Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đêm Qua Anh Ở Đâu?

Chương 11

Tác giả: Lauren Weisberger

Brooke vẫy đáp lại, nhưng Heather đã bước ra vỉa hè rồi. Cô cũng chuẩn bị đi khỏi đó, cố không lăn tăn xem liệu mình có chia sẻ quá đà hay kín kẽ quá hoặc đã làm gì đó để Heather phải sợ hãi không, đúng lúc đó chuông điện thoại của cô reo. Màn hình điện thoại hiện tên người gọi là Neha, một người bạn cùng học cao học với cô

“Chào!” Brooke nói trong lúc để vài đồng đô la lên quầy thu tiền và bước ra ngoài. “Cậu khỏe không?”

“Brooke! Mình chỉ gọi để chào cậu một cái. Cứ như đã hàng thế kỷ kể từ khi chúng mình nói chuyện lần trước rồi ấy nhỉ.”

“Ừ, đúng thế thật. Boston thế nào? Cậu có thích cái phòng khám cậu đang làm không? Và đến đời thuở nào thì cậu mới hạ cố đến thăm mình đây?”

Đã sáu tháng kể từ ngày các cô gặp nhau lần trước khi Neha và chồng là Rohan đến New York trong dịp Giáng sinh. Họ là bạn thân từ thời cao học, chỉ sống cách nhau vài dãy phố ở Brooklyn, nhưng ít liên lạc hơn kể từ khi Neha và Rohan chuyển đến Boston hai năm trước.

“Ừ, mình thích phòng khám đó lắm – thực tế nó tốt hơn là mình nghĩ rất nhiều – nhưng mình đã sẵn sàng quay lại New York. Boston cũng đẹp, nhưng là kiểu khác.”

“Cậu thực sự đang nghĩ đến chuyện quay về đây á? Khi nào vậy? Ồ, kể hết đi xem nào!”

Neha cười to. “Chưa sớm thế đâu. Cả hai vợ chồng mình phải tìm được việc đã, và chắc mình tìm việc dễ hơn Rohan. Nhưng bọn mình sẽ tới thăm vào dịp lễ Tạ ơn vì cả hai đứa bọn mình đều được nghỉ. Dịp ấy cậu và Julian có ở đó không?”

“Vợ chồng mình thường tới thăm bố mình ở Pennsylvania, nhưng bố mình vẫn bảo năm nay họ sẽ đi thăm gia đình mẹ kế mình rồi. Vậy nên có khả năng chúng mình sẽ phải tự thân vận động và làm chủ nhà ở New York. Nếu chúng mình ở lại thì các cậu sẽ đến chứ? Đến nhé?” Brooke biết cả hai bên nội ngoại của bạn đều ở Ấn Độ và cả hai đều không ăn mừng lễ Tạ ơn, nhưng đó sẽ là chuyến xả hơi đáng mừng sau thời gian căng thẳng chuyện

“Tất nhiên là bọn mình sẽ đến rồi! Nhưng chúng mình phải quay lại chủ đề chút xíu, được không? Cậu có tin được những gì đang xảy ra trong đời cậu ngay lúc này không? Mỗi ngày cậu có phải tự cấu xem mình tỉnh hay mê không đấy? Thật không tưởng tượng nổi. Cái cảm giác có ông chồng nổi tiếng như thế nào hả cậu?”

Brooke hít thật sâu. Cô nghĩ mình nên thành thật với Neha, kể với cô bạn về bức ảnh đã làm đảo lộn cuộc đời họ ra sao, rằng cô có cảm giác lẫn lộn về mọi thứ đang xảy ra thế nào, nhưng bỗng nhiên việc này dường như làm cô kiệt sức. Không chắc mình phải xử sự ra sao, cô chỉ cười trừ và nói dối.

“Cảm giác thú lắm, Neha à. Đó là điều hết sảy trên đời.”

