Jimmy đứng bên kia dải băng phong toả hiện trường màu vàng, đối diện với một hàng rào cảnh sát kiên cố nhìn Sean đi xuyên qua bãi cỏ vào công viên, không hề quay đầu lại lấy một lần.
“Ông Marcus,” một nhân viên cảnh sát có tên là Jefferts nói với hắn, “tôi đi kiếm cho ông một ly cà phê hay cái gì để uống nhé?” Viên cảnh sát nhìn lên, tránh ánh mắt của Jimmy và hắn cảm thấy trong cái nhìn tránh né đó cùng động tác gại ngón tay cái vào bụng của ông ta một vẻ gì đó vừa như thương hại vừa hơi khinh thường. Sean đã giới thiệu hai người họ với nhau, bảo Jimmy rằng Jefferts là một cảnh sát tốt và giải thích với Jefferts rằng Jimmy là cha của cô gái chủ nhân chiếc xe ô tô bị bỏ rơi kia. Sean bảo Jefferts làm theo những gì Jimmy yêu cầu và giao hắn cho Talbot khi cô ta tới nơi, khiến Jimmy đoán Talbot hoặc là bác sĩ tâm lý của cảnh sát hoặc là một nhân viên phúc lợi xã hội bệ rạc với một gánh nợ học phí đại học khổng lồ và một chiếc xe ô tô sặc mùi thức ăn nhanh.
Hắn ta phớt lờ lời mời của Jefferts và băng qua phố về phía Chuck Savege.
“Chuyện gì thế Jim?”
Jimmy lắc đầu, dám chắc là hắn sẽ ói ra khắp người và lên cả mặt Chuck nếu phải diễn đạt cảm giác lúc này của hắn thành lời.
“Cậu có di động không?”
“Dĩ nhiên rồi,” Chuck thò tay vào áo khoác rồi rút ra chiếc điện thoại đặt vào tay Jimmy. Jimmy bấm số 411, nghe thẫy tổng đài hỏi địa chỉ, do dự một lúc rồi mới lên tiếng, hình dung ra lời nói của mình đang vượt qua không biết bao nhiêu đoạn dây cáp trước khi rơi vào guồng xoáy lập trình của một chiếc máy vi tính khổng lồ, với những đôi mắt bằng đèn đỏ nhấp nháy.
“Danh bạ gì?” máy tính đưa ra câu hỏi.
“Danh bạ các nhà hàng Chuck E.Cheese.” Trong lòng Jimmy đột nhiên tràn ngập một cảm giác kinh hãi, xót xa khi nhắc tới một cái tên ngớ ngẩn như vậy trên con phố này, gần chiếc xe rỗng không của con gái hắn. Hắn những muốn cắn vỡ chiếc điện thoại ra từng mảnh.
Lấy được số điện thoại rồi, hắn bắt đầu bấm máy và chờ họ nhắn Annabeth ra nghe điện. Người nhận điện thoại không bấm nút ngắt mà chỉ đặt máy xuống quầy và Jimmy có thể nghe thấy tên của vợ hắn âm vang trong máy. “Xin mời bà Annabeth Marcus tới nghe điện thoại? Bà Annabeth Marcus.” Jimmy nghe thấy cả những tiếng chuông đang rung lên từng hồi, tiếng tám mươi, chín mươi đứa trẻ con chạy huỳnh huỵch xung quanh giật tóc nhau, la hét ầm ĩ lẫn với những tiếng đe nẹt tuyệt vọng của người lớn, và rồi tên của vợ hắn lại được nhắc lại một lần nữa, âm vang khắp nơi. Jimmy hình dung ra cảnh Annabeth nghe thấy âm thanh đó với một vẻ hoang mang, mệt mỏi, cả tiểu đội tới dự lễ ban thánh thể ở nhà thờ Saint Cecilia đang tranh giành những miếng pizza xung quanh cô.
Và rồi hắn nghe thấy giọng của cô hơi bị nén lại, đầy vẻ hiếu kỳ. “Anh gọi tôi?”
