.”
“Hay quá, Julian, cô nàng là của anh đây.” Cô trở về chỗ của mình phía sau quầy bar và Julian ngồi lên chiếc ghế chơi dương cầm. Anh chơi vài nốt, nghịch ngợm với nhịp phách và giai điệu, và cử tọa nhanh chóng mất hứng quay lại những câu chuyện đang dở của họ. Thậm chí ngay cả khi anh lặng lẽ chơi trọn một bài hát (một bản ballad nào đó mà cô không nhận ra) thì tiếng nhạc lại giống như âm thanh nền hơn. Nhưng mười phút sau anh chơi những nốt dạo đầu bản “Hallelujah” và cất tiếng hát bằng một giọng đẹp và khỏe đến kinh ngạc. Cả phòng lặng đi.
Trước đây Brooke đã nghe bài hát này, đã từng bị ám ảnh bởi Leonard Cohen một thời, và rất thích bài hát đó, nhưng cái cảm giác gai hết cả người lên thế này là hoàn toàn mới lạ. Cô nhìn khắp phòng. Không hiểu những người khác có cùng cảm giác như mình không nhỉ? Đôi tay Julian dạo trên những phím đàn một cách tự nhiên trong khi anh truyền cảm xúc mãnh liệt vào từng lời hát.
Tận đến khi anh thì thầm ngân dài câu cuối “hallelujah” xong thì đám đông mới hưởng ứng: họ vỗ tay, huýt sáo, gào thét và hầu như cùng lúc nhảy ra khỏi ghế ngồi. Julian có vẻ lúng túng, ngượng nghịu, và sau một cử chỉ cúi chào hầu như không nhận thấy, anh trở về chỗ của mình trên chiếc ghế cao bên quầy bar.
“Quỷ thần ơi, anh ta tuyệt quá,” một cô gái trẻ thốt lên với người bạn hẹn hò của mình ở bàn phía sau họ, mắt cô dán vào chàng trai chơi dương cầm.
“Hát lại đi!” một phụ nữ duyên dáng kêu lên, tay nắm chặt tay chồng. Người chồng gật đầu phụ họa với chị. Trong chốc lát, tiếng vỗ tay hoan hô mạnh lên gấp đôi và cả phòng đòi nghe bài hát thứ hai.
Cô nhân viên quầy bar chộp lấy tay Julian kéo anh tới micro. “Anh ấy hát hay đến sửng sốt, phải không các bạn?” cô kêu lên, cười rạng rỡ tự hào với phát hiện mới của mình. “Các bạn bảo sao nếu chúng tôi thuyết phục Julian đây hát thêm bài nữa cho mọi người cùng nghe
Brooke quay về phía Nola, đã nhiều năm nay cô chưa bao giờ cảm thấy phấn khích đến thế. “Cậu nghĩ anh ta có hát thêm không? Cậu có bao giờ tin rằng một người vô danh ngồi trong một quán bar ngẫu nhiên vào một tối thứ Bảy ngẫu nhiên – cái anh chàng đến đây để nghe người khác biểu diễn – lại có thể hát hay đến thế được không?”
Nola nhoẻn cười và nghiêng người để Brooke nghe thấy giọng cô trong đám đông. “Anh ta thực sự có tài đấy. Tệ nỗi là bộ dạng anh ta như thế.”
Brooke cảm thấy như chính cô bị sỉ nhục. “Bộ dạng anh ta như thế nào kia? Tớ lại thích tổng thể cái vẻ luộm thuộm trong phong cách của anh ta đấy. Và với giọng hát như thế thì tớ tin một ngày kia anh ta sẽ thành ngôi sao.”
“Chả có cơ đâu. Anh ta có tài, nhưng cả triệu người khác cũng tài như thế mà còn dễ gần hơn và trông khả dĩ hơn anh ta nhiều ấy chứ.”
“Anh ta hấp dẫn,” Brooke nói với vẻ hơi phẫn nộ.
“Anh ta hấp dẫn kiểu ca sĩ quán bar ở East Village. Không hấp dẫn kiểu ngôi sao nhạc rock quốc tế.”