***

Chẳng có gì tệ hơn là phải đi làm vào một ngày thứ Bảy. Là một trong các bác sĩ dinh dưỡng có thâm niên cao của khoa, đã từ lâu Brooke không phải trực định kỳ ngày thứ Bảy và cô đã quên bẵng đi rằng những ca trực đó chán đến mức nào. Đó là một sáng cuối tháng Sáu đẹp trời; tất cả những người cô quen biết đều đang thưởng thức bữa ăn nhẹ bên ngoài hoặc đi picnic ở công viên Trung Tâm hoặc chạy bộ dọc theo công viên Sông Hudson. Một nhóm các thiếu nữ mặc quần soóc jean và đi dép tông đang ngồi buôn chuyện và nhâm nhi sinh tố trái cây ở một tiệm cà phê cách bệnh viện một dãy phố, và Brooke phải cố kiềm chế lắm mới không giật phăng chiếc áo bác sĩ và đôi sục đế gỗ gớm ghiếc ra mà nhập vào nhóm đó để chén những chiếc bánh kếp. Cô vừa dợm bước vào bệnh viện thì chuông điện thoại của cô réo lên.

Cô nhìn chằm chặp vào màn hình và cân nhắc xem có nên trả lời cái số máy có mã vùng 718 không quen cho thấy nó được gọi từ một quận ngoại vi, nhưng có lẽ cô đã nghĩ quá lâu vì cuộc gọi đã được chuyển sang hộp thư thoại. Khi người gọi không để lại lời nhắn mà gọi lại lần thứ hai thì Brooke bắt đầu thấy lo lắng.

“Xin chào, Brooke đây,” cô nói mà ngay lập tức chắc chắn rằng mình đã phạm sai lầm và người gọi bí ẩn này hẳn sẽ là một phóng viên.

“Cô Alter phải không ạ?” một giọng nói rụt rè khọt khẹt qua đường dây. “Em là Kaylie Douglas đây. Từ trường Huntley ấy ạ.”

“Kaylie à! Em khỏe không? Mọi việc ổn cả đấy chứ?’

Mới vài tuần trước, ở buổi tư vấn cuối cùng trước khi trường đóng cửa nghỉ hè, Kaylie dường như có chiều hướng thoái bộ. Cô bé bỏ không ghi nhật ký ăn uống nữa, mặc dù trước đó cô bé đã rất chăm chỉ ghi chép, và cô bé thông báo quyết tâm dành mùa hè đó cho một chế độ tập luyện khổ ải và một số chế độ ăn kiêng để giảm cân nhanh. Cô khuyên bảo cô bé cách mấy cũng chẳng ích gì; Brooke chỉ có thể hoàn thành được mỗi một việc là làm cho cô bé khóc và tuyên bố rằng “không ai hiểu được rằng vừa nghèo rớt lại vừa béo phì lại ở cái chốn toàn những người giàu có và xinh đẹp thì sẽ có cảm giác như thế nào đâu.” Brooke lo lắng đến nỗi cô cho Kaylie số di động của mình và nài nỉ cô bé gọi cho cô bất kỳ lúc nào trong dịp hè, dù có bất kỳ trục trặc nào hay không. Cô đã nói rất thật lòng, nhưng cô vẫn ngạc nhiên khi nghe thấy giọng cô bệnh nhân trẻ của mình ở đầu dây bên kia.

“Vâng, em ổn ạ…”

“Em có việc gì thế? Vài tuần nghỉ này em sống thế nào?”

Cô bé bật khóc. Những hơi thở nghẹn ngào thỉnh thoảng lại xen thêm những câu “Em xin lỗi.”

“Kaylie? Hãy nói với cô đi. Nói cho cô xem có chuyện gì?”

“Ôi, thưa cô Alter., mọi thứ thật là thảm họa! Em làm việc ở Taco Bell và mỗi ca làm việc em được một suất ăn miễn phí và cha em bảo rằng em cần phải ăn đồ ăn miễn phí đó, vì vậy em đã ăn. Nhưng lúc em về nhà bà em lại nấu đủ thứ đồ ăn béo và em đến nhà các bạn em, ở trường cũ ấy, và thế là, vâng, hàng xô gà rán và bánh burrito và bánh quy và em ăn hết mọi thứ vì em thấy đói quá. Em chỉ vừa mới xa trường có vài tuần mà đã tăng thêm bốn cân nữa rồi

Bốn cân trong ba tuần nghe có vẻ đáng cảnh báo, nhưng Brooke cố nói với giọng dịu dàng và điềm tĩnh. “Cô chắc em không đến nỗi ấy, em thân mến ạ. Em chỉ cần nhớ những gì chúng ta đã nói: suất thịt bằng bàn tay em, xa lát rau lá xanh và các loại rau củ ăn bao nhiêu tùy thích miễn là em cẩn thận với nước xốt rưới lên, bánh quy vừa phải thôi. Bây giờ cô không ở nhà, nhưng cô có thể kiểm tra thực đơn của Taco Bell và cho em những lựa chọn có lợi cho sức khỏe hơn nếu em muốn. Điều quan trọng là đừng có sợ cuống lên. Em rất trẻ và khỏe mạnh – hãy đi dạo với bạn bè, hoặc tập đá bóng trong công viên. Chưa phải là tận thế đâu Kaylie, tin cô đi.”