Trong một khoảnh khắc, Jimmy những muốn dập máy. Phải nói gì với cô ấy bây giờ? Gọi cho cô ấy làm gì khi chưa có manh mối xác thực nào ngoài những dự cảm điên rồ của riêng hắn? Sao không để cho cô ấy và lũ trẻ thưởng thức sự yên bình thêm một lúc nữa?
Nhưng hắn biết ngày hôm nay đã xảy ra nhiều chuyện như thế, nếu không cho Annabeth biết việc hắn đang vò đầu bứt tai trên phố Sydney cạnh chiếc xe bỏ không của Katie thì cô ấy hẳn sẽ cảm thấy đau lòng. Cô ấy sẽ luôn nhớ đến buổi lễ ban thánh thể lúc nãy như một lời chúc phúc không trọn vẹn, hay tệ hơn, như một lời xúc phạm, một sự thất hứa. Và cô sẽ ghét hắn vì điều đó.
Hắn lại nghe thấy tiếng cô từ xa, “Là chiếc máy điện thoại này?” và tiếng cô cầm ống nghe lên. “Xin chào?”
“Em ơi,” Jimmy nói, khẽ hắng giọng.
“Jimmy à?” Giọng cô có vẻ hơi run. “Anh ở đâu vậy?”
“Anh, xem nào, trên phố Sydney.”
“Có chuyện gì sao?”
“Họ tìm thấy xe ô tô của nó, Annabeth.”
“Xe của ai cơ?”
“Xe của Katie.”
“Họ là ai? Cảnh sát á? Là cảnh sát?”
“Đúng thế. Con bé thì… mất tích. Ở đâu đó trong công viên Pen.”
“Ôi. Chúa ơi. Không phải vậy chứ? Không. Ôi không. Jimmy. Không thể nào.”
Jimmy lại cảm thấy nó, cái cảm giác về một biến cố khủng khiếp, ghê rợn trở lại dù hắn đã cố chôn giấu nó sâu trong đáy lòng.
“Anh chưa biết gì hơn. Nhưng xe con bé đã bị bỏ ở đây suốt đêm hôm qua và cảnh sát…”
“Ôi Jimmy, lạy Chúa tôi.”
“Cảnh sát đang tìm kiếm khắp công viên. Có đến một tiểu đoàn cảnh sát ở đây. Nên…”
“Anh đang đứng ở đâu?”
“Ở trên phố Sydney. Nghe này…”
“Đứng ở đó làm cái quái gì? Sao anh không xông vào đó?”
“Họ không để cho anh vào trong.”
“Họ á? Họ là thằng chó chết nào? Con bé có phải con gái anh không?”
“Không phải vậy. Nghe này, anh…”
“Anh vào ngay đó cho em. Chúa ơi. Con bé có thể bị thương. Đang nằm ở đâu đó, lạnh lẽo và đau đớn.”
“Anh biết, nhưng họ…”
“Em lập tức tới ngay.”
“OK.”
“Cứ phải xông vào trong đi chứ, Jimmy. Ý em là, Chúa ơi, hôm nay anh tự dưng bị làm sao thế?”
Cô nói rồi gác máy.
Jimmy trả điện thoại cho Chuck, nhận ra rằng Annabeth nói đúng. Cô ấy hoàn toàn có lý khiến Jimmy choáng váng nhận ra rằng suốt đời này hắn sẽ hối hận về sự bất lực của mình trong bốn mươi lăm phút đồng hồ vừa rồi, sẽ không bao giờ thoát khỏi sự giày vò của cảm giác ấy. Từ khi nào hắn trở thành như vậy – một kẻ chỉ biết nói vâng, thưa ngài, không, thưa ngài, đúng, thưa ngài với những tên cảnh sát khốn kiếp trong khi con gái đầu lòng của hắn mất tích? Từ khi nào một chuyện như vậy có thể xảy ra? Từ khi hắn đứng sau quầy thu ngân, cúi mọp người xuống phục vụ khách hàng để đổi lại cái cảm giác của một công dân kiểu mẫu?
