Dave trên đường đón Michael đi học về tới đoạn rẽ thì thấy Sean Devine và một người nữa đang đứng dựa vào một chiếc xe sedan màu đen đỗ trước cổng nhà họ. Chiếc xe sedan màu đen mang biển của chính quyền bang, trên xe có nhiều thiết bị ăng ten tới mức có thể phát thông điệp tới tận sao Kim và chỉ cần liếc qua người bạn đồng hành của Sean từ khoảng cách mười lăm mét cũng có thể nhận ra ông ta là cảnh sát. Ông ta có cái cằm vểnh lên, trông hơi phô trương rất tiêu biểu cho vẻ mặt cảnh sát cũng như dáng đứng trụ vào hai gót chân nhưng chỉ chực lao bổ về phía trước. Nếu như những chi tiết đó còn chưa đủ sức nặng thì mái đầu húi cua kiểu nhà binh ở một người ngoài bốn mươi và cặp kính giọt lệ gọng vàng chính là một gợi ý hết sức rõ ràng.
Dave siết chặt lấy tay Michael và có cảm giác như ai đó vừa lôi một con dao cắm trong nước đá ra đâm phập vào phổi anh. Anh toan dừng lại, hai bàn chân như muốn mọc rễ trên vỉa hè, nhưng dường như có một sức mạnh nào đó thúc anh về phía trước và anh hy vọng biểu hiện của anh thật bình thường, thoải mái. Sean quay đầu về phía hai cha con anh, ánh mắt ban đầu có vẻ thờ ơ nhưng đột nhiên trở nên sinh động khi bắt gặp ánh mắt của Dave.
Cả hai cùng mỉm cười, nụ cười của Dave nở ra hết cỡ còn Sean cũng toét cả miệng khiến Dave hơi sửng sốt vì nét mặt của Sean giống như là cậu ta thực sự phấn khởi.
“Dave Boyle,” Sean nói và rời khỏi chiếc xe, chìa tay ra. “Đã bao lâu rồi nhỉ?”
Dave bắt tay Sean và lại thêm một lần sửng sốt vì ngạc nhiên khi Sean vui vẻ vỗ vai anh.
“Từ hồi gặp nhau ở Tap,” Dave nói. “Sáu năm rồi đấy nhỉ?”
“Ừ. Khoảng thế. Trông cậu khá đấy, bạn già.”
“Cậu dạo này thế nào, Sean?” Dave đột nhiên cảm thấy trong lòng ấm áp, một thứ cảm giác mà lý trí khuyên anh nên tránh xa.
Nhưng tại sao phải trốn tránh? Bạn bè ngày xưa chả còn lại mấy người. Không phải là do những nguyên nhân cũ rích như đi tù, nghiện hút hay bị cảnh sát bắt. Mà là rất nhiều người trong số họ đã bỏ ra sống ở ngoại ô thành phố hay tới các bang khác với ham muốn được hòa nhập thế giới, gia nhập một câu lạc bộ chơi gôn tiếng tăm, trở thành khách hàng trung thành của các siêu thị, làm chủ các doanh nghiệp nhỏ với các cô vợ tóc vàng và sở hữu màn hình ti vi siêu đại trong phòng khách.
Đúng là chẳng còn mấy người ở lại và Dave chợt thấy xốn xang một niềm tự hào và vui sướng pha lẫn chút âu lo khi siết chặt lấy tay Sean và nhớ lại cái ngày trên sân ga tàu điện ngầm khi Jimmy nhảy xuống đường ray và những ngày thứ Bảy mà với anh chính là những ngày có tên “Không có gì là không thể”.
“Tớ ổn,” Sean nói có vẻ thật lòng dù Dave vẫn nhận thấy nụ cười Sean chợt trở nên hơi gượng gạo. “Còn đây là ai thế này?”
Sean cúi xuống cạnh Michael.
“Con trai tớ, Michael,” Dave nói.
“Chào cháu, Michael. Rất vui được làm quen với cháu.”
“Chào chú.”
“Chú là Sean, một người bạn xưa, rất xưa của bố cháu.”
Dave nhận thấy giọng nói của Sean đã khiến Michael tươi tỉnh hẳn lên. Sean rõ ràng có một chất giọng đặc biệt, giống như những người lồng tiếng quảng cáo những bộ phim sắp công chiếu khiến Michael mặt mũi sáng ngời, cứ như là nhìn thấy một huyền thoại, rằng người đàn ông lạ mặt cao lớn, đầy tự tin này cũng từng vui chơi với bố cậu trên những ngõ phố quen thuộc này, cũng từng có những giấc mơ giống cậu và bạn bè cậu.
“Cháu rất vui được gặp chú,” Michael nói.
“Chú rất vinh dự, Michael.” Sean bắt tay Michael rồi đứng thẳng dậy nói với Dave. “Thật là một cậu bé xinh xắn, Dave. Celeste dạo này thế nào?”
“Tốt, tốt.” Dave cố nhớ lại tên người phụ nữ mà Dave lấy làm vợ nhưng chỉ nhớ ra được là họ gặp nhau ở trường đại học. Laura? Hay là Erin nhỉ?