“Năm học tới em không thể quay về trường nếu trông bộ dạng em như thế này. Hiện tại em đã vượt quá ngưỡng rồi! Trước kia em chỉ chấp chới trên mốc trung bình chút ít, mà thế đã là quá tệ, nhưng bây giờ thì em bị béo phì rõ rành rành rồi!” Giọng cô bé nghe bấn loạn.

“Kaylie này, em còn xa mới đến mức béo phì,” Brooke nói. “Và mùa thu này em sẽ có một năm học rất thú vị ở trường. Nghe này, tối nay cô sẽ khảo sát chút ít, và cô sẽ gọi cho em khi có thông tin, được không? Đừng quá lo lắng như thế, em thân mến.”

Kaylie sụt sịt. “Em xin lỗi đã làm phiền cô,” cô bé nói khẽ.

“Em có làm phiền gì cô đâu! Cô cho em số điện thoại để em có thể gọi mà, và cô vui vì em đã gọi. Em làm cô cảm thấy mình được yêu quý đấy.” Brooke mỉm cười.

Họ cúp máy và Brooke tự gửi cho mình một email nhắc nhở tìm kiếm thông tin dinh dưỡng về các nhà hàng bán đồ ăn nhanh và chuyển chúng cho Kaylie. Cô trễ vài phút lúc đến phòng nghỉ ở tầng trên bệnh viện, và khi cô đến nơi thì chỉ còn mỗi Rebecca đồng nghiệp của cô ở đó.

“Chị làm gì mà ở đây hôm nay?” cô ta hỏi.

“Ồ, tôi trực bù vài ca nghỉ. Thật không may, thỏa thuận là đổi ba ca lấy hai ca trực đều vào ngày

“Úi chà. Điều kiện khó nhằn đây. Nhưng có đáng không?”

Brooke cười buồn, “Ừ, tôi nghĩ tôi chết mất, nhưng xem Julian biểu diễn ở Bonnaroo thật đã.” Cô đặt xắc tay và gói đồ ăn trưa vào ngăn tủ của mình rồi theo Rebecca ra ngoài hành lang. “Không biết Margaret hôm nay có đến không nhỉ?”

“Tôi đây thôi!” Một giọng nói vui vẻ vang lên đằng sau họ. Sếp của Brooke mặc quần Âu đen, áo kiểu xanh nhạt và đi giày da lười màu đen, phủ ra ngoài là chiếc áo blu hồ là phẳng phiu đẹp đẽ có thêu tên và chức vụ của bà.

“Chào bà Margaret,” Rebecca và Brooke đồng thanh nói trước khi Rebecca tách ra, viện cớ cô ta đã muộn giờ tiếp bệnh nhân đầu tiên rồi.

“Brooke này, sao cô không đi cùng đến văn phòng tôi một phút nhỉ? Chúng ta có thể nói chuyện ở đó.”

Ác mộng. Lẽ ra cô phải nhớ rằng Margaret lúc nào cũng xuất hiện vào các sáng thứ Bảy chỉ để đảm bảo rằng mọi việc diễn ra trôi chảy.

“Ô… ồ, thế nào cũng được ạ,” cô lắp bắp. “Tôi, à, tôi vừa tự hỏi xem có nên đến chào bà không.”

Sếp cô đã bắt đầu đi theo hành lang dài về phía văn phòng của bà. “Đi ngay thôi,” bà gọi Brooke, cô chẳng có lựa chọn nào ngoài cách đi theo bà cả. Người phụ nữ này hẳn đã cảm thấy Brooke đang định xin nghỉ thêm.