Hắn quay sang bảo Chuck, “Cậu vẫn dư mấy chiếc kìm bẻ khoá trong cốp xe chứ?”
Trên mặt Chuck xuất hiện một vẻ gì đó như bị bắt lỗi. “Người ta cũng phải kiếm sống chứ Jim.”
“Xe cậu ở đâu?”
“Đầu phố, đoạn rẽ sang phố Dawes.”
Jimmy rảo bước, Chuck đi bên cạnh. “Chúng ta sẽ phá rào chui vào à?”
Jimmy gật đầu và bắt đầu tăng tốc.
Sean đi tới khúc đường chạy bộ uốn quanh hàng rào của vườn hoa, gật đầu chào mấy nhân viên cảnh sát đang dò tìm chứng cớ dưới đất và giữa các luống hoa và nhận ra vẻ mặt căng thẳng của họ, anh hiểu ra rằng họ đều đã đánh hơi được chuyện chẳng lành. Cả công viên chìm ngập trong một thứ không khí mà anh vẫn thấy xuất hiện ở một số vụ trọng án mà anh tham gia điều tra trong những năm gần đây, một thứ không khí của định mệnh, một thái độ chấp nhận, dù nặng nề, đối với số phận rủi ro của người khác.
Tất cả bọn họ khi bước chân vào trong công viên đều biết rằng nạn nhân đã chết, nhưng một phần nào đó vẫn nuôi hy vọng, dù vô cùng mong manh, và Sean hiểu rất rõ điều này. Đó chính là công việc của anh – tới hiện trường, phát hiện ra chân tướng sự thật rồi tìm mọi cách để hy vọng có thể chứng minh rằng mình đã sai. Năm ngoái, Sean tham gia điều tra một vụ án cha mẹ bị mất con. Các hãng truyền thông đại chúng đổ xô đến đưa tin vì đó là một cặp vợ chồng da trắng đáng kính nhưng Sean và các nhân viên cảnh sát khác ngay lập tức biết rằng câu chuyện của họ là giả dối, biết là đứa trẻ đã chết mà vẫn phải giả vờ an ủi hai kẻ khốn kiếp đó, hứa hẹn đảm bảo với bọn họ rằng đứa trẻ vẫn ổn, chạy theo những chứng cớ ngớ ngẩn về xung đột sắc tộc với những người da màu bị tình nghi xuất hiện trong khu vực sáng hôm đó để cuối cùng tìm thấy đứa bé lúc tờ mờ tối, trong một chiếc túi ni lông dùng cho máy hút bụi nhét dưới khe cầu thang hầm rượu. Lần đó, Sean nhìn thấy một viên cảnh sát trẻ dựa vào xe tuần tra run bần bật trong khi những người khác trông giận dữ nhưng không hề ngạc nhiên như thể họ đã mơ thấy cơn ác mộng này suốt cả đêm.
Đó là thái độ mà họ mang về nhà, vào trong những quán bar, hay trong những căn phòng khoá kín ở trụ sở và đồn cảnh sát – một thái độ chấp nhận, dù miễn cưỡng, rằng con người thật chẳng ra gì, xấu xa, ngu ngốc, nham hiểm và hễ mở miệng ra là nói dối và khi họ đột nhiên mất tích một cách khả nghi thì thường là đã chết hoặc còn tệ hơn thế.
Và thông thường, điều tệ hại nhất trong mỗi vụ án lại không phải là nạn nhân. Nạn nhân thì dù sao cũng đã chết rồi, chẳng còn đau đớn gì. Đau đớn nhất chính là người thân của họ, những người phải đối mặt với thực tế phũ phàng ấy. Họ giống như những xác chết di động, tinh thần suy nhược, cõi lòng tan nát, sống khốn khổ nốt quãng đời còn lại trong một cơ thể trống rỗng, tuy máu huyết lưu thông với đầy đủ các bộ phận nhưng không có linh hồn, trơ khấc trước nỗi đau và chỉ ngộ ra một điều là trên đời này, những điều khủng khiếp nhất, đôi khi vẫn xảy ra.