“Cho tớ gửi lời chào tới cô ấy nhé!”
“Dĩ nhiên rồi. Cậu vẫn làm bên cảnh sát bang à?” Dave khẽ nheo mắt vì ánh mặt trời ló ra sau một đám mây phản chiếu trên chiếc xe màu đen bóng nhẫy của cảnh sát.
“Ừ,” Sean nói. “Đây là trung sĩ Powers, Dave. Sếp của tớ. Tổ điều tra án mạng của tiểu bang.”
Dave bắt tay trung sĩ Powers, hai từ Án mạng treo lơ lửng giữa hai người bọn họ.
“Ông khỏe không?”
“Rất tốt, ông Boyle. Ông thì sao?”
“Cũng ổn.”
“Dave này,” Sean lên tiếng, “cậu có vài phút không, bọn tớ chỉ muốn hỏi cậu vài câu nhanh thôi.”
“Ừ, có. Chuyện gì vậy?”
“Chúng ta có thể vào trong nhà nói chuyện được không, ông Boyle?” Trung sĩ Powers nghển đầu về phía cửa nhà Dave.
“Dĩ nhiên rồi.” Dave lại cầm lấy tay Michael. “Mọi người đi theo tôi nào.”
Trong lúc leo lên cầu thang qua căn hộ của ông McAllister, Sean bảo, “Nghe nói ngay cả ở đây, tiền thuê nhà cũng đang tăng lên.”
“Ngay cả ở đây,” Dave nói, “người ta cũng cố biến thành khu Thượng, mỗi góc phố lại có một cửa hàng đồ cổ.”
“Khu Thượng ư, cậu nhớ ngôi nhà của bố tớ không? Họ chia ra thành những căn hộ kiểu mới.” Sean cười.
“Cậu không nói đùa đấy chứ? Đó là một ngôi nhà rất đẹp mà.”
“Tất nhiên là ông ấy đã bán nó đi trước khi thị trường lên giá.”
“Và bây giờ là khu căn hộ kiểu mới?” Dave nói, giọng vang lên sang sảng trong cầu thang hẹp. Anh khẽ lắc đầu. “Số tiền mà đám trẻ hãnh tiến kia trả cho mỗi căn hộ chắc bằng tiền bán cả nhà của bố cậu đấy.”
“Khoảng thế,” Sean nói. “Nhưng chúng ta có thể làm gì chứ?”
“Tớ không biết, nhưng vẫn nghĩ hẳn phải có cách nào ngăn cản bọn chúng lại chứ. Tống chúng về nơi chúng đã lớn lên cùng với những chiếc máy điện thoại di động khốn kiếp của chúng. Một người bạn tớ hôm gì có nói thế này ‘Cái mà địa phương chúng ta cần là một làn sóng tội phạm gia tăng, mẹ kiếp.’” Dave nói rồi cười lớn. “Điều đó sẽ khiến giá địa ốc tụt xuống như cũ. Giá thuê nhà cũng vậy. Đúng không?”
“Các cô gái trẻ vẫn tiếp tục bị sát hại trong công viên Pen, ông Boyle, mong ước của ông rất có thể trở thành hiện thực.” Trung sĩ Powers bảo.
“Ôi, đấy đâu phải mong ước cũng như quan điểm của tôi.” Dave nói.
“Tất nhiên rồi,” trung sĩ Powers đáp lại.
“Bố lại vừa chửi thề rồi, bố.” Michael lên tiếng.
“Xin lỗi con, Mike. Chuyện đó sẽ không tái diễn nữa.” Anh quay đầu lại nháy mắt với Sean rồi mở cửa ra.
“Vợ ông có nhà không ông Boyle?” Trung sĩ Powers hỏi khi họ bước vào bên trong.
“Vợ tôi hả? Không. Không. Cô ấy không có nhà. Mike này, con đi làm bài tập nhé, được không? Sau đó chúng ta lập tức tới nhà chú Jimmy và dì Annabeth.”
“Bố ơi con muốn…”
“Mike,” Dave nói và nhìn xuống con trai. “Con hãy lên gác ngay. Bố và các chú đây cần nói chuyện.”
Michael lập tức có cái vẻ của một đứa bé bị bỏ rơi khi bị gạt ra khỏi những cuộc đối thoại của người lớn. Thằng bé bước về phía cầu thang, hai vai thõng xuống, hai bàn chân kéo lê như bị buộc đá. Rồi nó lại thở dài cái điệu thở dài của mẹ nó và leo lên cầu thang.
“Rất điển hình,” trung sĩ Powers vừa nói vừa ngồi xuống ghế sofa trong phòng khách.
“Ông nói gì cơ?”
“Cái kiểu thõng vai của thằng bé. Con trai tôi vào tuổi đó cũng thường có động tác giống y như vậy mỗi khi bị bố mẹ bắt đi ngủ.”
“Thế à?” Dave nói rồi ngồi xuống chiếc ghế bành ở phía bên kia bàn uống nước.