Văn phòng của Margaret nằm ở cuối một hành lang tối om, sát phòng chứa đồ và cùng tầng với khoa phụ sản, có nghĩa là có khá nhiều khả năng là câu chuyện sẽ bị ngắt quãng bởi tiếng rên la hoặc gào thét ngoài tầm kiểm soát. Điểm lợi duy nhất là có thể liếc vào phòng chăm sóc trẻ sơ sinh khi họ đi qua. Có lẽ lát nữa cô sẽ có vài giây rỗi rãi để vào đó bế một vài em b

“Vào thẳng đây đi,” Margaret nói trong lúc mở toang cửa và bật đèn. “Cô gặp tôi thật đúng lúc.”

Brooke ngập ngừng bước theo sau bà vào phòng và đợi sếp dọn một đống giấy tờ ra khỏi chiếc ghế dành cho khách trước khi ngồi xuống ghế của bà.

“Sao tôi lại có hân hạnh này?” Margaret mỉm miệng cười, nhưng Brooke hiểu ngụ ý của bà. Trước kia họ luôn có mối quan hệ thoải mái tự nhiên, nhưng gần đây Brooke bắt đầu nhận thấy sự căng thẳng giữa họ với nhau.

Cô gượng cười và cầu mong đó không phải là cách khởi đầu bất lợi đối với cuộc nói chuyện mà cô rất cần diễn ra tốt đẹp. “Ồ, tôi chắc chẳng phải là hân hạnh gì đâu, tôi chỉ muốn nói chuyện với bà về…”.

Margaret lại mỉm cười. “Nó là một hân hạnh nho nhỏ nếu xét đến việc gần đây tôi không được gặp cô mấy. Tôi mừng là cô đến đây, vì rằng có một vài việc tôi cần trao đổi với cô.”

Brooke hít một hơi sâu và tự nhủ phải giữ bình tình.

“Brooke, cô biết rằng tôi quý cô biết bao, và không cần nói thì cô cũng biết rằng tôi rất hài lòng với thành tích của cô suốt những năm cô làm việc ở đây. Và tất nhiên, cả các bệnh nhân cũng thế, bằng chứng là những đánh giá tuyệt vời của họ vài tháng trước đây.”

“Cảm ơn bà,” Brooke nói, không biết phải trả lời ra sao nhưng chắc mẩm câu chuyện sẽ chẳng dẫn đến kết cục tốt đẹp nào cả.

“Đó chính là lý do tại sao tôi hết sức phiền lòng khi cô tụt hạng từ chỗ đứng thứ hai ở bảng chuyên cần xuống chỗ đứng thứ hai ở hạng hay nghỉ làm nhất trong toàn bộ danh sách bác sĩ. Chỉ có Perry là tệ hơn cô mà thôi.

Bà chẳng cần phải nói hết. Cuối cùng mọi người cũng đã được thông báo tóm tắt về những gì xảy ra với Perry, và ai nấy đều thở phào vì đã tưởng là có điều gì đó tệ hơn thế nữa. Có vẻ như sáu tháng trước đó cô này đã bị sẩy thai khi thai nhi đã lớn, và điều đó là nguyên nhân cho vài buổi vắng mặt của cô ta. Giờ đây khi lại có thai, cô ta bị bắt phải nằm nghỉ ngơi một chỗ kể từ tháng thứ ba đến tháng thứ sáu của thai kỳ. Thế có nghĩa là năm chuyên gia dinh dưỡng chính thức khác của khoa phải làm thêm giờ để bù đắp cho Perry, và xét tình hình đó thì không một ai phản đối cả. Brooke đã cố hết mình để bù đủ ngày làm thêm của cô mỗi tuần và những ca gọi cấp cứu thêm vào cuối tuần, hiện nay đã từ sáu tuần một lần nhảy lên năm tuần một lần, nhưng đồng thời vẫn phải gắng bắt nhịp với lịch di chuyển của Julian – để chia sẻ cùng anh niềm hân hoan náo nức – nên việc đó trở nên gần như không kham nổi nữa.

Đừng có thanh minh thanh nga gì cho mình cả; đừng có xin lỗi; chỉ nên cam đoan với bà ấy lần nữa rằng ta sẽ làm việc tốt hơn, Brooke tự nhủ. Một người bạn là bác sĩ tâm lý từng nói với cô rằng phụ nữ cảm thấy buộc phải đưa ra những lời giải thích dài dòng và lý do lý trấu bất kể khi nào họ phải báo những thông tin tiêu cực, vì vậy nên cái cách tác động mạnh hơn rất nhiều là tuyên bố tin đó mà đừng xin lỗi hoặc viện lý do gì cả. Brooke thường làm theo cách đó, nhưng ít khi thành công.