Giống như Jimmy Marcus, Sean không biết làm sao anh có đủ can đảm để nhìn thẳng vào mắt hắn và nói, đúng thế, con bé đã chết. Con gái anh đã chết, Jimmy. Ai đó đã đem con bé tới một nơi tốt đẹp hơn. Jimmy từng mất một người vợ. Tệ thật! Phải nói gì đây, Jim – Chúa bảo rằng anh vẫn còn một món nợ, và ngài sẽ tới lấy. Hy vọng anh sẽ ổn. Hẹn sớm gặp lại anh.
Sean đi qua chiếc cầu ván nhỏ bắc qua miệng vực và men theo con đường dẫn tới một lùm cây mọc thành hình vòng cung trước tấm màn chiếu phim cũ như một đám khán giả cuồng tín. Mọi người đều đã tụ tập ở dưới bậc thang dẫn tới một cánh cửa bên hông tấm màn chiếu. Sean có thể nhìn thấy Karen Hughes đang hí hoáy chụp ảnh, Whitey Powers thì đứng dựa vào khung cửa vừ quan sát vừa ghi chép, tay trợ lý pháp y thì quỳ bên cạnh Karen Hughes, cả một tiểu đoàn cảnh sát mặc thường phục và cảnh sát thành phố Boston trong đồng phục màu xanh, di chuyển phía sau lưng ba người họ. Connolly và Souza thì đang tìm gì đó trên các bậc thang, và hai sếp lớn – Frank Krauser của cảnh sát thành phố Boston và Martin Friel của cảnh sát bang, chỉ huy trưởng của Sean – đứng cách đó một chút, cạnh sân khấu phía dưới màn hình, chụm đầu lại nói chuyện với nhau.
Nếu viên trợ lý pháp y tuyên bố nạn nhân tử vong trong công viên thuộc thẩm quyền điều tra của cảnh sát bang thì vụ án sẽ do Sean và Whitey phụ trách. Sean sẽ có trách nhiệm thông báo tin này cho Jimmy. Sean sẽ phải tiếp cận, trở nên gần gũi, thậm chí ám ảnh với cuộc sống riêng tư của nạn nhân. Sean sẽ có trách nhiệm giải quyết vụ án và tạo ra một ảo tưởng, ít nhất là thế, rằng mọi chuyện cuối cùng sẽ khép lại.
Cảnh sát thành phố Boston có thể sẽ yêu cầu được điều tra vụ án. Quyết định này thuộc thẩm quyền của Friel. Ông ta có thể trao vụ án này cho họ vì tất cả các khu vực xung quanh công viên đều là địa bàn của cảnh sát thành phố và hành vi gây án đầu tiên cũng xảy ra trong phạm vi điều tra của họ. Vụ việc này sẽ thu hút sự chú ý của dư luận, Sean chắc chắn như vậy. Một vụ giết người trong công viên thành phố, dù nạn nhân có được tìm thấy trong công viên hay ở gần đó thì sự kiện này cũng nhanh chóng trở thành một dấu ấn với đời sống văn hoá của địa phương này. Không có động cơ rõ ràng. Cũng không thấy dấu vết của kẻ sát nhân, trừ phi hắn cũng thiệt mạng bên cạnh Katie Marcus nhưng Sean hoàn toàn nghi ngờ khả năng này vì chẳng có chút manh mối nào. Đây rõ ràng là một sự kiện truyền thông lớn, vì thànhh phố trong mấy năm gần đây chưa xảy ra một vụ án nào tương tự. Đám phóng viên sẽ tha hồ tán chuyện cho tới khi nước dãi chảy ngập con kênh mới thôi.