Cô chưa kịp chồm lên biện hộ cho Julian thì anh đã quay lại ghế dương cầm và bắt đầu chơi lần nữa. Lần này là bài “Let’s Get It On”, và một lần nữa, bằng cách nào đó anh đã khiến cho giọng mình hay hơn cả Marvin Gaye – giọng sâu và gợi cảm hơn, tiết tấu chậm hơn một chút, và sự tập trung căng thẳng biểu cảm trên gương mặt anh. Brooke đắm mình vào trải nghiệm này đến mức không nhận thấy các bạn mình đã tiếp tục tán gẫu khi những bình bia miễn phí được đưa đến bàn họ. Họ rót và uống và lại rót tiếp, nhưng Brooke không thể rời mắt khỏi anh chàng tóc rối bên chiếc dương cầm. Hai mươi phút sau, khi anh ra khỏi quán bar, cúi chào những khán giả đang tán thưởng mình với vẻ mặt chỉ hơi thoáng bóng nụ cười, thì quả thật Brooke đã nghĩ tới việc đi theo anh. Cô chưa bao giờ làm điều gì tương tự trong đời, nhưng cô có cảm giác đó là điều nên là
“Tớ có nên đến làm quen không nhỉ?” cô hỏi mọi người cùng bàn, nhoài người về phía trước đủ xa để cắt ngang câu chuyện của họ.
“Với ai cơ?” Nola hỏi.
“Với Julian ấy!” Thật bực hết chỗ nói. Chẳng lẽ không ai nhận thấy anh ấy đã ra khỏi quán và sắp vĩnh viễn biến mất ư?
“Julian, gã chơi dương cầm ấy hả?” Benny hỏi.
Nola đảo mắt và hớp một ngụm bia đầy. “Thế cậu định làm gì đây? Đuổi theo anh ta và bảo anh ta rằng cậu có thể phớt lờ khả năng vô gia cư tiềm ẩn của anh ta miễn sao anh ta làm tình với cậu thật say đắm trên chiếc dương cầm của anh ta ư?”
Benny bắt đầu hát. “Ô đã chín giờ tối thứ Bảy… Chủ nhật, đám đông thường lệ lại kéo đến (3)…”
(3) Nhại lời bài hát Piano Man rất nổi tiếng của Billy Joel.
“Có một gã nhếch nhác ngồi bên cạnh tôi, tình tự với cô bạn Brooke của chúng ta,” Nola vừa hát nốt vừa cười lớn. Họ cụng những vại bia.
“Cả hai cậu phát rồ rồi đây,” Brooke nói trong lúc
“Không đời nào! Cậu không chạy theo anh ta đây chứ? Benny, hãy đi cùng cô ấy. Gã chơi dương cầm có thể là sát thủ hàng loạt đấy,” Nola nói.
“Tớ không chạy theo anhấy,” Brooke trả lời. Nhưng cô len tới quầy bar và, sau khi đã bấm móng vào lòng bàn tay và thay đổi ý định đến năm lần bảy lượt, cuối cùng cô cũng lấy hết dũng khí hỏi cô nhân viên quầy bar xem cô này có biết gì hơn về người trình diễn bí ẩn nọ không.
Người phụ nữ đó không nhìn lên cô vì đang mải pha chế một mẻ mojitos. “Trước đây tôi đã gặp anh ta ở đây, thường là khi chúng tôi có ban nhạc blue hoặc rock cổ điển trình diễn, nhưng anh ta chả bao giờ trò chuyện với ai cả. Lúc nào cũng chỉ một mình, nếu đó là điều cô định hỏi…”
“Không, không, tôi, à… không, không phải thế đâu. Chỉ là tò mò thôi,” cô lắp bắp, cảm thấy mình như một con ngố.
Brooke quay trở lại bàn mình thì nhân viên quầy bar nói với theo, “Anh ta bảo là có diễn thường xuyên ở một quán bar trên Khu Thượng Đông, một nơi tên là Trick hay Rick gì đó. Vào các ngày thứ Ba. Hy vọng thông tin đó có ích.”
Brooke có thể đếm trên đầu ngón tay những lần cô đi xem biểu diễn nghệ thuật. Cô chưa bao giờ dõi theo hoặc bám theo một người lạ; và ngoại trừ mươi mười lăm phút chờ bạn bè hoặc bạn hẹn hò đến, cô hiếm khi lãng phí thì giờ một mình trong các quán bar. Nhưng tất cả những điều đó chẳng cản được cô gọi không biết bao nhiêu cú điện thoại để tìm cho ra đúng chỗ đó và, sau ba tuần lễ ròng lấy can đảm, cuối cùng vào một tối thứ Ba tháng Sáu oi nồng cô cũng lên tàu điện ngầm rồi sau đó đi bộ đến cửa trước quán Nick’s Bar and Lounge.