“Tôi xin lỗi!” cô buột ra trước khi có thể chặn mình lại. “Gần đây tôi đang có, ừm, quá nhiều vấn đề gia đình, và tôi đang cố gắng hết sức để giải quyết những vấn đề đó. Tôi thực sự hy vọng rằng mọi việc sẽ sớm đâu vào đấy.”

Margaret nhướng một bên mày lên nhìn chòng chọc vào Brooke. “Chả lẽ cô nghĩ rằng tôi không biết những gì đang xảy ra ư?” bà ta hỏi.

“Sao kia, không, tất nhiên là không. Chỉ là vì có quá nhiều…”

“Có họa sống tịt trong hang mới không biết cô đang phải trải qua những gì.” Bà lại mỉm cười lần nữa, và Brooke cảm thấy dễ thở hơn chút ít. “Nhưng tôi còn có cả đội ngũ nhân viên phải quản lý và tôi bắt đầu lo ngại. Trong tuần vừa qua cô đã xin nghỉ bảy ngày – đó là chưa kể đến ba ngày cô nghỉ ốm đầu năm nay – và tôi cho rằng hôm nay cô đến đây là để xin nghỉ thêm nữa. Tôi nói có đúng không?”

Brooke mau chóng cân nhắc các lựa chọn của mình. Kết luận rằng mình chẳng có lựa chọn nào khác, cô chỉ còn biết gật đầu.

“Khi nào và bao lâu?”

“Ba tuần nữa, và chỉ một ngày thứ Bảy thôi. Tôi biết tôi đã có lịch làm việc tất cả các ngày cuối tuần, nhưng Rebecca sẽ đổi cho tôi và ba tuần nữa tôi sẽ lấy ngày nghỉ cuối tuần của cô ấy. Vì vậy đó, à, đúng là chỉ một ngày thôi ạ.”

“Chỉ một ngày thôi.”

“Vâng, đó là một sự kiện quan trọng, ừm, trong gia đình, nếu không tôi đã chẳng xin phép.” Cô ghi nhớ trong đầu phải cẩn thận hơn mọi khi để tránh các ống kính máy ảnh trong bữa tiệc sinh nhật của cô đào Kristen Stewart ở Miami cuối tuần tới, nơi Julian được mời biểu diễn bốn bài hát. Khi anh thoái thác không muốn xuất hiện ở bữa tiệc sinh nhật của ngôi sao trẻ tuổi đang lên, Leo cứ nài nỉ khẩn cầu anh mãi. Brooke chẳng thể giúp gì ngoài việc cảm thấy khó chịu thay cho Julian; điều tối thiểu mà cô có thể làm được là đến đó khích lệ anh.

Margaret mở miệng định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Bà gõ nhẹ bút chì lên môi dưới khô nẻ và chằm chằm nhìn Brooke. “Cô có nhận thấy rằng cô đã dùng gần hết ngày phép năm nay của cô mà bây giờ mới là tháng Sáu không đấy?”

Brooke gật đầu.

Margaret gõ bút chì xuống mặt bàn. Cạch-cạch-cạch, tiếng động hòa âm với cơn đau giần giật trong đầu Brooke.

“Và tôi không cần phải nhắc cô nhớ rằng sẽ không bao giờ lặp lại việc báo ốm để đi dự tiệc với chồng cô nữa, phải không? Xin lỗi, Brooke, nhưng tôi không thể đối x đặc biệt với riêng cô được.”

Úi chà. Cho đến nay Brooke mới chỉ làm thế có một lần và cứ đinh ninh rằng Margaret không biết, nhưng chắc chắn cô đã tính sẽ tiêu nốt mười ngày nghỉ ốm còn lại của mình một khi hết ngày nghỉ phép. Giờ thì hiển nhiên cơ hội đó chẳng còn nữa. Brooke cố gắng lấy vẻ bình tĩnh và nói, “Tất nhiên là không rồi.”

“Ừ, thế thì được rồi. Thứ Bảy là của cô đấy. Còn gì khác nữa không?”