Sean không thích thú gì chuyện này, nhưng nếu những kinh nghiệm trước đó của anh là chính xác thì anh chắc chắn sẽ không tránh khỏi như vậy. Sean tụt xuống một con dốc và đi về phía tấm màn chiếu, mắt không rời khỏi Krauser và Friel, cố đoán ra câu trả lời từ mỗi hành động nhỏ nhất của họ. Nếu đúng là Katie Marcus được tìm thấy trong công viên thì Sean không còn nghi ngờ gì nữa, cả khu Hạ sẽ bùng nổ. Không phải Jimmy vì hắn ta có lẽ còn đắm chìm trong đau khổ. Nhưng anh em nhà Savage? Ở tổ trọng án, hồ sơ của mỗi tên điên rồ trong cái gia đình đó cũng đã chất cao tới nóc cửa. Sean biết cảnh sát Boston vẫn truyền miệng rằng đêm thứ Bảy nào mà không có ít nhất một tên Savage trong trại giam thì đúng là hôm ấy có nhật thực, các nhân viên cảnh sát khác không ở trong phiên trực phải tới tận nơi xem vì không tin đó là sự thật.
Trên sân khấu phía dưới màn hình, Krauser gật đầu và Friel xoay ngang ngửa nhìn quanh cho tới khi bắt gặp ánh mắt của Sean và Sean lập tức hiểu ra rằng vụ án sẽ do anh và Whitey điều tra. Sean nhìn thấy một ít máu vương trên những chiếc lá dẫn tới chân cột màn hình chiếu phim và trên những bậc thang dẫn tới cánh cửa cạnh đó.
Connolly và Souza ngẩng đầu khỏi những vết máu trên bậc thang, gật đầu với Sean vẻ u ám rồi quay trở lại nhìn chằm chằm vào những vết nứt ở chỗ cầu thang tiếp giáp với chân cột. Karren Hughes đứng dậy và Sean có thể nghe thấy tiếng máy ảnh kêu rì rì khi cô ta dùng ngón trỏ ấn nút tua lại cuộn phim đã dùng hết. Cô ta thò tay vào túi lấy ra một cuộn phim mới rồi mở nắp sau của máy chụp, mái tóc màu vàng xám của cô ta sẫm màu hơn ở hai bên thái dương. Cô ta đột ngột ngẩng lên bắt gặp ánh mắt của Sean nhưng không hề tỏ thái độ gì, bỏ cuộn phim cũ vào túi và chuẩn bị lắp cuộn phim mới.
Whitey lúc này đang quỳ xuống bên cạnh tay trợ lý pháp y và Sean nghe thấy ông ta thì thào, giọng sắc lạnh. “Gì cơ?”
“Như tôi đã nói.”
“Giờ anh có thể khẳng định chắc chắn?”
“Không dám chắc một trăm phần trăm nhưng cũng gần thế.”
“Tệ thật.” Whitey quay đầu lại nhìn Sean đang tiến lại gần, vừa lắc đầu ra hiệu cho anh, vừa giơ ngón trỏ chỉ vào nhân viên giám định pháp y.
Sean leo lên đứng ở phía sau lưng hai người bọn họ để nhìn cho rõ. Hai người kia rụt vai xuống và Sean nhìn thấy sau ngưỡng cửa một xác chết nằm co quắp, trong một khoảng hẹp chưa đầy một mét, lưng dựa vào bức tường phía bên trái anh, hai bàn chân tì lên bức tường đối diện khiến cho ấn tượng đầu tien của Sean là nghĩ tới một bào thai trên màn hình siêu âm. Bàn chân trái của cô gái để trần và lấm đầy bùn đất. Quanh mắt cá chân còn sót lại một mẩu tất rách rưới, nhăn nhúm. Chân phải nạn nhân mang một chiếc giày màu đen, đế bằng giản dị với những vảy bùn khô đã cứng lại. Tuy đã bị mất một bên giày nhưng cô gái không có thời gian tháo nốt chiếc bên kia. Tên sát nhân hẳn bám sát cô suốt đoạn đường. Thế nhưng cô cũng trốn được vào đây, thoát được hắn trong giây lát, như vậy hẳn có cái gì đó đã ngăn cản hắn, khiến hắn chậm lại.
“Souza,” Sean gọi.
“Gì cơ?”
“Cho vài người kiểm tra con đường mòn dẫn lên đây. Quan sát các bụi cây tìm xem có miếng vải rách hay da người gì đó không.”
“Đã cử một người đi dò các dấu chân ở đó rồi.”