Lúc đầu Dave hết nhìn Sean rồi lại nhìn trung sĩ Powers rồi hai người này quay ra nhìn anh, mắt nhướng lên, tất cả đều chờ đối phương lên tiếng trước.
“Cậu có nghe nói về Katie Marcus chứ?” Sean hỏi Dave.
“Dĩ nhiên rồi,” Dave nói. “Tớ tới nhà họ sáng nay. Celeste vẫn còn ở đó. Chúa ơi, thật là một tội ác kinh hoàng.”
“Đúng vậy,” trung sĩ Powers nói.
“Các ông đã bắt được hắn chưa?” Dave vừa hỏi vừa lấy lòng bàn tay phải xoa lên vết sưng phồng trên tay trái rồi chợt nhận ra động tác luống cuống ấy liền ngả lưng ra ghế, đút hai tay vào túi quần, cố tỏ ra vẻ thản nhiên.
“Chúng tôi vẫn đang điều tra vụ này. Ông có thể tin tưởng ở chúng tôi, ông Boyle.”
“Jimmy đối phó với chuyện này ra sao?” Sean hỏi.
“Cũng khó nói.” Dave nhìn Sean, hài lòng vì có thể rời mắt khỏi trung sĩ Powers, có gì đó trên khuôn mặt của người đàn ông này khiến anh không cảm thấy thoải mái, cái cách ông ta nhìn chòng chọc vào người khác như có thể đọc được tất cả những dối trá mà người ta muốn che giấu, ngay cả những lời nói dối đầu tiên trong đời.
“Cậu biết Jimmy là người thế nào rồi đấy,” Dave nói.
“Cũng không hẳn. Giờ thì tớ chẳng còn biết gì nữa.”
“Thì cậu ấy vẫn cái gì cũng giữ kín trong lòng như hồi xưa,” Dave nói. “Chả tài nào mà đoán nổi trong đầu cậu ấy đang nghĩ gì.”
Sean gật đầu đồng tình. “Bọn tớ tới đây là vì…”
“Tớ có nhìn thấy con bé,” Dave nói. “Không rõ cậu có biết không.”
Dave nhìn Sean, Sean xòe hai bàn tay ra ý nói để Dave tiếp tục.
“Đêm ấy,” Dave kể, “tớ đoán là vào đêm mà con bé bị giết, tớ nhìn thấy nó ở quán McGills.”
Sean và viên cảnh sát kia trao đổi một cái nhìn, sau đó Sean cúi người về phía trước, nhìn thẳng vào Dave một cách thân thiện. “Đúng thế, Dave, đó cũng chính là lý do khiến bọn tớ tới đây. Tên cậu xuất hiện trong danh sách các khách hàng tới quán McGills đêm đó theo trí nhớ của người pha chế rượu. Nghe nói Katie đã quậy tưng bừng ở đó.”
Dave gật đầu. “Con bé và một người bạn có nhảy nhót một lúc trên quầy bar.”
“Lúc đó họ đã khá say rồi phải không?” Viên cảnh sát kia hỏi.
“Đúng thế, nhưng…”
“Nhưng sao cơ?”
“Nhưng không tới mức mất hết lý trí. Bọn nhóc có nhảy nhót nhưng không thoát y hay làm những trò nhảm nhí khác. Mấy đứa con gái bao nhiêu, mười chín tuổi thì phải. Cậu biết rồi đấy.”
“Mười chín tuổi mà được phục vụ rượu ở quán bar thì có nghĩa là quán bar đó sẽ bị rút giấy phép bán rượu một thời gian,” trung sĩ Powers lên tiếng.
“Ông thì chưa từng sao?”
“Gì cơ?”
“Khi còn trẻ, chả lẽ ông chưa từng tới quán bar uống rượu dù chưa đủ tuổi?”
Trung sĩ Powers chỉ mỉm cười, nhưng nụ cười, giống như ánh mắt của ông, khiến Dave có cảm giác như bị nhìn thấu, như thể mỗi bộ phận trên người ông ta đều có khả năng dò xét người khác.
“Ông có thể cho chúng tôi biết là ông rời quán McGills vào lúc mấy giờ được không, ông Boyle?”
Dave nhún vai. “Có lẽ khoảng một giờ hay gì đó.”
Trung sĩ Powers ghi lại chi tiết đó vào cuốn sổ tay đặt trên đầu gối.
Dave quay ra nhìn Sean.
“Chỉ là kiểm tra lại tất cả các chi tiết cho chắc chắn. Cậu ở đó với Stanley Kemp đúng không? Chính là Stanley Khổng Lồ?”
“Đúng vậy.”
“Cậu ta dạo này thế nào rồi? Nghe nói con cậu ấy mắc bệnh ung thư gì đó.”
“Bệnh máu trắng,” Dave nói. “Từ mấy năm nay. Thằng bé mất rồi. Mới bốn tuổi đầu.”
“Ôi trời,” Sean nói, “đúng là hãi hùng. Mẹ kiếp. Chả ai có thể biết trước được. Một phút trước còn lượn tung giời, phút sau rẽ một phát, dính phải một thứ bệnh kỳ quặc nào đó rồi năm tháng sau lăn ra chết. Thế giới này là thế.”