Ngồi xuống sau khi tìm được một trong những chỗ cuối cùng tít nơi góc hậu, cô thấy cũng bõ công. Quán bar này cũng giống như cả trăm quán tương tự dàn hàng trên ộ 2, nhưng đám đông ở đây hỗn tạp lạ thường. Thay vì đám sinh viên vừa mới tốt nghiệp như thường lệ ở Khu Thượng Đông – những kẻ thích nốc bia sau khi nới lỏng chiếc cà vạt hiệu Brookes Brothers mới tinh – đám đông tối nay có vẻ là một sự pha trộn kỳ quặc giữa những sinh viên Đại học New York đã phải lặn lội cả quãng đường dài tới khu phố trên với các đôi ở lứa tuổi ba mươi tay trong tay nhắp rượu martini và những đám hippi đi giày Converse hiếm khi thấy tụ tập đông như vậy bên ngoài East Village hoặc Brooklyn. Quán Nick nhanh chóng chật như nêm, ghế nào cũng có người và chắc phải đến năm sáu chục người nữa đứng đằng sau dãy bàn, tất cả đến đây chỉ vì một lý do duy nhất. Brooke bị sốc khi nhận thấy cái cảm giác mà cô đã trải nghiệm khi nghe Julian đàn hát một tháng trước ở Rue B lúc này chẳng còn là độc nhất vô nhị. Nhiều người biết đến anh và sẵn sàng đi từ khắp mọi ngả trong thành phố tới xem anh biểu diễn.
Khi Julian ngồi vào ghế của anh bên cạnh chiếc dương cầm và bắt đầu thử vài nốt để chắc chắn tiếng đàn chuẩn, đám đông nhao nhao vì háo hức. Khi anh bắt đầu chơi, cả phòng dường như lắng đọng vào nhịp điệu, một vài người đung đưa nhè nhẹ, số khác thì nhắm mắt lại, và tất cả nhoài người về phía sân khấu. Brooke, người chưa từng biết thế nào là đắm chìm trong âm nhạc, cảm thấy toàn thân mình thư thái. Cho dù đó là rượu vang đỏ hay tiếng ngân đầy mê đắm hoặc cảm giác lạ lẫm khi ở trong một đám đông rặt những người xa lạ thì Brooke cũng đâm ra nghiện mất rồi.
Suốt những ngày hè còn lại, tối thứ Ba nào cô cũng đến quán Nick. Cô chẳng bao giờ mời ai khác đi cùng; khi các bạn cùng phòng ép cô phải khai xem tuần nào cô cũng đi đâu thì cô bịa ra một câu chuyện đáng tin về một câu lạc bộ sách và những người bạn cùng trường. Chỉ cần đến đó, xem anh biểu diễn và nghe nhạc là cô bắt đầu cảm thấy như mình đã quen biết anh. Trước đó âm nhạc chỉ là một nốt phụ, chẳng hơn gì một trò tiêu khiển trong lúc chạy trên máy tập, một bài hát để nhảy vui vui trong bữa tiệc, một cách giết thời gian khi lái xe đường trường. Nhưng thứ này thì sao? Thứ này thật kỳ diệu. Thậm chí dù không một lời chào hỏi, âm nhạc của Julian có thể ảnh hưởng đến tâm trạng của cô và thay đổi suy nghĩ của cô, làm cho cô cảm nhận được những điều hoàn toàn mới lạ khác xa với nếp sống đơn điệu hằng ngày của cô.
Trước khi có những tối một mình trong quán Nick đó, thời gian của cô tuần nào cũng giống tuần nào: trước hết là công việc, rồi mới đến những giờ vui vẻ rất hiếm hoi với cùng một nhóm bạn đại học và cùng một đám bạn chung phòng hay thóc mách kia. Cô cũng khá vui, nhưng thỉnh thoảng cũng cảm thấy nặng ngột ngạt. Giờ đây Julian choán toàn bộ tâm trí cô, và cái thực tế là hai bên chỉ mới thoáng nhìn nhau cũng chẳng làm cô mảy may bận tâm. Chỉ cần xem anh biểu diễn là cô mãn nguyện rồi. Anh cũng đi vòng quanh – cô thấy có vẻ hơi miễn cưỡng một chút – sau mỗi lần biểu diễn, bắt tay và khiêm tốn nhận những lời khen mà mọi người không ngớt tuôn ra với anh, nhưng Brooke chưa lần nào nghĩ đến việc tới gần anh.