“Biết rồi nhưng mà chúng ta cần thêm người hỗ trợ. Cậu xử lý vụ này nhé?”
“Được rồi, để tôi.”
Sean lại nhìn xuống thi thể nạn nhân. Cô gái mặc một chiếc quần bằng vải mềm màu sẫm, áo sơ mi màu xanh lính thuỷ, cổ rộng. Chiếc áo khoác bên ngoài màu đỏ lúc này đã rách nát. Bộ quần áo này hẳn là để dành cho dịp cuối tuần, Sean nghĩ, vì chúng quá diện so với trang phục ngày thường của một cô gái ở khu Hạ. Cô gái chắc ra ngoài chơi, tới một chỗ hay ho nào đó, hoặc tới nơi hẹn hò cũng nên. Thế nhưng không hiểu vì lý do gì cô gái lại kết thúc giữa khúc hành lang hẹp này, thứ cuối cùng con bé nhìn thấy, cũng có thể là thứ mùi vị cuối cùng nó ngửi được, chính là những bức tường mốc meo xung quanh.
Cứ như thể con bé chỉ tới đây để tránh một cơn mưa máu và những hạt mưa lớn vẫn còn đọng trên tóc, trên má và để lại trên quần áo những vệt ố dài. Hai đầu gối ép chặt vào ngực, khuỷu tay phải chống lên đầu gối, bàn tay nắm chặt lại dưới tai càng khiến Sean nghĩ tới một đứa trẻ hơn là một người phụ nữ đang nằm co quắp để tránh nghe thấy những âm thanh đáng sợ một cách vô ích. Xin hãy dừng lại, làm ơn.
Whitey tránh ra và Sean lập tức ngồi xổm xuống trước ngưỡng cửa. Bất chấp đám máu trên cơ thể và máu chảy thành vũng phía dưới nạn nhân cùng với mùi rêu mốc trên những bức tường bê tông xung quanh, Sean cơ hồ vẫn ngửi thấy mùi nước hoa, dù chỉ là thoảng qua, của cô gái, một thứ hương thơm rất nhẹ, hơi ngọt ngào, hơi gợi cảm khiến anh nghĩ tới những cuộc hẹn hò thời trung học, những chiếc xe hơi màu sẫm, tiếng cởi quần áo hấp tấp sột soạt và cảm giác đụng chạm như điện giật của da thịt. Dưới cơn mưa máu, Sean nhìn thấy vết bầm tím trên cổ tay, cánh tay và mắt cá chân của cô gái và biết là những chỗ đó đã bị đánh bằng vật gì.
“Hung thủ đánh nạn nhân?”
“Có vẻ như thế. Anh có nhìn thấy máu trên đỉnh đầu cô ta không? Nứt cả sọ ra. Hắn ta hẳn đã đập vỡ hung khí với cú nện đó.”
Phía bên kia nạn nhân, bên trong cái hành lang hẹp phía dưới tấm màn chiếu, là những tấm gỗ xếp chồng chất, trông giống như những thiết bị sân khấu, những tháp chuông nhà thờ, cột buồm bằng gỗ, và phần mũi một con thuyền giống như thuyền gondola ở Venice. Một khi đã chui vào đây, nạn nhân hoàn toàn bị kẹt lại, không có lối ra. Nếu kẻ truy sát tìm thấy thì nạn nhân chỉ còn đường chết. Và hắn đã tìm ra.
Hắn mở cửa ra và cô gái co rúm lại, cố bảo vệ cơ thể bằng chính tay chân của mình. Sean nghển đầu nhìn chăm chú bàn tay siết chặt lại thành nắm đấm và gương mặt của cô gái. Ngay cả khuôn mặt cũng vấy máu, hai mắt nhắm nghiền, chặt như nắm đấm, như thầm mong mọi chuyện sẽ trôi qua, hai mí mắt khép chặt lúc đầu vì sợ hãi còn lúc này là vì nạn nhân đã chết cứng.
“Có đúng là cô ta không?” Whitey Powers hỏi.
“Gì cơ?”