“Đúng vậy. Nhưng Stan thì xem ra vẫn ổn. Cậu ấy có một việc làm tốt ở Edison, vẫn chơi bóng rổ cho câu lạc bộ Park League các tối thứ Ba và thứ Năm hằng tuần.”
“Vẫn là nỗi kinh hoàng trước cầu môn chứ?” Sean cười.
Dave cũng bật cười. “Vẫn chuyên dùng khuỷu tay chèn ép người khác.”
“Cậu có biết các cô gái rời khỏi quán lúc mấy giờ không?” Sean hỏi, tiếng cười vẫn còn ngân nga trong họng.
“Tớ cũng chẳng biết. Vào cuối trận đấu của đội Sox.” Dave trả lời.
Sao Sean lại hỏi vòng vo như vậy? Cậu ta có thể hỏi trực tiếp nhưng lại muốn mượn cớ với câu chuyện của Stanley Khổng Lồ. Không phải vậy sao? Hay cậu ấy chỉ tiện hỏi thế. Dave cũng không biết nữa. Liệu anh có phải là một kẻ bị tình nghi không? Anh thực sự bị tình nghi trong cái chết của Katie sao?
“Một trận đấu muộn,” Sean nói. “Theo giờ California.”
“Khoảng mười giờ ba mươi lăm, đúng vậy. Có thể nói họ đi trước tôi khoảng mười lăm phút.”
“Nghĩa là khoảng mười hai giờ bốn mươi lăm.” Viên cảnh sát kia nói.
“Khoảng đấy.”
“Có biết họ đi đâu không?”
Dave lắc đầu. “Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy họ.”
“Vậy sao?” chiếc bút của trung sĩ Powers chực sẵn trên đầu gối.
“Đúng vây,” Dave gật đầu.
Trung sĩ Powers lại ghi chép vào sổ, ngòi bút loẹt xoẹt trên giấy như một cái vuốt nhỏ.
“Dave, cậu có nhớ chuyện một gã ném chìa khóa vào người khác không?”
“Gì cơ?”
“Có một gã,” Sean vừa nói vừa giở sổ của mình ra, “tên là Joe Crosby. Các bạn của hắn ta muốn giữ chìa khóa xe của hắn lại. Hắn ta liền ném nó vào họ. Đang lên cơn mà. Cậu có chứng kiến cảnh đó không?”
“Không. Tại sao?”
“Nghe cứ như chuyện đùa,” Sean nói. “Không muốn rời khỏi chìa khóa của mình nên ném nó đi. Đúng là triết lý của người say có khác.”
“Chắc thế.”
“Cậu có để ý thấy bất cứ chuyện gì bất thường đêm hôm đó không?”
“Ý cậu là gì?”
“Chẳng hạn như ai đó trong quán bar nhìn các cô gái một cách vô cùng thân thiết? Những kẻ như vậy, cậu biết đấy, chuyên nhìn các phụ nữ trẻ với một mối thù hận chất chứa, vẫn còn chấp nhất chuyện ngày xưa phải ngồi nhà không được tham dự dạ hội tốt nghiệp vì chẳng có cô gái nào thèm để ý tới và cho tới giờ vẫn vậy, tình hình chả khá lên được chút nào. Thế nên họ xem phụ nữ là nguyên nhân của mọi tội lỗi. Cậu biết những gã này chứ?”
“Quả thật là có gặp vài gã như vậy,”
“Có gã nào như vậy xuất hiện ở quán bar đêm đó không?”
“Tớ thì chả nhìn thấy ai như thế cả. Mà tớ chủ yếu là ngồi theo dõi trận đấu. Thậm chí còn chả để ý tới mấy cô gái đó, cho tới khi họ nhảy lên trên quầy bar.”
Sean gật đầu.
“Một trận bóng hay,” trung sĩ Powers nói.
“Đúng thế, Pedro chơi thật xuất sắc. Thiếu điều thì đội kia thua trắng nếu không có cú sai lầm ngớ ngẩn ở hiệp thứ tám.”
“Không sai. Anh ta đúng là đáng đồng tiền bát gạo.”
“Anh ấy là tay chơi xuất sắc nhất hiện nay,” Trung sĩ Powers quay sang Sean và hai bọn họ cùng lúc đứng dậy.
“Chỉ có vậy thôi sao?” Dave hỏi.
“Vâng, ông Boyle.” Ông ta bắt tay Dave. “Cảm ơn sự giúp đỡ của ông.”
“Không có gì. Rất vui lòng được giúp đỡ các ông.”
“Ôi, chết, quên béng mất.” Trung sĩ Powers nói. “Tôi quên chưa hỏi, ông đi đâu sau khi rời khỏi quán McGills, thưa ông?”
“Về đây.” Những lời đó vuột ra khỏi miệng Dave trước khi anh kịp động não.
“Về nhà ư?”
“Đúng thế.” Dave cố giữ ánh mắt kiên định, giọng nói rành rọt.
Trung sĩ Powers lại giở sổ ra, “Về tới nhà vào lúc một giờ mười lăm.” Ông ta ngước nhìn Dave hỏi lại. “Đúng không?”