“Không còn gì nữa đâu. Cảm ơn vì bà đã thông cảm.” Brooke xỏ chân vào đôi sục đế gỗ dưới gầm bàn Margaret và đứng lên. Cô vẫy tay nhè nhẹ rồi chuồn ngay qua cửa văn phòng trước khi Margaret kịp nói thêm một lời.

7

Bị đám trẻ ranh làm rối mù lên

Brooke bước vào tiệm vẽ móng Lucky ở đại lộ 9 và thấy mẹ cô đã ngồi đó đọc một bản tạp chí Last night. Vì Julian hay đi vắng như thế nên mẹ cô đã tình nguyện lên thành phố dẫn cô đi chăm sóc móng chân móng tay sau giờ làm việc, mua một ít sushi cho bữa tối, và ngủ lại một đêm trước khi quay trở về Philly sáng hôm sau.

“Chào mẹ,” Brooke nói trong lúc cúi xuống hôn bà. “Xin lỗi con đến muộn. Hôm nay tàu chạy chậm đến lạ.”

“Ô, không sao đâu, con yêu. Mẹ vừa mới đến đấy và đang cập nhật mục lượm lặt gần xa về những người nổi tiếng.” Bà chìa bản tạp chí Last night ra. “Không có gì về Julian hoặc con đâu, vậy nên đừng lo.”

“Cảm ơn mẹ, nhưng con đã đọc n,” cô nói và nhúng chân vào chậu nước ấm pha xà phòng. “Nó đến theo đường bưu điện một ngày trước khi tung ra bán ở quầy báo. Con nghĩ rằng mẹ có thể chính thức gọi con là chuyên gia về vấn đề này được rồi đấy.”

Mẹ Brooke phá lên cười. “Có lẽ nếu con là chuyên gia đến mức độ ấy thì con có thể giải thích về những ngôi sao truyền hình thực tế này. Mẹ thấy thật khó mà phân biệt được họ với nhau”.

Bà Green thở dài giở sang trang, lộ ra toàn bộ một trang đúp là những diễn viên thiếu niên trong bộ phim ma cà rồng mới nhất. “Mẹ nhớ tiếc những ngày xưa khi Paris Hilton rất hay lộ quần lót và George Cloony xoay xở thoát được một cô phục vụ cocktail nữa. Giờ đấy mẹ thấy như mình bị một đám trẻ ranh làm cho rối tinh rối mù lên vậy.”

Điện thoại của Brooke đổ chuông. Cô định để mặc nó chuyên sang hộp thư thoại, nhưng với hy vọng mong manh có thể là Julian gọi, cô lôi điện thoại ra khỏi túi xách.

“Ối! Em đã hy vọng có thể là anh đấy. Ở đó bấy giờ mấy giờ rồi?” Cô nhìn đồng hồ của mình. “Thế quái nào mà anh lại gọi vào giờ này vậy? Anh không phải chuẩn bị cho tối nay sao?”

Mặc dù dó là chuyến biểu diễn cá nhân lần thứ năm hoặc thứ sáu của Julian ở Los Angeles kể từ bữa tiệc Friday Night Lights, Brooke vẫn thấy rối rắm vì múi giờ chênh nhau. Lúc Julian ngủ dậy ở bờ Tây thì Brooke đã hết giờ ăn trưa và quay trở lại làm việc cho đến hết buổi chiều. Cô sẽ gọi điện cho anh vào buổi tối ngay khi cô về đến nhà, những cuộc gọi này thường tới chỗ anh ngay giữa chừng các cuộc họp, và rồi anh luôn ra ngoài ăn tối khi cô chuẩn bị lên giường đi ngủ và anh chả bao giờ có thể thốt ra điều gì ngoài lời thì thầm “chúc ngủ ngon” trên nền những tiếng cụng ly và cười nói. Chỉ chênh nhau có ba tiếng đồng hồ, nhưng với những người có lịch làm việc hoàn toàn trái ngược như vậy thì cứ như thể họ liên lạc khi đang ở hai bên đường đổi ngày quốc tế. Cô cố gắng kiên nhẫn, nhưng mới tuần trước đấy thôi, ba đêm qua đi với toàn tin nhắn và một câu ngắn ngủn “Gọi cho em sau nhé.’’