“Có đúng là Katherine Marcus không?” Whitey hỏi lại.
“Đúng thế,” Sean nói. Cô gái có một vết sẹo nhỏ cong cong ngay phía dưới cằm phải, rất khó nhận biết và đã mờ đi theo thời gian, nhưng vẫn khiến người xung quanh chú ý vì ở Katie mọi thứ còn lại đều quá hoàn mỹ, khuôn mặt của cô bé là sự pha trộn hoàn hảo, không tì vết giữa vẻ đẹp góc cạnh, u uất của mẹ và vẻ điển trai rất bụi bặm của cha, cùng đôi mắt và mái tóc màu nhạt của hắn.
“Chính xác một trăm phần trăm chứ?” tay trợ lý pháp y hỏi.
“Chín mươi chín,” Sean đáp. “Phải chờ cha cô ta nhận diện ở nhà xác đã. Nhưng mà đúng là cô ấy đấy.”
“Cậu có thấy phía sau đầu của cô ta không?” Whitey cúi xuống dùng cây bút hất tóc trên vai của cô gái sang một bên.
Sean nhìn kỹ lại và thấy phía dưới hộp sọ của cô gái bị bay mất một miếng da nhỏ. Máu chảy đen cả gáy.
“Ý anh là cô ấy bị bắn?”
Anh quay sang hỏi nhân viên pháp y.
Người này gật đầu bảo, “Giống như một vết thương do đạn bắn.”
Sean khẽ lùi lại phía sau để thoát khỏi mùi nước hoa, mùi máu, mùi bê tông ẩm mốc và mùi gỗ mục. Trong giây lát anh thầm mong mình có thể kéo bàn tay đang nắm chặt bên tai của Katie Marcus xuống, như thể chỉ cần là thế thì những vết bầm tím mà anh nhìn thấy cũng như không nhìn thấy trên thân thể cô dưới lớp quần áo sẽ lập tức bốc hơi, và cơn mưa máu sẽ rút khỏi cơ thể và mái tóc của cô, và cô sẽ bước ra khỏi nấm mồ này, dụi mắt tỉnh giấc, người vẫn còn hơi bồng bềnh.
Anh chợt nghe thấy một âm thanh chấn động vang lên từ phía bên phải, tiếng nhiều người cùng hét lên một lúc, tiếng chân chạy rầm rập điên cuồng và tiếng chó sủa giận dữ. Nhìn ra thì thấy Jimmy Marcus và Chuck Savage đang hùng hổ xuyên qua bụi cây phía đằng xa nơi tiếp giáp với bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận có màu xanh rì chạy thoai thoải duyên dáng tới chân cột chiếu phim nơi mọi người vẫn tụ tập, trải chăn ra ngồi xem kịch vào mùa hè.
Có ít nhất tám cảnh sát mặc đồng phục và hai cảnh sát mặc thường phục xông ra chặn lấy Jimmy và Chuck. Chuck bị tóm ngay lập tức nhưng Jimmy rất nhanh nhẹn luồn lách thoát ra được. Với một loạt những cú xoay người khó tin, Jimmy nhanh như chớp thoát ra khỏi vòng vây khiến những người đuổi theo hắn há hốc mồm vì kinh ngạc. Nếu không bị trượt chân ngã lăn xuống dốc thì hẳn hắn đã tới được chân màn hình mà không có ai ngăn cản ngoại trừ Krauser và Friel.
Nhưng hắn lại bị ngã, trượt chân và vẫn còn kịp liếc Sean một cái trước khi nằm sấp xuống, cằm vục xuống đất. Một cảnh sát trẻ, mặt mũi vuông vắn, cơ thể rắn chắc như một vận động viên thể thao lao tới đè lên người hắn như một vận động viên thể thao lao tới đè lên người hắn như thể Jimmy là một cái ván trượt rồi cả hai bọn họ cùng lăn lông lốc vài mét nữa cho tới khi xuống tới chân đồi. Viên cảnh sát kéo hai tay Jimmy ra sau lưng, chuẩn bị tra còng số tám vào tay hắn.