“Khoảng thế.”
“Vậy được rồi, ông Boyle. Cảm ơn ông lần nữa.”
Trung sĩ Powers đã đi ra tới gần cầu thang còn Sean dừng lại cạnh cửa và bảo, “Gặp lại cậu thực sự rất vui, Dave.”
“Tớ cũng vậy,” Dave trả lời, cố nhớ ra điểm gì khiến anh không thích Sean lúc họ còn nhỏ. Nhưng không tìm thấy câu trả lời.
“Chúng ta thỉnh thoảng gặp nhau uống bia một chút,” Sean nói. “Hẹn sớm gặp lại.”
“Tớ cũng hy vọng thế.”
“Vậy được rồi. Cậu nhớ bảo trọng nhé, Dave.”
Họ bắt tay và Dave cố không nhăn mặt trước áp lực khiến bàn tay sưng của anh đau nhói.
“Cậu cũng vậy, Sean.”
Sean đi xuống dưới cầu thang trong khi Dave đứng ở trên nhìn xuống. Sean thò tay ra sau đầu vẫy một lần nữa và Dave cũng vẫy lại mặc dù biết là Sean không nhìn thấy.
Anh quyết định dùng một ly bia trong bếp trước khi quay trở lại nhà Jimmy và Annabeth. Anh hy vọng Michael không chạy xuống khi nghe thấy Sean và viên cảnh sát kia đã đi khỏi vì anh cần vài phút tĩnh lặng để chấn chỉnh lại đầu óc, suy nghĩ một cách mạch lạc. Anh thực sự vẫn không hiểu chuyện gì đã diễn ra vài phút trước đó trong phòng khách. Sean và tay cảnh sát kia hỏi anh những câu vừa giống như hỏi nhân chứng vừa giống như hỏi một đối tượng tình nghi, sự thiếu nhất quán trong giọng điệu của họ khiến anh nghi ngờ lý do họ tạt qua đây. Và sự nghi ngờ ấy khiến anh hết sức đau đầu. Mỗi khi Dave nghi ngờ một tình huống nào đó thì mặt đất dường như chuyển động và trơn trượt dưới chân anh, đầu anh như vỡ làm đôi, giống như bị bổ bằng dao. Điều đó thường khiến anh lên cơn đau đầu và đôi khi còn tệ hơn thế.
Vì đôi khi Dave không còn là Dave nữa. Mà là Thằng Bé. Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói. Nhưng không chỉ có vậy. Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói và Trưởng Thành. Và đó là một sinh vật hoàn toàn khác với anh chàng Dave Boyle giản đơn ngày thường. Thằng bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói và Trưởng Thành là một động vật của bóng đêm, di chuyển xuyên qua các khu rừng một cách lặng lẽ và vô hình. Nó sống trong một thế giới mà những người khác không bao giờ nhìn thấy, không bao giờ đối mặt, không bao giờ biết tới hay không muốn biết là nó tồn tại, một thế giới vận hành như một dòng chảy đen tối bên cạnh thế giới của chúng ta, một thế giới của dế mèn, đom đóm mà mắt thuờng không thể nhìn thấy, chỉ đôi khi xuất hiện ở đuôi mắt trong một phần triệu giây, khi quay đầu lại thì đã hoàn toàn biến mất.
Đó là thế giới mà Dave sống phần lớn thời gian. Không phải là Dave bình thường mà là Dave trong vai Thằng Bé kia. Và Thằng Bé đã trải qua một giai đoạn trưởng thành khó khăn. Ngày càng trở nên giận dữ, hoang tưởng và có khả năng làm những việc mà Dave bình thường không bao giờ có thể tưởng tượng ra. Thường thì Thằng Bé chỉ tồn tại trong thế giới mơ mộng của Dave, giống như một con vật hoang dã, lao như tên bắn qua những lùm cây rậm rạp, chỉ đôi khi hiện ra trong nháy mắt. Chừng nào cậu còn sống trong khu rừng mơ mộng của Dave thì cậu là kẻ vô hại. Từ khi còn nhỏ, Dave đôi khi bị hành hạ bởi những cơn mất ngủ. Chúng có thể không xuất hiện trong nhiều tháng, rồi lại đột ngột ập tới kéo Dave vào trong cái thế giới ồn ã, kích động của những cơn giật mình thức giấc liên tục mà không bao giờ có thể ngủ say. Sau một vài ngày như thế, Dave lại bắt đầu nhìn thấy những ảo ảnh – phần lớn là lũ chuột, nhung nhúc trên những tấm gỗ lát sàn, trên bàn làm việc, đôi khi còn có cả những con ruồi đen lao như tên bắn trong các góc phòng và bay sang phòng khác. Những đốm sáng nhỏ xíu bất ngờ nổ tanh tách trước mắt anh. Mọi người đều như làm bằng cao su. Và Thằng Bé sẽ nhấc chân khỏi ngưỡng cửa của khu rừng mơ mộng để bước ra thế giới. Thường thì Dave có thể giám sát Thằng Bé, nhưng đôi khi Thằng Bé cũng làm Dave sợ. Thằng Bé gào thét trong tai Dave. Thằng Bé có một điệu cười vào những lúc không thích hợp. Thằng Bé đe dọa sẽ rạch lớp mặt nạ thường ngày trên mặt Dave và xuất hiện trước mặt mọi người ở thế giới thực.