“Brooke à, thật là sôi sùng sục, đủ loại chuyện trên đời đang xảy ra ở đấy.” Giọng anh nghe phấn khích, dường như anh phởn đã từ mấy ngày nay.

“Hy vọng là những thứ tốt đẹp chứ?”

“Còn trên cả tốt đẹp nữa ấy chứ! Anh định gọi cho em đêm qua nhưng lúc anh quay về khách sạn thì chỗ em đã bốn giờ sáng rồi.”

Cô thợ làm móng đã cắt xong những lớp da chết và đặt bàn chân phải của Brooke lên đùi mình. Cô ta bóp một loại xà phòng màu xanh lá non lên một miếng đá bọt và chà mạnh lên vùng nhạy cảm giữa bàn chân. Brooke kêu lên.

“Ối! À, em có thể hưởng thụvài tin vui. Có gì thế anh?”

“Tin chính thức đấy: anh sẽ đi lưu diễn.”

“Gì cơ? Không! Em tưởng anh nói là trước khi phát hành album thì cơ hội đó rất mỏng manh hoặc gần như không có cơ mà. Rằng các công ty thu âm không tài trợ kiểu đấy nữa”.

Một giây ngừng lặng. Giọng Julian có vẻ cáu kỉnh khi anh nói, “Anh biết anh đã nói thế nhưng việc này khác. Anh sẽ kết hợp với Maroon 5 giữa chừng chuyên lưu diễn của họ. Ca sĩ chính diễn tiết mục mở màn của ban này bị suy nhược thần kinh gì đó, vì vậy Leo liên lạc với người quen ở công ty tổ chức biểu diễn Live Nation, và đoán xem ai chiếm được vị trí đó nào? Có vẻ như anh sẽ có cơ hội trở thành người diễn tiết mục mở màn thứ hai nếu ban nhạc đó tiếp tục tách ra đi lưu diễn, nhưng kể cả khi điều đó không xảy ra thì công bố trên cũng đã quá khó tin rồi.”

“Ôi, Julian, chúc mừng anh!” Brooke gắng chỉnh giọng mình để đảm bảo nghe như cô đang hởi dạ lắm mà không chút chạnh lòng. Với ánh mắt kỳ cục mà mẹ cô đang chằm chằm hướng vào cô như thế kia thì khó mà nói là cô có thành công hay không.

“Ừ, thật khó tin. Bọn anh sẽ dành tuần này để diễn tập, và sau đó bọn anh sẽ lên đường. Album sẽ ra trong vài tuần lưu diễn đầu tiên, thời điểm chuẩn hết chỗ nói. Và Rook nà! Họ nói về tiền tươi thóc thật đấy.”

“Gì cơ?” cô hỏi.

“Tiền tươi thóc thật ấy. Một phần trăm trên tổng số vé bán được. Còn cao hơn nữa nếu bọn anh có thể chiếm được vị trí mở màn thứ hai. Xét việc Maroon 5 bán hết sạch vé ở những điểm diễn như MSG (1) xem… sẽ là cả một đống tiền khủng đấy. Và điều này mới lạ chứ,” – Giọng anh thấp xuống – “có vẻ như người ta luôn nhìn vào anh. Nhận ra anh.”

(1) MSG: tên viết tắt của Madison Square Garden, sân vận động ở Manhattan, New York. Đây là khán đài biểu diễn âm nhạc có số lượng vé bán ra đứng thứ ba trên thế giới, sau M.E.N. Arena ở Manchester và The O2 Arena ở London, cả hai đều ở nước Anh.

Cô thợ làm móng bôi kem ấm thật dày rồi bắt đầu xoa bóp bắp chân Brooke. Brooke chẳng muốn gì hơn là nhấn nút kết thúc trên điện thoại di động, ngả chiếc ghế mát xa ra và thưởng thức cái cảm giác đôi chân được xoa bóp. Cô không hề cảm thấy gì ngoài nỗi lo âu. Cô biết lẽ ra cô phải hỏi về những người hâm mộ và báo chí, nhưng tất cả những gì cô có thể hỏi là, “Tức là tuần này bắt đầu những buổi diễn tập phải không anh? Đêm nay anh có về nhà trên chuyến bay muộn nhất không? Em đã tưởng sẽ được gặp anh sáng mai trước khi đi làm.”

“Kìa Brooke.”

“Sao cơ?”

“Đừng mà em.”