Sean bước lên sân khấu và bảo, “Này, này. Đó là cha của nạn nhân. Chỉ cần giữ anh ta lại không cho vào đây.”
Viên cảnh sát trẻ nhìn lên, vẻ giận dữ, người đầy bùn đất.
“Chỉ cần kéo anh ta lại. Cả hai người bọn họ.” Sean nhắc lại.
Anh nói xong liền quay lưng đi về chỗ cũ, đúng lúc nghe thấy Jimmy gọi tên mình, giọng hắn khàn khàn như thể những tiếng la hét trong đầu hắn đã làm hỏng hết dây thanh quản. “Sean!”
Sean khựng lại, thấy Friel đang nhìn anh.
“Hãy nhìn tôi đây, Sean.”
Sean quay lại, thấy Jimmy đang vồng người lên dưới sức mạnh của viên cảnh sát trẻ, một vệt bùn đen vương trên cằm cùng với mấy cọng cỏ.
“Cậu đã tìm thấy con bé phải không? Có đúng là nó không?” Jimmy gào lên. “Đúng là nó không?”
Sean bất động đứng đó, hứng lấy ánh mắt của Jimmy và nhìn lại cho tới khi đôi mắt rừng rực của Jimmy cũng nhìn thấy những gì mà Sean vừa thấy, rằng thế là hết, rằng nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất cuối cùng đã trở thành hiện thực.
Jimmy bắt đầu gào thét, từng đống dãi nhớt văng ra từ miệng hắn. Một viên cảnh sát nữa chạy xuống đồi để giúp đồng đôi giữ chặt lấy Jimmy. Sean liền quay mặt đi. Những tiếng gào thét của Jimmy vang lên trong không khí không gay gắt, chói tai mà trầm đục, thoát ra từ cổ họng, như tiếng một con thú vừa bị thương. Sean đã nghe không ít tiếng gào khóc của cha mẹ các nạn nhân. Tất cả đều có chung một điểm, một nỗi ai oán não nùng, một lòng niệm xin Chúa hay lý lẽ quay trở lại nói với họ rằng đó chỉ một giấc mơ. Nhưng tiếng gào thét của Jimmy thì không giống như vậy, nó chỉ có tình yêu và cuồng nộ, ở mức độ ngang bằng nhau, khiến chim bay trên cành dáo dác và âm vang tới tận dòng kênh.
Sean quay trở lại nhìn xuống thi thể của Katie Marcus. Connolly, thành viên mới của đội, lại gần bên cạnh anh cùng nhìn xuống một lúc lâu, không nói năng gì. Tiếng gào thét của Jimmy ngày càng khàn đặc và đau đớn như thể mỗi lần hít thở đều nuốt vào một mảnh kính vỡ.
Sean tiếp tục nhìn Katie với nắm tay siết lại bên thái dương dưới cơn mưa máu và đám đạo cụ sân khấu bằng gỗ phía bên cạnh đã ngăn cản con đường sống của con bé. Phía bên phải, Jimmy tiếp tục gào thét khi người ta kéo ngược hắn lên đồi và một chiếc máy bay trực thăng sà xuống bay qua chỗ họ, tiếng động cơ kêu ầm ĩ mỗi khi nó bay ra phía bờ kênh rồi quay trở lại. Sean đoán đó là trực thăng của đài truyền hình. Tiếng động của nó nghe êm ái hơn trực thăng của cảnh sát.
Connolly mấp máy môi thì thào, “Anh đã bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng như thế này chưa?”
Sean nhún vai. Đã nhìn thấy thì sao chứ. Đến một lúc nào đó, người ta không còn muốn so sánh nữa.
“Tôi muốn nói, đây là…” Connolly lắp bắp, cố tìm ra từ ngữ chính xác, “đây là một dạng…” Cậu ta quay mặt đi chỗ khác, nhìn ra rừng cây xa xa, mắt mở to vẻ bất lực như định nói tiếp điều gì đó.
Nhưng rồi cậu ta ngậm miệng lại và sau đó quyết định không cố tìm từ ngữ để diễn tả nó nữa.