Từ ba ngày trở lại đây Dave gần như không ngủ. Anh nằm chong chong cạnh vợ hằng đêm, ngắm nhìn cô ngủ say trong khi Thằng Bé nhảy nhót trong đầu anh, những quả cầu ánh sáng nổ tanh tách trong không khí lại xuất hiện trước mắt anh.
“Chỉ cần chấn chỉnh lại đầu óc một chút,” anh thì thào và nhấp một ngụm bia. Chỉ cần chấn chỉnh lại đầu óc một chút rồi mọi chuyện lại đâu vào đấy, anh tự nhủ khi nghe tiếng Michael đi xuống cầu thang. Chỉ cần kiềm chế cho tới khi mọi chuyện lắng xuống rồi ta sẽ ngủ một giấc thật dài, thật ngon lành và Thằng Bé sẽ trở về khu rừng của nó, mọi người sẽ không giống như được làm bằng cao su nữa, lũ chuột sẽ chui vào lỗ và bọn ruồi đen kia sẽ cút theo chúng.
Khi Dave quay trở lại nhà Jimmy và Annabeth, dẫn theo Michael, thì đã hơn bốn giờ chiều. Trong nhà đã vãn khách và phảng phất một thứ không khí lành lạnh – từ những khay bánh đã vơi một nửa, hơi thuốc lá mọi người hút cả ngày đọng lại trong phòng khách và cái chết của Katie. Suốt buổi sáng và đầu giờ chiều là một thứ không khí trầm mặc, mang tính cộng đồng thể hiện tình yêu thương và sự đau xót nhưng tới khi Dave quay lại thì nó đã biến thành một thứ lạnh lẽo hơn, khi máu đã bắt đầu khó lưu thông vì ngồi quá lâu trên ghế và những lời thì thào tạm biệt bắt đầu vang lên trong hành lang.
Theo Celeste, Jimmy đã ngồi phần lớn buổi chiều ở hiên sau. Anh chỉ thỉnh thoảng vào nhà để kiểm tra Annabeth và nhận thêm những lời chia buồn mới rồi lại trở ra ngoài đó, ngồi dưới đám dây phơi quần áo đã khô và cứng lại từ lâu. Dave hỏi Annabeth xem có cần giúp gì không nhưng cô liên tục lắc đầu và Dave nhận ra rằng việc đó là thừa thãi. Nếu Annabeth thực sự cần nhờ vả chuyện gì thì cũng còn lâu mới tới lượt anh. Và anh cố nhắc nhở mình nguyên nhân tới đây để tránh không cảm thấy bực bội vì điều đó. Anh nhận ra rằng anh không phải là loại người mà người khác tìm đến khi cần giúp đỡ. Đôi khi giống như anh không phải là người của hành tinh này và anh biết với một niềm hối tiếc sâu sắc nhưng cam chịu rằng cả đời này anh sẽ phải sống như một kẻ hiếm khi được người khác trông chờ và tin cậy.
Anh mang cái tâm trạng vật vờ đó ra ngoài hiên sau. Anh tới sau lưng Jimmy lúc này đang ngồi dưới đám quần áo bay phần phật trên một chiếc ghế xếp cũ bằng gỗ, đầu hơi ngẩng lên khi nghe tiếng bước chân Dave lại gần.
“Tôi có làm phiền cậu không Jim?”
“Dave à.” Jimmy mỉm cười khi Dave vòng ra trước ghế của cậu ta. “Không, không. Ngồi xuống đi.”
Dave ngồi lên một chiếc thùng nhựa đựng sữa phía trước Jimmy. Anh có thể nghe thấy từ căn hộ phía sau lưng Jimmy vang lên một hợp âm rì rào, tiếng người nói lao xao không nghe rõ, tiếng bát đĩa leng keng, tiếng cuộc sống chuyển động.
“Cả ngày hôm nay vẫn chưa có cơ hội nói chuyện với cậu,” Jimmy nói. “Cậu thế nào?”
“Cậu thế nào thì có?” Dave nói. “Tôi phải hỏi cậu mới phải.”
Jimmy duỗi hai tay lên quá đầu rồi ngáp. “Mọi người cứ liên tục hỏi tôi thế, cậu có biết không? Cũng đúng thôi.” Cậu ta buông hai tay xuống rồi nhún vai. “Tâm trạng tôi dường như thay đổi theo từng thời khắc. Hiện giờ thì tôi không sao. Nhưng nó có thể sẽ thay đổi, Và chắc là sẽ thay đổi.” Cậu nhún vai lần nữa và nhìn Dave. “Tay cậu sao vậy?”
Dave nhìn xuống bàn tay mình. Anh có cả một ngày để tìm ra một lời giải thích phù hợp nhưng lại quên bẵng mất. “Vết sưng này á? Tôi giúp một người bạn khiêng ghế sofa, lúc lên cầu thang bị kẹp tay vào cửa, ghế chèn lên.”