“Đừng cái gì mới được chứ? Đừng hỏi bao giờ anh về nhà ấy à?”

“Hãy vì anh mà đừng hủy hoại niềm vui này. Anh rất, rất phấn khởi, đây ắt hẳn là điều lớn lao nhất kể từ hợp đồng album năm ngoái. Có thể là, còn lớn hơn ấy chứ. Sế hoạch tổng thể trong suốt sự nghiệp của anh thì sáu hay bảy ngày có gì là ghê gớm lắm không?”

Sáu hay bảy ngày là cho tới khi anh về nhà, có thể thế, nhưng còn đi lưu diễn thì sao? Chỉ duy ý nghĩ về chuyện đó cũng làm cô phát hoảng vì sợ rồi. Họ sẽ xử lý vấn đề đó thế nào đấy? Họ có thể xử lý nó không? Nhưng chính lúc đó cô nhớ lại cái đêm vài năm trước ở vịnh Sheepshead khi chỉ có bốn người đến xem và Julian đã suýt không kìm được nước mắt. Đó là chưa kể tất cả những giờ mà họ đã phải xa nhau trong thời gian biểu làm việc điên cuồng của họ, tất cả những áp lực về tiền bạc và thời gian và những giả định thế nọ thế kia mà họ tuôn ra khi một trong hai người cảm thấy rất tiêu cực. Sự hy sinh đó, tất cả chỉ để đổi lấy điều này, lấy giây phút này.

Chàng Julian ngày xưa có lẽ đã hỏi han về Kaylie. Khi cô kể với anh về cú điện thoại khích động của cô bé một tháng trước đó và cô đã tìm kiếm những lựa chọn thay thế đồ ăn nhanh và gửi email cho cô bệnh nhân trẻ của mình thế nào, Julian đã ôm lấy cô mà nói anh xiết bao tự hào về cô. Mới tuần trước đấy thôi Brooke đã gửi email cho Kaylie để kiểm tra lại tình trạng cô bé và lo lắng vì không nhận được hồi âm. Một ngày sau cô lại gửi tiếp và Kaylie viết trả lời rằng cô bé bắt đầu kiểu thanh tẩy gì đó đọc được trên một tạp chí, và rằng cô bé tin chắc đó là giải pháp mà cô bé đang tìm kiếm lâu nay. Brooke thiếu chút nữa thì nhảy xuyên qua màn hình máy vi tính.

Những kiểu thanh tẩy chết tiệt ấy! Chúng đã là mối nguy hại cho sức khỏe những người trưởng thành bình thường, nhưng chúng còn là tai họa triệt để đối với thanh thiếu niên đang phát triển, những em dường như luôn luôn bị thu hút bởi lời chứng thực của những người nổi tiếng và lời cam đoan cho những kết quả nhanh chóng và kỳ diệu. Brooke đã gọi cho Kaylie ngay tức khắc để cảnh cáo cô bé không được làm thế, đến giờ cô đã thuộc nằm lòng mấy câu cảnh cáo này, vì việc thanh tẩy, nhịn ăn và ăn kiêng bằng nước quả vốn là những phương pháp được ưa chuộng ở Huntley – và cô thở phào nhẹ nhõm khi phát hiện ra rằng Kaylie, không giống như những bạn cùng lớp khác, trên thực tế rất dễ tiếp thu những gì cô cần nói. Cô hứa sẽ trao đổi với cô bé mỗi tuần một lần suốt dịp hè đó, và chừng nào quay trở lại tư vấn thường xuyên cho cô bé khi trường khai giảng, cô hy vọng mình sẽ thực sự giúp được em.

Nhưng Julian chẳng hỏi han gì về Kaylie, hoặc về công việc của cô ở bệnh viện, hoặc về Randy, thậm chí cả về Valter cũng không nốt, và Brooke im lặng. Cô quyết định không nhắc Julian rằng suốt vài tuần qua anh chỉ về nhà có vài ba đêm, và rằng hầu hết những đêm đó anh dành thời gian để gọi điện thoại hoặc nói những câu chuyện tưởng như không bao giờ dứt với Leo và Samara ở phòng thu. Và, việc khó khăn nhất là cô phải buộc mình không được dò hỏi ngày lưu diễn của anh hoặc hỏi xem anh đi đường mất bao lâu.

Bình luận