Hai tuần sau sự kiện 11 tháng Chín năm 2001, khi Nola thuyết phục cô đến buổi hẹn hò mai mối với một người cô nàng gặp ở một buổi họp mặt tại nơi làm việc. Tất cả bạn bè của họ hoặc đã rời thành phố New York về với gia đình hoặc nhen nhóm lại quan hệ với người yêu cũ, và thành phố vẫn bị phong tỏa bởi làn khói cay sè và bầu không khí rất đỗi tang thương. Nola lẩn đi với gã bồ mới nào đó, hầu như đêm nào cũng qua đêm ở nhà gã, còn Brooke cảm thấy bất an và cô đơn.
“Một buổi hẹn hò mai mối ư? Thật hả?” Brooke hỏi, không rời mắt khỏi máy tính.
Một tối lúc họ cùng ngồi trên sofa xem chương trình SNU (4), Nola bảo, “Hắn rất ngọt ngào nhé. Hắn sẽ không phải là người chồng tương lai của cậu, nhưng hắn siêu tốt bụng, và cũng khá điển trai, và hắn sẽ đưa cậu đến chỗ nào đó vui vẻ. Nếu cậu thôi cái kiểu bà cô lãnh cảm ấy đi thì có khi hắn sẽ tình tự với cậu không biết chừng.”
(4) Tức ‘Saturday Night Live’: chương trình tạp kỹ và hài kịch ngắn tối thứ Bảy trên kênh NBC.
“Nola!”
“Tớ chỉ nói vậy thôi. Cậu biết là cậu có thể tận dụng cơ hội đó. Và nhân tiện nói luôn là tắm rửa và sửa móng tay cũng đâu có làm cậu chết được.”
Brooke xòe tay ra, và lần đầu tiên cô nhận thấy những móng tay bị cắn cùn và những lớp da xơ xác. Trông chúng thật thô thiển. “Anh ta là thế nào, một trong những chàng đã bị cậu đá hả?” cô hỏi bạn.
Nola khịt mũi.
“Biết ngay mà! Cậu ngủ nghê với anh ta và giờ cậu đẩy anh ta sang cho tớ chứ gì. Tởm thế, Nola. Và phải nói rằng tớ ngạc nhiên đấy. Tớ tưởng ngay cả cậu cũng không đến nỗi tồi như vậy.”
“Im cái mồm cậu đi,” Nola nói mà mắt long lên. “Tớ mới gặp hắn vài tuần trước trong một buổi gây quỹ ở chỗ làm; hắn đến đó cùng với một đồng nghiệp của tớ.”
“Thế mà cậu đã ngủ với anh ta.”
“Không! Có lẽ tớ đã ngủ với tay đồng nghiệp của tớ…”
Brooke rên lên và che mắt lại.
“… nhưng đó đâu phải vấn đề chính yếu. Tớ nhớ ra rằng bạn của tay đó điển trai và chưa vợ. Một sinh viên trường y, tớ nghĩ thế, nhưng nói thật nhé, cậu không ở vào vị thế để mà kỳ thị phân biệt những thứ như thế đâu. Chỉ cần hắn còn thở được…”
“Cảm ơn bạn nhé.”
“Tức là cậu sẽ đi chứ?”
Brooke giật lại chiếc điều khiển từ xa. “Nếu đi mà làm cậu im miệng ngay bây giờ thì tớ sẽ xem xét,” cô nói.
Bốn ngày sau Brooke đã thấy mình ngồi ở một quán cà phê kiểu Ý ngoài trời trên phố MacDougal. Trent, đúng như Nola đã hứa hẹn, là một anh chàng rất dễ thương. Khá điển trai, cực kỳ lịch sự, diện bảnh, và tẻ như cơm nguội. Cuộc chuyện trò của họ còn tẻ nhạt hơn món mì ống với xốt cà chua và rau thơm mà anh ta gọi cho cả hai, và sự sốt sắng của anh ta làm cô những muốn chọc cái nĩa. Nhưng vì lý do gì mà cô không biết, khi anh ta ngỏ lời rủ đi quán bar gần đó thì cô lại đồng ý.
“Thật chứ?” anh ta hỏi lại, cô cảm thấy giọng anh ta có vẻ hơi ngạc nhiên.