Jimmy nghển đầu nhìn lại các đốt tay bị sưng và những ngón tay phù nề của Dave. “À, ra thế.”
Dave biết là Jimmy không tin vào câu chuyện của anh nên quyết định phải nghĩ ra một lý do hợp lý hơn nếu có ai lại hỏi anh về vết sưng đó.
“Lại thêm một trò ngớ ngẩn nữa. Tự mưu hại bản thân.” Dave nói.
Jimmy nhìn thẳng vào mặt Dave như hoàn toàn quên bẵng câu chuyện về bàn tay bị sưng, nét mặt khẽ dịu lại. “Gặp lại cậu thật tốt,” hắn nói.
Dave suýt nữa thì thốt lên, “Thật sao?”
Trong hai mươi lăm năm quen biết, Dave nhớ là chưa bao giờ thấy Jimmy vui mừng khi nhìn thấy anh. Đôi khi anh có cảm giác như Jimmy không thấy phiền khi gặp anh nhưng vui mừng thì lại là một chuyện khác. Ngay cả khi hai người quay trở lại trong cuộc sống của nhau vì kết hôn với hai chị em họ con cô con cậu, Jimmy cũng chưa bao giờ có biểu hiện gì cho thấy mối quan hệ của họ khác với những người quen biết thông thường. Sau một thời gian thì Dave cũng bắt đầu chấp nhận thái độ đó của Jimmy.
Rằng họ chưa bao giờ là bạn bè của nhau. Rằng họ chưa bao giờ cùng nhau chơi bóng chày, đá ống bơ và trốn tìm trên phố Rester. Họ chưa bao giờ, trong suốt một năm dành mọi ngày thứ Bảy giao du với Sean Devine, chơi trò chiến tranh trong các hầm mỏ khai thác đá dăm trên phố Harvest, leo trèo trên mái nhà ở khu kho công nghiệp gần công viên Pope, cùng xem phim Hàm cá mập ở rạp Charles để mà sợ rúm lại ở trên ghế và la hét ầm ĩ. Họ cũng chưa bao giờ cùng đi xe đạp lao dốc, tranh cãi với nhau xem ai sẽ là Starsky, ai là Hutch và ai phải đóng vai Kolchak, những nhân vật chính trong bộ phim Kẻ rình rập về đêm. Những cú trượt mạo hiểm đến vỡ cả xe trượt từ trên đồi Somerset những ngày đầu tiên sau cơn bão tuyết lịch sử năm 1975 cũng chưa từng xảy ra. Chiếc xe ô tô mùi táo đó cũng chưa bao giờ lăn bánh trên phố Gannon.
Thế mà một ngày sau khi con gái mất, Jimmy Marcus lại ngồi đây và nói rằng gặp lại Dave thật tốt và Dave có cảm giác nó cũng chân thành như biểu hiện của Sean hai tiếng trước đây.
“Tôi cũng vậy, gặp lại cậu thật là tốt, Jim.”
“Các bà vợ của chúng ta cầm cự thế nào rồi?” Jimmy hỏi, mắt gần như có tia cười láu lỉnh.
“Chắc là ổn thôi. Nadine và Sara đâu rồi?”
“Ở chỗ ông ngoại. Này, cậu nhớ cảm ơn Celeste cho tôi nhé! Cô ấy đúng là vị cứu tinh của chúng tôi hôm nay.”
“Jimmy, cậu không cần phải cảm ơn ai cả. Có thể làm được gì, tôi và Celeste đều rất sẵn lòng.”
“Tôi biết.” Jimmy vươn tay ra siết chặt lấy cánh tay Dave. “Cảm ơn cậu.”
Trong giây phút đó, có phải nhấc bổng cả một ngôi nhà lên cho Jimmy thì Dave cũng làm, Jimmy bảo đặt đâu thì anh sẽ ngồi đó.
Và anh suýt thì quên mất lý do mà anh tới đây là để nói với Jimmy rằng anh đã nhìn thấy Katie ở quán McGills vào tối thứ Bảy. Anh cần phải nói chuyện đó ra ngay lập tức vì nếu trì hoãn thì Jimmy thể nào cũng nghi ngờ. Anh cần phải nói với Jimmy trước khi người khác làm chuyện đó.
“Cậu có biết hôm nay tôi vừa gặp ai không?”
“Ai cơ?”
“Sean Devine. Cậu có nhớ cậu ta không?”
“Nhớ chứ.” Jimmy nói. “Tôi vẫn còn giữ chiếc găng chơi bóng chày của cậu ta đây này.”
“Gì cơ?”
Jimmy phủi tay bảo, “Cậu ta giờ là cảnh sát. Cậu ta thực ra đang điều tra về sự việc của Katie. Chính cậu ta phụ trách vụ án này.”
“Đúng vậy, cậu ấy có ghé qua chỗ tôi.”
“Vậy sao?” Jimmy hỏi. “Cậu ta tới chỗ cậu làm gì?”