“Thật đấy, tại sao lại không?” Và cô thực lòng nghĩ sao lại không kia chứ? Dường như cô chẳng có kế hoạch nào khác, thậm chí cũng không mong gì sẽ xem phim với Nola vào khuya hôm đó. Ngày hôm sau cô phải bắt đầu thảo bài luận dài mười lăm trang sẽ đến hạn phải nộp trong hai tuần nữa; ngoài việc đó ra, kế hoạch thú vị nhất của cô là giặt giũ, đến phòng tập thể dục và làm việc bốn tiếng ở tiệm cà phê. Vậy cô phải vội về nhà làm chi?
“Hay quá, tôi đã có ý sẵn một nơi rồi.” Trent khăng khăng lịch sự đòi trả tiền và cuối cùng họ lên đường.
Họ mới đi bộ được hai dãy phố thì Trent cắt ngang đường cô và mở một cánh cửa dẫn vào quán bar NYU nổi tiếng phóng túng. Có lẽ đó là nơi mà bất kỳ người đàn ông nào không âm mưu cho bạn hẹn hò sử dụng thuốc kích thích đều không nên chọn lựa, nhưng Brooke hài lòng vì họ đến một nơi đủ ồn ào để khỏi phải chuyện trò. Cô sẽ uống một cốc bia, có lẽ là hai cốc, nghe vài bản nhạc hay từ thập kỷ 90 trên máy hát tự động, và ngồi dưới tấm màn che phủ của bóng đêm – một mình.
Mất mấy giây mắt cô mới thích nghi được, mặc dù cô nhận ngay ra giọng Julian. Cuối cùng khi cô chú mục lên sân khấu phía trước, cô nhìn mà không tin vào mắt mình: anh ngồi đó trong tư thế quen thuộc bên cạnh chiếc dương cầm, những ngón tay đang lướt và miệng kề sát vào micro, hát bài hát cô thích nhất trong các sáng tác của anh:
… Người mẹ ngồi trong căn phòng, đơn độc
Đơn độc trong ngôi nhà như bia mộ lặng câm
Trên vương miện, người cha kiểm từng viên ngọcNỗi đau mất mát được đong đếm bằng tiền bạc…
Cô không biết chắc mình đã đứng chôn chân bao lâu ở cửa, ngay lập tức và hoàn toàn mê mải chăm chú vào tiết mục của anh, nhưng cũng đủ lâu để Trent đưa ra lời nhận xét.
“Anh ta chơi khá hay phải không? Đi nào, tôi thấy đôi ghế trống ở đằng kia.”
Anh ta dắt tay cô và Brooke để mình bị kéo đi qua đám đông. Cô ngồi lên chiếc ghế mà Trent chỉ cho và chỉ vừa kịp đặt chiếc xắc của mình lên bàn thì bài hát kết thúc và Julian thông báo anh sẽ nghỉ giải lao. Cô láng máng nhận ra là Trent đang nói với mình, nhưng giữa tiếng ồn trong quán bar và lòng vọng tưởng mà cô hướng về nơi có Julian, cô chẳng nghe thấy những gì Trent đang nói.
Việc đó xảy ra nhanh đến nỗi cô chưa kịp hiểu ra. Một giây trước Julian còn đang tháo móc chiếc harmonica từ cái giá phía trên đàn dương cầm, giây sau đó anh đã đứng ngay trước bàn của họ, tươi cười. Như mọi khi, anh mặc áo phông trắng giản dị, quần jean cùng với chiếc mũ len, chiếc này màu cà tím. Mặt và trán anh lấp loáng ánh mồ hôi.
“Này cậu, mừng là cậu tới được,” Julian vừa nói vừa đập lên vai Trent.
“Ừ, em cũng thế. Có vẻ như bọn này lỡ mất hiệp đầu rồi.” Một người nào đó vừa rời khỏi chiếc ghế ở bàn bên, và Trent kéo nó cho Julian. “Ngồi tí đã.”
Julian ngập ngừng, liếc nhìn sang Brooke với nụ cười phơn phớt, rồi ngồi xuống.“Julian Alter,” anh tự giới thiệu và chìa tay ra bắt.
Brooke định đáp lời thì Trent đã cướp lời cô. “Chúa ơi, tôi ngớ ngẩn tệ! Ai dạy tôi cách cư xử thế không biết? Julian, đây là…, à ờ, đây là Brooke. Brooke
“Greene,” cô đế vào, lấy làm mừng vì Trent đã bộc lộ cho Julian thấy họ quen nhau sơ sài đến mức nào.