Dave cố tỏ vẻ thản nhiên. “Tối thứ Bảy tôi có tới quán McGills, Katie cũng có mặt ở đó. Nên có tên trong danh sách những người ở quán bar đêm hôm ấy.”
“Katie tới đó ư,” Jimmy hỏi, mắt nheo lại. “Cậu nhìn thấy Katie tối thứ Bảy ư Dave? Katie nhà tôi á?”
“Đúng vậy. Tôi ở đó, con bé cũng vậy. Rồi nó rời khỏi đó cùng với hai người bạn và…”
“Diane và Eve?”
“Phải, hai cô gái lúc nào cũng thấy đi cùng con bé ấy. Ba đứa sau đó rời khỏi quán bar, chỉ có vậy thôi.”
“Chỉ có vậy thôi ư,” Jimmy nhắc lại, mắt vẫn nhìn xa xăm.
“Ý tôi là tôi thì chỉ nhìn thấy con bé lúc đó. Nhưng cậu biết đấy, tôi vẫn nằm trong danh sách những người có mặt ở quán bar lúc đó.”
“Cậu có tên trong một danh sách chứ gì.” Jimmy mỉm cười nhưng không phải với Dave mà với một thứ gì đó xa vời. “Tối hôm đó, cậu có nói chuyện với con bé tẹo nào không?”
“Katie á? Không. Tôi xem trận đấu với Stanley Khổng Lồ. Chỉ gật đầu chào thôi. Ngẩng lên thì con bé đã đi mất rồi.”
Jimmy ngồi đó im lặng một lúc, hít thở thật sâu, gật gù một mình. Cuối cùng hắn ngẩng đầu lên nhìn Dave mỉm cười, một nụ cười đau đớn.
“Thật dễ chịu.”
“Gì cơ?”
“Ngồi ở ngoài này. Chỉ ngồi im như thế này không làm gì cả. Thật là dễ chịu.”
“Thế ư?”
“Chỉ ngồi đây và nhìn ra xung quanh,” Jimmy nói. “Cả đời cứ quay cuồng với công việc, con cái, và đủ thứ lằng nhằng trừ lúc ngủ ra thì chả còn giây phút nào nhàn rỗi. Ngay cả ngày hôm nay cũng vậy. Một ngày không bình thường như ngày hôm nay mà tôi vẫn phải đau đầu với mấy chuyện lẻ tẻ. Phải gọi Pete và Sal để đảm bảo là họ sẽ trông coi cửa hàng tử tế. Phải lo tắm rửa mặc quần áo cho hai đứa con gái lúc chúng thức dậy. Phải trông chừng vợ mình xem cô ấy có chịu đựng nổi không, cậu thấy đấy?” Hắn nhìn Dave, nở một nụ cười lạ lùng, đầu chúi về phía trước, người hơi lắc lư, hai tay siết chặt lại thành một nắm đấm. “Tôi vẫn phải bắt tay, nhận những lời chia buồn và tìm chỗ trống trong tủ lạnh để cất thức ăn đồ uống, phải hòa hoãn với bố vợ rồi phải gọi điện tới phòng giám định pháp y xem khi nào họ có thể trả lại xác con gái mình để còn thu xếp với Nhà tang lễ Reed và cha Vera ở nhà thờ Saint Cecilia, tìm một nhà cung cấp thức ăn đồ uống cho khách khứa trong buổi tang lễ, thuê hội trường điếu đám và…”
“Jimmy,” Dave lên tiếng, “có những việc chúng tôi có thể giúp cậu mà.”
Nhưng Jimmy vẫn tiếp tục nói như thể Dave không hề tồn tại.
“… và tôi không thể làm hỏng bất cứ chuyện gì, dù chỉ một chi tiết nhỏ nếu không thì con bé giống như lại chết thêm một lần nữa vì mười năm nữa mỗi khi nghĩ tới con bé, người ta sẽ chỉ nhớ về một đám tang không ra gì mà tôi thì không muốn thế – cậu biết không? – vì Katie, chỉ có một điều có thể miêu tả về con bé là ngay từ khi còn nhỏ, từ khi mới sáu tuổi đã là một đứa gọn gàng, ngăn nắp, quần áo chỉn chu nên thật dễ chịu khi có thể ra ngoài này, ngồi xuống, rồi chỉ ngồi đó nhìn ra xung quanh, nghĩ về những kỷ niệm về Katie khiến tôi có thể bật khóc, bởi vì, Dave này, tôi thề với cậu là tôi bắt đầu khó chịu vì vẫn chưa thể khóc cho con bé, con gái của tôi mà tôi lại không tài nào khóc được.”
“Jim này.”
“Gì cơ?”
“Cậu đang khóc đấy thôi.”
“Thật sao?”
“Sờ lên mặt mà xem.”
Jimmy đưa tay lên chạm vào những dòng nước mắt rớt trên gò má rồi rụt tay lại nhìn những ngón tay ươn ướt trong chốc lát.
“Tệ thật,” cậu ta nói.
“Cậu muốn ngồi lại một mình không?”
“Không. Dave. Không cần. Nếu được cậu hãy ngồi lại đây một lát.”
“Được chứ, Jim. Được chứ.”